MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I. Lý luận chung về quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. 2
1.Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội 2
2. Tính tất yếu và các loại hình quá độ lên CNXH. 2
2.1.Tính tất yếu của quá độ lên CNXH. 2
2.2. Các loại hình quá độ lên CNXH.
3.Quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
3.1. Tính tất yếu của quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 3
3.2. Khả năng tiến hành quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 4
3.3. Nhận thức về quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB ở Việt Nam.
3.4. Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam .
4.Một số đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam 5
II. Thực trạng nền kinh tế quá độ ở nước ta 6
1. Những thành tựu đã đạt được 6
1.1. Về kinh tế 6
1.2. Về xã hội 8
1.3. Về chính trị 9
2. Những hạn chế 11
2.1.Những hạn chế tồn tại trong kinh tế của thời kì quá độ. 11
2.2. Hạn chế trong quản lý của Nhà nước.
III. Giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 12
1. Giải pháp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 13
2. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường 15
2.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. 15
2.2.Phát triển đồng bộ các loại thị trường.
2.3.Giữ vững chính trị và hoàn thiện hệ thống pháp luật. 16
3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước của Đảng 16
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN 18
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11787 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, lý luận thực trạng và giải pháp thực hiện ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ thành công. Nhưng điều đó không ngăn cản việc tiến lên CNXH; hơn nữa, việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con đường xây dựng CNXH. Việc đưa miền Bắc tiến lên CNXH có ý nghĩa rất lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chính điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 “ Miền Bắc tiến lên CNXH để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên CNXH”. Trong thời đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân dân lao động.
Vì những lẽ đó, Đảng tất yếu lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
2.3. Khả năng tiến hành quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Về khả năng khách quan: Yếu tố khách quan quan trọng đầu tiên giúp chúng ta tiến lên CNXH là Liên Xô lúc đó đã tiến hành thành công cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta cả về vật chất và tinh thần. Sau đó hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã đưa ra cho chúng ta tấm gương khá sinh động về sự thành công và thất bại đã sâu sắc và chi tiếtđến mức có thể từ đó đưa ra những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình cách mạng. Còn đến ngày nay, xu thế quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới đã đóng vai trò tích cực, không những làm cho quá độ bỏ qua CNTB là tất yếu mà còn đem lại điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này. Quá trình quốc tế hoá sản xuất, toàn cầu hoá với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo khả năng cho những nước kém phát triển đi sau tiếp thu, vận dụng đưa vào nước mình lực lượng sản xuất hiện đại và kinh nghiệm của những nước đi trước cũng như tạo khả năng khách quan cho việc khắn phục khó khăn về nguồn vốn, kĩ thuật hiện đại. Điều kiện đó giúp chúng ta tranh thủ được cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta.
Về khả năng chủ quan: Mọi thành công của chúng ta đạt được phải kể đến yếu tố quan trọng bậc nhất là sự lãnh đạo của Đảng và liên minh công nông vững chắc. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac – Lênin luôn luôn nhấn mạnh vai trò của Đảng vô sản trong việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc thực hiện quá trình phát triển rút ngắn ở các nước tiền tư bản nói riêng thì ở Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam là một nhân tố có vai trò quyết định đối với việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước .Và trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những kết quả khả quan như: đã củng cố và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn. Sự lựa chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN của nước ta là phù hợp với sự lựa chọn của nhân dân ta. Các tầng lớp lao động công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng nhau chiến đấu, hy sinh để giành lại độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Do đó họ sẵn sàng liên minh chặt chẽ với nhau và cùng với Đảng để vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành công CNXH.
Ngoài ra, khả năng và nguồn lực trong nước có thể đáp ứng được yêu cầu của thời kì quá độ lên CNXH. Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, chăm chỉ, khéo léo, dễ đào tạo, sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Tài nguyên thiên nhiên của nước ta cũng hết sức giàu có và phong phú tạo điều kiện hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tạo tiền đề xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa
3.Một số đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Nước ta quá độ lên CNXH có những đặc điểm chung của quá độ lên CNXH của các nước trên thế giới như: Đó là thời kì xét trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều do nhiều thành phần không thuần nhất cấu tạo lên; là thời kì mà sự phát triển cái cũ của những trật tự cũ đôi khi lấn át những mầm mống của cái mới của trật tự mới. Thời kì đó có nhiều khó khăn phức tạp, phải trải qua những lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những bước đi đúng đắn và trong quá trình thử nghiệm.
Bên cạnh những đặc điểm chung đó chúng ta tiến hành quá còn có những đặc điểm khác biệt với các quốc gia khác như :chúng ta bắt đầu tiến hành quá độ khi đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền với những chiến lược và nhiệm vụ khác nhau (Đại hội Đảng III năm 1960). Trong quá trình tiến hành quá độ từ Đại hội Đảng III đến Đại hội Đảng VI chúng ta luôn nhận được sự viện trợ giúp đỡ hợp tác của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới mà đặc biệt là Liên Xô thời đó. Nhưng đặc điểm to lớn nhất của chúng ta trong thời kì quá độ là “ từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đó tuy không phải la một quy luật bình thường nhưng rất phù hợp với điều kiện nước ta lúc bấy giờ.
II. Thực trạng nền kinh tế quá độ ở nước ta
1. Những thành tựu đã đạt được
1.1. Về kinh tế
Như ta đã biết dưới ách thống trị của thực dân Pháp nền kinh tế nước ta phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc, kinh tế hết sức nghèo nàn, lạc hậu, nạn đói xảy ra triền miên và kéo dài, nghiêm trọng nhất là vào năm 1945 có tới hàng vạn người có nguy cơ chết đói. Nhưng từ khi cuộc kháng chiến trường kì kết thúc thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì quá độ thì dưới sự lãnh đạo của Đảng tính chất nền kinh tế đã thay đổi. Từ nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến, chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mang tính độc lập mang tính chất dân chủ nhân dân, thoát khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc.
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975 kinh tế đã có những bước phát triển nhất định nhưng kết quả thực sự đáng lưu ý là từ năm 1986 đến nay (thời kì đổi mới). Sau gần 20 năm đổi mới kinh tế đã có những bước chuyển biến đáng mừng.
Thứ nhất: Nền kinh tế trong những năm qua tăng trưởng liên tục và có tốc độ cao. Mức tăng GDP năm 2002 đạt 6,79%, năm 2003 đạt 7,26% và năm 2004 đạt 7,5% cao nhất từ năm 1997 trở lại đây. Cụ thể mức tăng của một số ngành như sau.
Ngành nông nghiệp: Mặc dù trong những năm qua thời tiết khắc nghiệt, thiên tai và hạn hán thường xuyên xảy ra, nạn cúm gia cầm trong hai năm vừa qua đã gây ảnh hưởng lớn nhưng tổng sản phẩm ngành nông, lâm, thuỷ sản vẫn tăng 3,5% góp 0,7% vào tốc độ tăng trưởng chung. Sản xuất lương thực, thực phẩm vẫn giữ vai trò lớn nhất trong sản xuất nông nghiệp. Nhờ áp dụng khoa học công nghệ mà sản xuất lúa đã chuyển dịch mạnh theo hướng tăng năng suất lao động, tăng chất lượng lúa gạo để phù hợp nhu cầu thị trường, tăng sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng ta vẫn giữ vững vị trí thứ hai về xuất khẩu gạo, ngoại tệ thu được từ xuất khẩu gạo tăng từ 734 triệu USD lên 900 triệu USD năm 2004.
Ngành công nghiệp: sản xuất vẫn phát triển ổn định và tăng trưởng cao. Sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 10,2% chiếm tỷ trọng 3,9% trong tốc độ tăng trưởng chung. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 đạt 354 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2003 trong đó tăng cao nhất là khu vực ngoài quốc doanh (22,8%), khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 15,7%.
Thứ hai: Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế với sự chuyển dịch ngành và chuyển các thành phần kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhưng tỷ trọng đã giảm xuống trong đó tỷ trọng khu vực II (công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực III (gồm các ngành dịch vụ) đã tăng lên. Đến năm 2003 tỷ trọng của khu vực I là 22%, khu vực II là 39%, khu vực III là 39%; năm 2004 thì tỷ trọng các khu vực tương ứng là 21.8%; 40.1%; 32.2% .Các thành phần kinh tế trong GDP cũng có sự chuyển dịch từ chủ yếu là quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần nhung vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường.
Thứ ba: Về cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành. Nhà nước đã xoá bỏ về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành cơ chế thị trường, Nhà nước đã dần dần cải tổ bộ máy và các công cụ quản lý. Từ chỗ chủ yếu sử dụng phương pháp hành chính coi kế hoạch hoá với các chỉ tiêu pháp lệnh là công cụ để quản lý, điều hành nền kinh tế sang chủ yếu quản lý bằng pháp luật kết hợp chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, thu nhập và chính sách kinh tế đối ngoại.
Thứ tư: Kinh tế nước ta đã đạt thành công lớn trong việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Trong những năm từ 1986 đến 1988 lạm phát tới ba con số (cao nhất là 774,7% năm 1986) nhưng đến năm 1989 lạm phát đã được chặn lại ở hai con số sau đó giảm xuống một con số (năm 1997 là 3,7%; năm 1999 là 0,1%; năm 2001 là 0,8%; năm 2002 là 4%; năm 2003 là 3% thậm chí còn có giảm phát vào năm 2000 là - 0.6%. Năm 2004 vừa qua lạm phát đã tăng lên 9,5%.
Thứ năm:Về kinh tế đối ngoại. Trong thời kì quá độ cũng phát triển mạnh mẽ. Chúng ta đã tham gia vào các tổ chức khu vực cũng như trên thế giới: gia nhập ASEAN năm 1995, gia nhập AFTA năm 1996, gia nhập APEC năm 1998, ký hiệp định thương mại Việt – Mĩ, nộp đơn gia nhập WTO năm 1994 và hiện nay đang xúc tiến đàm phán để thực hiện mục tiêu gia nhập WTO trong năm nay. Tháng 10 năm 2004 vừa qua chúng ta đã tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5). Và đến tháng 11 năm 2004 Việt Nam đã kí 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định chống đánh thuế hai lần đối với các nước, vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với 160 nước và nền kinh tế, thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ như WB, FDI, IMF, ODA…
1.2. Về xã hội
Trong suốt thời kì quá độ chúng ta đã đạt được những chuyển biến tốt về mặt xã hội. Nhìn chung đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn nhân dân được cải thiện một bước rõ rệt. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên ( hiện nay lớn hơn 10%), GDP bình quân đầu người trong cả nước đạt 484,8 USD, khu vực thành thị đạt tới 794,8%, khu vực Đông Nam Bộ đạt 820,8 USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 10,8% năm 2003 và 9,03% năm 2004.
Một thành quả to lớn về xã hội phải kể đến là sự phát triển của hệ thống y tế, giáo dục. Mạng lưới y tế bây giờ đã rộng khắp luôn kịp thời chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Ở hầu hết các xã phường thị trấn đều có các trạm xá với những cán bộ y tế đã được qua đào tạo. Thành công về y tế lớn nhất trong năm vừa qua là chúng ta đã nhanh chóng kìm chế, khoanh vùng được dịch Sar cũng như dịch cúm gia cầm, rồi những ca phẫu thuật cấy ghép tuỷ, thận…
Về giáo dục: Giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách hỗ trợ và đầu tư cho phát triển giáo dục như đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật, trợ cấp cho học sinh, sinh viên…Kết quả là số người tham gia xóa mù chữ ở tất cả các cấp tăng lên 12%. Về cơ bản nước ta đã phổ cập được tiểu học. Đến tháng 6 năm 2004 đã có 19 tỉnh trong cả nước được công nhận phổ cập trung học cơ sở. Tính năng động sáng tạo của người dân được khơi dậy và phát huy. Người lao động ngày càng chủ động hơn trong tìm kiếm việc làm tìm cách tăng thu nhập, tự cải thiện đời sống, tham gia ý kiến đóng góp vào các sinh hoạt chung của cộng đồng, xã hội. Không còn nhiều hiện tượng ỷ lại, thụ động, trông chờ Nhà nước, dựa dẫm tập thể.
1.3. Về chính trị
Thứ nhất đã thực hiện tốt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Từ khi giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng Tháng 8 năm 1945, Đảng cộng sản Việt Nam về thực chất đã trở thành một Đảng cầm quyền. Trong suốt mấy chục năm qua Đảng đã thành công trong việc vừa lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập và xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng luôn là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng và lãnh đạo nhân dân, Đảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước và mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, Đảng không tự biến mình thành Nhà nước.
Thứ hai: Trong suốt thời kì quá độ vừa qua nhìn chung chúng ta tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chế độ, chủ quyền đất nước. Mặc dù những kẻ thù địch không ngừng chống phá cách mạng trong nước, mặc dù xảy ra khủng hoảng kinh tế, xã hội vào thời kì những năm 1996 – 2000 nhưng chính trị của nước ta vẫn được ổn định. Thành quả này là kết quả tổng hợp của công cuộc đổi mới trong đó quốc phòng an ninh giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang luôn được quan tâm đáp ứng. Chất lượng và sức mạnh quân đội luôn được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân luôn được củng cố vững chắc, chủ quyền đất nước càng được khẳng định rõ ràng. Như vậy, chúng ta đã thực hiện tốt chính sách kết hợp kinh tế và an ninh quốc phòng.
Thứ ba: chúng ta thực hiện có kết quả nhiều bước quan trọng về hệ thống chính trị.
Về củng cố Đảng: Trong thời gian qua Đảng đã từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối đổi mới, làm rõ dần con đường đi lên CNXH ở nước ta, củng cố về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội.
Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Tuy thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý nhưng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền dân chủ, do dân và vì dân. Điều đó thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp theo chế độ phổ thông đầu phiếu, chính người dân đã trực tiếp được cầm phiếu đi bầu người đại diện cho mình – những người sẽ thay mặt họ trình bày lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền những vấn đề bất cập trong cuộc sống hàng ngày, sẽ thay mặt họ đòi hỏi những quyền lợi hợp pháp mà họ được hưởng. Bên cạnh đó, đời sống của nhân dân các vùng dân tộc cũng được đặc biệt chú ý quan tâm, Đảng và Nhà nước đã tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam . Đảng luôn luôn tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo của các dân tộc, luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo nhưng cũng đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để xâm hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.
Thứ tư: chúng ta phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá vỡ thế bao vây, cô lập, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá. Chúng ta đã khắc phục và tăng cường quan hệ với các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ, mở rộng quan hệ với các nước Nam á, Châu Phi, Mỹ Latinh, Trung Đông, với các tổ chức quốc tế, khu vực, đã tham gia vào các tổ chức ASEAN, AFTA, APEC…và sắp tới đây sẽ gia nhập WTO . Chúng ta đã nối lại quan hệ với các quỹ tiền tệ như IMF, ODA… nên chúng ta đã được hỗ trợ rất nhiều về vốn – một yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất. Đồng thời, chúng ta tiếp tục duy trì phát triển quan hệ đoàn kết hữu nghị với các Đảng cộng sản và công nhân các phong trào độc lập, các tổ chức và phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá bỏ thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện môi trường quốc tế, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
2. Những hạn chế
Tuy đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng trong thời kì quá độ và trong công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã còn mắc không ít khuyết điểm và yếu kém.
2.1.Những hạn chế tồn tại trong kinh tế của thời kì quá độ.
Một là: Nước ta đã có nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển cơ chế thị trường nhưng cho đến nay cơ chế thị trường vẫn còn sơ khai. Hệ thống quản lý kinh tế nước ta còn đang trong quá trình chuyển đổi, luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, nhất quán và tác động cùng chiều để thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả và đúng hướng. Các kế hoạch định hướng phát triển kinh tế về quy hoạch, xây dựng, quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên…, thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ nhưng còn chậm chạp. Thường có sai sót mới sửa đổi bổ sung chứ chưa đưa ra được từ khi ban hành nên còn nhiều bất cập trong hệ thống hành chính quốc gia. Về thương nghiệp thì Nhà nước còn “bỏ trống” một số “trận địa” quan trọng, chưa phát huy tốt được vai trò chủ đạo trong lưu thông hàng hoá, ổn định giá cả thị trường, bảo vệ sản xuất và tiêu dùng làm cho giá cả năm vừa qua tăng lên tới 9,5%, xảy ra cả ngộ độc thực phẩm, người tiêu dùng mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng. Khâu quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực như nhập lậu, trốn thuế, nhận hối lộ… gây ra những tác động xấu không nhỏ cho đối với sản xuất trong nước.
Ngoài tích luỹ nội bộ thấp thì vấn đề sử dụng vốn đầu tư cũng là vấn đề nan giải. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được phản ánh qua chỉ số ICOR. Vào đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX chỉ số ICOR khoảng 0,4:1 – 0,5:1 thì năm 2001 là 4,12:1, năm 2003 là 4,92:1 chỉ số ICOR tăng cho thấy tốc độ phát triển của vốn lớn hơn giá trị tăng thêm suy ra chúng ta sử dụng vốn đầu tư còn rất kém hiệu quả.
Ba là: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh nhưng năng suất hiệu quả còn thấp. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa xứng với mức tăng đầu tư và thấp hơn so với kế hoạch, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá xong tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu GDP thậm chí năm 2004 còn giảm so với năm 2003 là 6,8%. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ sản xuất vừa thiếu vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm không tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là trong khu vực nông nghiệp nông thôn ( năm 2003 còn chiếm lớn hơn 60% lao động).
Bốn là cạnh tranh còn yếu và trình độ kĩ thuật lạc hậu. Sức cạnh tranh và năng lực quản lý của các doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó hiệu quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng (thể hiện rõ ở việc các doanh nghiệp chưa thực sự chú ý đến việc đăng kí nhãn hiệu cho sản phẩm của mình). Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ thì hàng hoá của Việt Nam cũng có sức cạnh tranh yếu. Những mặt hàng xuất khẩu chưa có được hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, hàng xuất khẩu chủ yếu là thô hoặc sơ chế ví dụ như dầu khí, than… và chất lượng thấp. Bên cạnh đó chưa xây dựng và sử dụng các biện pháp bảo vệ thị trường nội địa. Một trong những nguyên nhân khiến cho cạnh tranh yếu là hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, trình độ lao động của Việt Nam còn thấp. Theo con số thống kê Việt Nam có gần 40 triệu lao động thì có tới 83% lao động không có trình độ chuyên môn kĩ thuật, số lượng công nhân được đào tạo nghề chiếm chưa tới 26 %.
III. Giải pháp cho con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường quá độ trong thời gian qua, chúng ta có quyền tự hào về những thành tựu đã đạt được. Tuy nhiên đến nay vẫn còn một số mặt chưa được củng cố vững chắc. Chính từ những thành tựu và những hạn chế còn tồn tại chúng ta có thể đưa ra được những giải pháp để trong thời gian tới chúng ta đạt được những thành tựu quan trọng hơn để hoàn thành nhiệm vụ của thời kì quá độ lên CNXH của Việt Nam để tiến đến một tương lai tươi đẹp xã hội xã hội chủ nghĩa.
1. Giải pháp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay đang tạo cho chúng ta những thời cơ, những thách thức. Do đó chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật để chuyển dịch cơ cấu, để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của đất nước, tạo năng suất lao động xã hội cao, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta cần phải có giải pháp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước hết, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất lớn do đó chúng ta phải huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Chúng ta có thể huy động vốn từ trong nước hay nước ngoài. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, muốn huy động được nguồn vốn trong nước điều kiện cần là phải nâng cao hiệu quả sản xuất trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ, hợp lý hoá sản xuất như thế sẽ làm tăng nhanh thu nhập của người lao động thì họ sẽ có các khoản dư để tiết kiệm. Nhưng để có được tiết kiệm lớn thì Nhà nước và các ngân hàng phải có những chính sách khuyến khích tiết kiệm như giảm thuế đánh vào lãi suất, nâng lãi suất tiết kiệm, đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng phí. Nhưng nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn nên tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế là hết sức khó khăn, do đó cần tận dụng mọi khả năng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Muốn thu hút được vốn đầu tư nước ngoài buộc chúng ta phải có những chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, giảm bớt rườm rà trong thủ tục hành chính, cải thiện được môi trường đầu tư theo hướng giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc độc quyền nhà nước như là điện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường…
Về nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động :Vấn đề thiếu lao động có tay nghề đang là một vấn nạn chung. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng mục tiêu phát triển và hội nhập của đất nước thì Đảng, Nhà nước và địa phương cần phải có chiến lược đào tạo nghề, chuẩn đội ngũ lao động có kĩ năng tay nghề, trình độ chuyên môn kĩ thuật cao. Cần phải chuyển dần việc đào tạo nghề đơn giản sang đào tạo đội ngũ lao động có nghề, có kĩ năng và có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, có khả năng thích ứng nhanh với thị trường lao động. Cụ thể là ưu tiên đào tạo những ngành nghề mũi nhọn có tỷ trọng kinh tế cao, đòi hỏi kĩ thuật, công nghệ mới như ngành cơ khí, chế tác, sinh học và dịch vụ tiên tiến…Muốn nâng cao được trình độ đội ngũ lao động thì đầu tiên cần phải phát triển giáo dục phải tăng mức chi phí giáo dục bình quân đầu người lên (hiện nay Việt Nam đang đứng gần cuối bảng xếp hạng của ngân hàng Deustche thấp hơn 24 lần so với Singapo) và cũng phải đưa ra được chiến lược giáo dục hướng tới các kĩ năng mà thị trường đang cần.
Về phát triển khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ cũng là một nhân tố của lực lượng sản xuất. Để phát triển kinh tế buộc phát triển mạnh mẽ hơn nữa về khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ sẽ đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh… Phát triển khoa học công nghệ thì phải đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các mũi nhọn, lựa chon công nghệ thích hợp, khai thác được lợi thế của lao động. Cùng với việc nhập công nghệ của nước ngoài chúng ta phải khẩn trương đổi mới tổ chức, sắp xếp hợp lý các viện, trung tâm, các cơ sở nghiên cứu trong cả nước. Phải dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học, phải phát triển khoa học công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ. Phải đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức để tránh chảy máu chất xám. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của thế giới.
Về mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được thuận lợi và nhanh chóng thành công bấy nhiêu. Trong suốt thời gian qua, chúng ta luôn tích cực tham gia vào xu thế chung của quốc tế, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta. Nhà nước phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, nâng cao được sức cạnh tranh, phát triển mạnh sản phẩm, xây dựng được quỹ hỗ trợ xuất khẩu; đẩy mạnh các lĩnh vực thu ngoại tệ như du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, thu hút kiều hối…
2. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường
2.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Để phát triển được kinh tế thị trường thì việc đầu tiên là phải phát triển các thành phần kinh tế và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Khi đó, mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định và bảo vệ.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100%
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quá độ lên CNXH bỏ qua chếđộ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, lý luận thực trạng và giải pháp thực hiện ở nước ta.docx