Tiểu luận Phương thức bảo vệ quyền sở hữu - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

MỤC LỤC:

ĐẶT VẤN ĐỀ 2

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .4

1. Một số vấn đề lý luận .4

1.1. Kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền) .4

1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp .5

1.3. Kiện yêu câud bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền) .6

2. Thực trạng .7

3. Đánh giá việc bảo vệ quyền sở hữu bằng phương thức dân sự - một số giải pháp .15

3.1. Nhận xét 15

3.2. Giải pháp .17

KẾT LUẬN .20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .21

 

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2616 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phương thức bảo vệ quyền sở hữu - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
S ghi nhận và phân biệt nhiều phương thức kiện dân sự khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu. Sự đa dạng của cuộc sống cho ta thấy rằng, sự xâm phạm đến quyền sở hữu khác nhau cùng với những tình tiết khác nhau. Vì vậy vấn đề đặt ra là là phải chọn phương thức nào cho phù hợp với mức độ và các tình tiết của vụ việc. . Kiện đòi tài sản (kiện vật quyền). Kiện đòi tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 256 BLDS: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”. Khi xây dựng cơ chế kiện đòi lại tài sản, các nhà làm luật Việt Nam đã rất cân nhắc trong việc làm sao phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu bảo vệ chủ sở hữu với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình cũng như bảo đảm tính ổn định trong lưu thông dân sự. Vì vậy đối với những tài sản được chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai và đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì không áp dụng việc đòi lại tài sản (theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS hoặc các trường hợp theo quy định tại Điều 257, 258 thì không đòi lại tài sản). ). Tuy nhiên, điều kiện chung cho phương thức kiện đòi tài sản được quy định tại Điều 256, 257, 258 khi chủ sở hữu có đủ các yếu tố sau: - Vật rời khỏi chủ sở hữu hay dời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ; hoặc theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù như tặng, cho, thừa kế theo di chúc… - Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp. - Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp. - Vật là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp khác do pháp luật quy định. 1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với viêc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp. Đây là phương thức cho phép chủ sở hữu kiện tới toà án khi một người nào đó có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp để quyền yêu cầu người này phải chấm dứt hành vi đó. Chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều 165, BLDS quy định: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, BLDS đã tạo điều kiện để các chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện các quyền của mình, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở pháp luật. Người không phải là chủ sở hữu của tài sản cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản nếu như có thỏa thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật (Điều 194 BLDS). Để thực hiện các quyền năng hợp pháp này BLDS đã cho phép chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ, yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó. Ngoại ra, Điều 259 BLDS còn quy định:“Quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp. Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó phải chấm dứt hành vi”. Mục đích chính của phương thức này là nhằm bảo đảm để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường. 1.3. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền). Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản của có quyền kiện tới toà án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Điều 260 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”. Đây được gọi là phương thức kiện trái quyền bởi vì nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp pháp hoặc bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hoặc tài sản bị tiêu huỷ… Lúc này chủ sở hữu không lấy lại đc tài sản của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại. Hoặc người chiếm hữu hợp pháp bán tài sản cho người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu người chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường giá trị của tài sản, ví dụ như: T mượn xe đạp của H rồi mang đi bán cho một người thứ ba ngay tình, H có quyền kiện T để đòi bồi thường thiệt hại… “Nếu hành vi gây thiệt hại cho tài sản nằm trong khuôn khổ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng một nghĩa vụ trong hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện vi phạm hợp đồng. Nếu hành vi gây thiệt hại không phải là hành vi vi phạm hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại cho tài sản người khác cấu thành tội phạm hình sự, chủ sở hữu cũng có thể yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự (bồi thường thiệt hại) trong phiên toà hình sự hoặc tách ra thành vụ kiện dân sự để giải quyết trong phiên toà dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng” ( Bảo vệ quyền sở hữu thông qua phương thức kiện dân sự những ưu điểm và hạn chế so với các phương thức khác – Th.s NGUYỄN THỊ TUYẾT – Khoa Luật dân sự – Trường Đại học Luật Hà Nội). Thực trạng. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta sẽ đi vào xem xét một số vụ án trong thực tiễn, cách giải quyết của tòa án, cũng như những nhận xét của các nhà làm luật. 2.1. Vụ án “Đòi nhà đất” tại Tòa án thành phố H. Nội dung: Năm 1944, cụ Vũ Tá M và cụ Hoàng Thị N mua của ông Ngô Ngọc Khánh một thửa đất diện tích 90m2 tại số 135 phố TS (số cũ 175 làng An Hạ). Đất được cấp bằng khoán điền thổ mang tên hai cụ, số thửa 42 (Trong giấy tờ mua bán năm 1929 giữa ông Khánh với chủ cũ thì trên đất có một nhà cấp 4). Năm 1946, toàn quốc kháng chiến gia đình hai cụ tản cư về quê. Theo lời khai của ông Vũ Ngọc L (con trai của hai cụ) thì nhà đất khóa cửa để lại, không gửi ai; vào các 1971, 1990, 2002 ông L có quay về đòi nhà đất đã bị gia đình ông Đào Văn T chiếm giữ. Tháng 4/2003, ông L khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Đ đòi nhà. Gia đình ông T không trả và cho rằng nhà đất được thừa kế từ cha, mẹ và gia đình ông đã sử dụng ổn định từ năm 1951 (nộp thuế đầy đủ); năm 1991 ông T làm nhà hai tầng và mua thêm một ngôi nhà cấp 4, diện tích 27m2 của anh Nguyễn Văn Đ liền phía sau nhà hai tầng, tổng diện tích hiện gia đình ông T đang sử dụng là 60m2. Tòa án cấp sơ thẩm xác minh: + Nguồn gốc nhà đất gia đình ông T không có, nên chưa làm được thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất (ông T có lời khác nhau về nguồn gốc: Do cha, mẹ ông lấn chiếm đất ao làm nhà; không rõ mua của ai; do mua 60m2 đất ao của cụ Vũ Tá M, nhưng ông T không có bằng chứng về việc mua bán). + Công văn của cơ quan quản lý nhà đất xác định: Nhà số 135 phố TS (Hiện gia đình ông T đang sử dụng) thuộc thửa số 18 bản đồ gốc 104-6G-II-44 có nguồn gốc là một phần thửa số 42 tờ bản đồ số 12 đứng tên cụ Vũ Tá M và vợ là cụ Hoàng Thị N. Quyết định của tòa án: - Bản án dân sự sơ thẩm số 19 ngày 6/10/2004 của Tòa án quận Đ quyết định: Xác nhận nhà mang biển số 175 An Hạ (cũ) nay là 135 phố TS thuộc thửa số 18 thuộc quyền sở hữu của cụ M và cụ N. Chấp nhận yêu cầu kiện đòi nhà đất của ông Vũ ngọc L. Buộc gia đình ông T trả lại diện tích nhà đất thực tế đo là 60m2 (gồm 1 nhà 2 tầng diện tích 38m2, 1 nhà cấp 4 diện tích 25m2) cho ông L. Ông L thanh toán giá trị xây dựng cho gia đình ông T. - Bản án dân sự phúc thẩm số 05 ngày 11/1/2005 của Tòa án thành phố H quyết định: Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Đào Văn T, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án quận Đ Bác yêu cầu đòi nhà đất của ông Vũ Ngọc L. Nhận xét: Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng việc xác minh của cấp sơ thẩm về nguồn gốc nhà đất được hiểu không chính xác và không đầy đủ: “Bằng khoán điền thổ số 175 tổng An Hạ” được hiểu là “Nhà số 175”; phần nhà đất của ông T có hai thửa, thửa 18 sát đường (có nhà 2 tầng) và thửa 22 (nhà cấp 4) nhưng cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa 18 là không đầy đủ. Trên đất có nhà hay không có nhà chưa có căn cứ. Nhận định của tòa án phúc thẩm có phần khiên cưỡng và không toàn diện. Việc hiểu bằng khoán điền thổ 175 là nhà số 175 có thể chính xác hoặc chưa chính xác, nhưng thực chất thửa đất số 42 mang bằng khoán 175 và nhà số 175 cũng tọa lạc trên thửa đất 42 đứng tên cụ M và cụ N. Nội dung công văn của cơ quan nhà đất nêu trên đã giải thích: Thửa số 18 (gia đình ông T đang sử dụng) là 1 phần của thửa số 42 mang tên cụ M và cụ N thuộc bằng khoán điền thổ số 175. Cấp sơ thẩm chỉ xác minh về thửa số 18 vì trước đó ngày 4/6/1998 cơ quan địa chính đã lập “Biên bản xác định mốc giới theo hiện trạng sử dụng đất” thửa số 18 có diện tích 60,8m2 (gồm cả thửa 18 và thửa 22), việc nhập hai thửa vào một có đơn đề nghị của ông T (tài liệu được lưu trong hồ sơ). Như vậy, kết luận của cấp phúc thẩm không có căn cứ. Về nhà trên đất: năm 1929, khi ông Khánh mua của chủ cũ, hợp đồng thể hiện có nhà cấp 4. Hợp đồng mua bán giữa ông Khánh với hai cụ không thể hiện có nhà, cấp phúc thẩm nhận định chưa đủ căn cứ xác định có nhà trên đất. Tuy nhiên cấp phúc thẩm cũng chưa có căn cứ để khẳng định điều này, để làm rõ tình tiết về nhà, cần xác minh việc cụ M và cụ N có ở tại thửa đất này từ khi mua (năm 1944) đến khi đi tản cư; tờ biên lai nộp thuế thổ trạch năm 1953 ghi tên bà Th (mẹ ông T) nộp tiền, nhưng có dòng chữ ghi tên cụ Vũ Tá M. Áp dụng pháp luật: Bản án phúc thẩm nhận định Toà án cấp sơ thẩm áp dụng văn bản pháp luật cũng như xác định quan hệ pháp luật không đúng: Ông L đòi nhà đất mà ông T đã ở từ những năm 1951. Như vậy quan hệ được xác lập trước ngày 1/7/1991, nếu có nhà trên đất thì phải áp dụng Nghị quyết số 58/UBTVQH10 ngày 29/10/1998, nếu chỉ liên quan đến đất thì áp dụng Luật đất đai năm 2003 để giải quyết. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Đòi nhà đất” và áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết là không đúng. Mặc dù nhận định như trên, nhưng Toà án cấp phúc thẩm không chỉ ra căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án; cấp phúc thẩm quyết định bác yêu cầu đòi nhà đất của ông L với nhận định cho rằng quyết định của cấp sơ thẩm chưa đủ căn cứ, thiếu chính xác là không đúng về tố tụng vì đây chỉ là căn cứ để cấp phúc thẩm quyết định huỷ án sơ thẩm để chứng minh, thu thập chứng cứ làm rõ yêu cầu của ông L. 2.2. Vụ án “Đòi bồi thường thiệt hại về tài sản” tại Toà án tỉnh Bến Tre. Nội dung: Ông Nguyễn Văn Lãnh là chủ sở hữu hai chiếc tàu TG 1986 và BĐ 2539. Ông thuê hai tài công sử dụng tàu đánh bắt tài sản. Khi tàu hoạt động có mua một số nguyên vật liệu của ông Trần Văn Tuấn và Trần Văn Bé. Ông Lãnh cho rằng khoản tiền mua nguyên liệu là do các tài công phải trả vì có thoả thuận miệng giữa ông với tài công về hưởng lợi nhuận và chịu chi phí, nhưng điều này không được các tài công thừa nhận, trong khi ông Lãnh lại ký xác nhận nợ với ông Tuấn và ông Bé. Do việc ông Lãnh không trả nợ cho ông Tuấn, ông Bé nên ngày 8/3/2000 các bên yêu cầu Công an huyện giải quyết và lập biên bản hoà giải với nội dung: Ông Lãnh đưa tàu BĐ 2539 về sửa chữa, để lại tàu TG 1986 cùng nhau thuê tài công tại địa phương để làm ăn khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, hai bên đã không thực hiện thoả thuận này và ngày 18/11/2000 khi ông Lãnh định đưa tàu TG 1986 về thì bị ông Tuấn, ông Bé giữ tàu yêu cầu ông Lãnh thanh toán nợ mới được đưa tàu đi. Sự việc đã không được giải quyết dứt điểm đẫn dến tàu chìm thiệt hại 100%. Ngày 4/9/2002, ông Lãnh khởi kiện yêu cầu Toà án huyện Ba Tri buộc ông Tuấn, ông Bé liên đới bồi thường 70% giá trị còn lại của tàu (432.253.000đ x 70% = 302.773.000đ) và tiền mất thu nhập bình quân mỗi tháng 3.000.000đ tính từ tháng 11/2000. Quyết định của tòa án: - Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2006/DS-ST ngày 7/8/2006 của Toà án huyện Ba Tri quyết định: Bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Nguyễn Văn Lãnh đối với ông Trần Văn Tuấn, ông Trần Văn Bé. Buộc ông Lãnh phải trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền là 33.790.000đ (Vốn 15.000.000, lãi 20.790.000đ) - Bản án dân sự phúc thẩm số 21 ngày 18/10/2006 của Tòa án tỉnh Bến Tre quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo của ông Lãnh, sửa án sơ thẩm, xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lãnh về việc bồi thường số tiền 495.000.000đ trong đó tiền thiệt hại tàu là 375.000.000đ và tiền mất thu nhập là 120.000.000đ (48 tháng x 3.000.000đ). Buộc ông Lãnh trả cho ông Tuấn, ông Bé mỗi người số tiền 35.790.000đ trong đó tiền vốn là 15.000.000đ, lãi là 20.000.000đ - Ngày 11/7/2007, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 69/QĐ-KNGĐT-V5 kháng nghị bản án phúc thẩm trên. - Quyết định giám đốc thẩm số 232/2007/DS-GĐT ngày 24/8/2007 của Toà dân sự Toà án tối cao quyết định: Chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC, huỷ án sơ thẩm, án phúc thẩm, xét xử sơ thẩm lại. Nhận xét: Quy định pháp luật: Điều 609 Bộ luật dân sự năm 1995 về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 về “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” tuy tên điều luật có sửa đổi nhưng nội dung đều thể hiện: Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có lỗi khi thực hiện hành vi trái pháp luật xâm hại đến nhân thân, tài sản của người khác mà gây thiệt hại.. Bản án sơ thẩm quyết định bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của ông Lãnh không xem xét đến trách nhiệm của ông Tuấn, ông Bé đã chiếm giữ tàu không có căn cứ pháp luật. Bản án phúc thẩm buộc ông Tuấn, ông Bé liên đới chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo lời khai của ông Lãnh mà không xem xét đến lỗi của các bên đối với thiệt hại xẩy ra. Tại biên bản giải quyết ngày 8/3/2000 các bên không thoả thuận về trách nhiệm giữ gìn, bảo quản tàu. Về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền khai thác, sử dụng, định đoạt tài sản đáp ứng nhu cầu của mình nhưng đồng thời có nghĩa vụ tự bảo quản, giữ gìn tài sản của mình. Vấn đề này đã không được Toà án đề cập khi xem xét trách nhiệm của ông Lãnh để xẩy ra thiệt hại. Nguyên tắc chung trong việc xác định trách nhiệm bồi thường được quy định trong Bộ luật dân sự và trong Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy dịnh của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại không được hai cấp Tòa án áp dụng khi giải quyết tranh chấp. Thực tiễn: Ông Lãnh yêu cầu ông Tuấn, ông Bé bồi thường thu nhập bị mất do tàu bị chiếm giữ, không khai thác đánh bắt hải sản như trong điều kiện bình thường. Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Lãnh mà không đề căn cứ xác định thiệt hại đối với thu nhập bị mất được quy định trong Bộ luật dân sự. Hướng dẫn trong Nghị quyết số 01 nói trên chỉ đề cập thu nhập từ lao động trực tiếp của người lao động, mà chưa có hướng dẫn trong trường hợp thu nhập có được từ lợi nhuận trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Toà án cấp phúc thẩm xác định do tàu bị chìm nên không thể xác định mức độ thiệt hại và chấp nhận lời khai của ông Lãnh: Tàu đóng được 6 năm trước thời điểm các bên thoả thuận việc sử dụng tàu để khắc phục hậu quả, giá trị còn lại của tàu là 70% tương ứng với số tiền là 375.000.000đ để buộc ông Tuấn, ông Bé bồi thường. Có ý kiến khác nhau: ý kiến đồng tình với nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm, căn cứ xác định thiệt hại dựa trên giá trị còn lại của tàu theo lời khai của chủ sở hữu, ý kiến khác cho rằng giá trị còn lại của tàu cần được xác minh từ thực tiễn tại địa phương, nếu chỉ căn cứ lời khai của chủ sở hữu mà không xác minh là thiếu khách quan. 2.3. Vụ án “Đòi Tài sản” tại Toà án tỉnh VP. Nội dung: Ngày 20/2/2002, ông Đặng Huy S ký hợp đồng mua máy xúc đào hiệu DAEWOOSOLAR-130W-III sản xuất năm 1994 của Công ty thương mại Minh Anh với giá 115.000.000đ. Ngày 22/2/2002, bà Hoàng Thị Ch (vợ ông Đặng Huy S) và bà Nguyễn Thị Th ( vợ ông Trần Văn B) ký giấy xác nhận hai gia đình mua chung máy xúc đào hiệu SOLAR 130 sản xuất năm 1998 với giá 270.000.000đ (giấy xác nhận ghi tên ông S, ông B nhưng không có chữ ký tên hai ông), có xác nhận của ủy ban nhân dân xã. Ngày14/5/2003, vợ chồng bà Ch, ông S bán máy xúc cho ông Luân với giá 300.000.000đ. Bà Th khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Ch trả 1/2 trị giá máy xúc mua chung là 135.000.000đ tính đến thời điểm 25/10/2002, sau thời điểm này gia đình bà Ch phải chịu lãi suất ngân hàng và trị giá chênh lệch tài sản. Bà Ch không thừa nhận việc mua chung máy xúc và chữ ký tên bà trên giấy xác nhận mua chung máy. Tòa án thu thập chứng cứ, xác minh cho thấy chỉ có một cái máy xúc. Kết luận giám định của Cơ quan công an tỉnh và Viện khoa học kỹ thuật hình sự Bộ công an đều xác định chữ ký, chữ viết tên là của bà Ch Quyết định của tòa án: Bản án dân sự sở thẩm số 07/DS/ST ngày 18/6/2004 của Tòa án huyện TD quyết định: Buộc gia đình ông S, bà Ch phải trả cho gia đình bà Th tiền bán máy xúc đào và tiền lãi là 164.775.000đ. Bản án dân sự phúc thẩm số 24/DSPT ngay7f 20/4/2005 của Tòa án tỉnh VP quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của gia đình bà Ch. Y toàn bộ án sơ thẩm. Ngày 18/52005 Viện kiểm sát tỉnh VP có công văn số 742/BC-VKS-P5 đè nghị Viện kiểm sát tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Viện kiểm sát tối cao có công văn trả lời VKS tỉnh không có căn cứ kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Nhận xét: Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự: VKS tỉnh cho rằng tài liệu chứng cứ còn nhiều mâu thuẫn: Hợp đồng giữa ông S với Công ty Minh Anh phản ánh máy xúc sx năm 1994, giá mua 115.000.000đ, nhưng giấy xác nhận mua chung máy giữa hai gia đình thì giá mua là 270.000.000đ, máy sx năm 1998. Do vậy, nếu chỉ căn cứ giấy xác nhận mua chung máy để buộc gia đình bà Ch phải thanh toán trả 1/2 trị giá máy xúc mua chung là không đúng, bởi lẽ chiếc máy xúc gia đình ông S mua với máy xúc ghi trong giấy xác nhận mua chung không phải là một. Vấn đề đặt ra: Người khởi kiện đưa ra yêu cầu đòi tài sản và xuất trình chứng cứ là giấy xác nhận mua chung tài sản chứng minh quyền sở hữu của mình đối với 1/2 tài sản. Người bị kiện có nghĩa vụ chứng minh nếu không thừa nhận người khởi kiện có quyền sở hữu. Chứng cứ mà người bị kiện xuất trình phải có giá trị phủ nhận đối với chứng cứ xác định có việc mua chung máy xúc. Đối tượng chứng minh là giá trị pháp lý của giấy xác nhận mua chung máy xúc. Các khả năng chứng minh có thể: giấy xác nhận mua chung máy xúc có sự giả mạo, đây là hợp đồng giả cách, bị lừa dối. Như vậy, để bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn, thì bị đơn phải chứng minh được giấy xác nhận mua chung máy xúc không có giá trị pháp lý đồng nghĩa với việc không có sự kiện mua chung máy xúc hay yêu cầu của nguyên đơn là không có căn cứ. Những tình tiết liên quan đến máy xúc trong hợp đồng và trong giấy xác nhận có thể không đồng nhất, nhưng không có giá trị phủ nhận tình tiết về việc mua chung máy xúc. Như vậy, Bên cạnh nghĩa vụ chứng minh thì các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh như xác định chứng cứ, giá trị chứng minh của chứng cứ, đánh giá chứng cứ cần được xem xét một cách toàn diện… 3. Đánh giá việc bảo vệ quyền sở hữu bằng phương thức dân sự - một số giải pháp. 3.1. Nhận xét: Có thể nhận thấy rằng, so với các phương thức bảo vệ quyền sở hữu khác thì phương thức kiện dân sự có những điểm khác biệt và nó làm nên tính ưu việt cũng như cũng có những hạn chế nhất định so với các phương thức khác. Những ưu điểm chủ yếu của phương thức kiện dân sự gồm có: Một, đây là phương thức mang tính thực tế rất lớn bởi nó xuất phát từ những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu thông thường nảy sinh trong đời sống xã hội, xâm phạm tới các quyền tài sản của các chủ thể và do vậy chủ yếu thuộc sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Do xuất phát điểm là các hành vi xâm phạm quyền sở hữu chủ yếu thuộc pháp luật dân sự nên biện pháp kiện dân sự cũng được áp dụng phổ biến. Hơn nữa, mục đích lớn nhất của chủ thể khi sử dụng phương thức kiện dân sự nhằm bảo vệ quyền sở hữu của mình chính là việc khôi phục lại tình trạng ban đầu (tình trạng trước khi bị vi phạm) về mặt vật chất hay chính là đảm bảo sự nguyên vẹn của tài sản cho chủ sở hữu hoặc cho người chiếm hữu hợp pháp. Sau khi áp dụng các phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có thể khôi phục lại trạng thái tài sản ban đầu hoặc được bù đắp về mặt vật chất cho những xâm phạm đến quyền sở hữu của họ, đáp ứng được lợi ích cơ bản của việc bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể được nhà nước ghi nhận. Hai, phương thức kiện dân sự được áp dụng một cách rộng rãi hơn các biện pháp khác. Thông thường biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong ngành luật hình sự chỉ áp dụng khi hành vi xâm phạm đó được cấu thành tội phạm theo quy định trong BLHS. Mà trong BLHS thì hiện nay quy định chỉ có vài chục hành vi xâm phạm vào 2 nhóm sở hữu chính là sở hữu Xã hội Chủ nghĩa và sở hữu của công dân (từ Điều 133 đến Điều 145 BLHS). Biện pháp thuộc ngành luật hành chính thông thường áp dụng khi tài sản bị xâm phạm tới là tài sản của Nhà nước. Bởi vậy trong rất nhiều trường hợp việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm trên thực tế không phát huy được hiệu quả một cách tuyệt đối. Riêng biện pháp kiện dân sự được áp dụng rộng rãi bởi lẽ: việc xâm phạm tài sản mang tính chất dân sự diễn ra phổ biến; các chủ thể có thể áp dụng các phương thức kiện dân sự một cách dễ dàng bằng việc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấm dứt hành vi vi phạm hoặc yêu cầu chủ thể vi phạm bồi thường thiệt hại. Ba, phương thức kiện dân sự tạo điều kiện rất thuận lợi và dễ dàng cho mọi chủ thể có quyền sở hữu bị xâm phạm tự mình chủ động thực hiện phương thức này. Phương thức bảo vệ trong ngành luật hành chính tuân thủ các thủ tục hành chính tương đối phức tạp của các cơ quan Nhà nước; phương thức trong ngành luật hình sự thì đỏi hỏi phải đáp ứng đủ việc cấu thành tội phạm và tuân theo thủ tục tố tụng hình sự cũng tương đối phức tạp và mất thời gian, khó có thể khôi phục nhanh chóng tình trạng tái sản như ban đầu. Riêng phương thức kiện dân sự thủ tục tương đối nhanh gọn, khắc phục nhanh chóng tình trạng như ban đầu, hơn nữa khi các chủ thể có thể đã đệ đơn yêu cầu toà án ra quyết định buộc chủ thể có hành vi xâm phạm quyền sở hữu chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt hại hoặc đòi lại tài sản cho mình nhưng vẫn có thể được quyền thoả thuận và rút lại đơn kiện. Đó là một số ưu điểm của phương thức kiện dân sự so với các phương thức bảo vệ quyền sở hữu khác. Tuy nhiên, phương thức kiện dân sự cũng mang những hạn chế nhất định, ví dụ trong nhiều trường hợp hiệu quả của các phương thức dân sự trong việc bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế rất thấp. Trong các phương thức dân sự, tự bảo vệ là biện pháp được các chủ thể áp dụng phổ biến nhất nhưng do thiếu tính cưỡng chế và quyền lực nhà nước nên trên thực tế khi có hành vi xâm phạm các chủ thể vẫn phải áp dụng đồng thời các biện pháp khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình. Ngoài ra hiệu quả của việc bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự gắn liền với việc thi hành án dân sự nên trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi công tác thi hành án dân sự cũng là một hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu hợp pháp, người chiếm hữu hợp pháp trên thực tế. 3.2. Giải pháp: 3.2.1. Nên cụ thể hoá quy định về bảo vệ quyền chiếm hữu: Việc coi chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu kéo theo sự đồng nhất giữa bảo vệ quyền sở hữu và bảo vệ quyền chiếm hữu trong BLDS hiện hành của chúng ta trong thời gian qua đã có những biểu hiện bất cập. Chế định pháp luật này vô hình trung đã đặt lên vai người đi kiện (nguyên đơn) nghĩa vụ rất nặng nề là họ phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản tranh chấp, trong điều kiện nước ta hiện nay việc này không hề đơn giản, nhất là đối với bất động sản (nhà, đất) không có giấy tờ chứng nhận, mà trong đa số trường hợp, lỗi không phải do người dân mà do chính cơ quan hành chính Nhà nước triển khai chậm. Chính vì tình trạng cung cấp, xác minh, đánh giá chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn mà thời hạn tố tụng bị kéo dài, dẫn đến số lượng án tồn đọng ngày càng tăng, nhiều bản án thiếu khách quan vì không phản ánh đúng bản chất của vụ việc, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo đảm. Bộ luật dân sự cần phải có những quy định riêng về bảo vệ quyền chiếm hữu. Sự chiếm hữu cần phải được suy đoán là chiếm hữu của chủ sở hữu, đó là một nguyên tắc rất quan trọng trong pháp luật của các nước, thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với công dân trong việc thực hiện quyền của mình. Một vấn đề đặt ra, vậy người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật hay không có được pháp luật bảo vệ không? Theo các quy định Bộ luật dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài học kỳ dân sự- Phương thức bảo vệ quyền sở hữu - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.doc
Tài liệu liên quan