MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Y nghĩa đề tài nghiên cứu
2.Đối tượng phạm vi nghiên cứu
3.Mục đích nghiên cứu
4.Phương pháp sử dụng
5.Bố cục
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 : Định nghĩa, bản chất ,vai trò ,đặc điểm
Những yếu tố phát triển công nghiệp hoá ,hiện đại hoá
1.Định nghĩa,bản chất ,vai trò,đặc điểm:
1.1 Định nghĩa
1.2 Bản chất
1.3 Vai trò
1.4 Đặc điểm
2.Những yếu tố phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
2.1 Tại sao nước ta lại đặt vấn đề phát triển CNH,HĐH
2.2 Những yếu tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước
Chương 2:Nội dung của công nghiệp hoá- hiện đại hoá
ở Việt Nam
1.Điều kiện trong nước và quốc tế để Việt Nam phát triển và hội nhập với thế giớ
2.Hệ thống các quan điểm phát triển bền vững
3.Mục tiêu của CNH
4.Nội dung cơ bản của CNH-HĐH ở nước ta hiện nay
4.1 Những nội dung cơ bản của CNH-HĐH trong thời kì quá độ lên CNXH
4.2 Những nội dung cụ thể của CNH-HĐH ở nước ta trong những name trước mắt
4.3 Các giai đoạn phát triển của CNH-HĐH
5)Một số giải pháp chủ yếu thúc nay quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam trong giai đoạn mới
5.1 Hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là giải pháp đột phá quan trọng hàng đầu để nay mạnh CNH-HĐH rút ngắn theo hướng hiện đại ở nước ta
5.2 Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH
5.3 Dổi mới phát triển khoa học và công nghệ
5.4 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước
KẾT LUẬN
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 18351 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắc đã hình thành nhiều khu công nghiệp tập trung:Hà Nội, Hải phòng, Quảng Ninh, Hà Bắc, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Thanh Hóa,Vinh…
Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân kỹ thuật tăng khá nhanh, là vốn quý, là yếu tố quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa ở thời kì này và các thời kì kế tiếp. Năm 1975 so với 1955 , số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học tăng hơn 129 lần, cán bộ có tình độ trung học chuyên nghiệp gấp hơn 84 lần; công nhân kĩ thuật năm 1975 tăng gấp 6 lần 1960.Tỉ lệ các bộ khoa học kĩ thuật , nghiệp vụ trong tổng số công nhân viên chức đã tăng từ 2% (1955) đến 3,5% (1960) và 19,5% (1975).Tỷ lệ công nhân kỹ thuật đã tăng từ 17% năm 1960 lên 53,4% (1975). Riêng trong công nghiệp năm 1975 đã có trên 8000 cán bộ đại học, 20000 cán bộ trung học chuyên nghiệp và khoảng 210000 công nhân kĩ thuật
Năm 1975 đất nước thống nhất. Sự hợp nhất giữa 2 miền có cơ sở kinh tế rất khác nhau về nguyên lý, mục tiêu và cơ sở kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi so với đầu những năm 1960 cho phép và đòi hỏi phải có chiến lược công nghiệp hóa mà Đại hội Dảng lần thứ III đã xác định vẫn giữ nguyên và thực hiện trên phạm vi cả nước. Đại hội Dảng lần thứ IV (12/1976) chỉ rõ:” điều đó có nghĩa quyết định là phải thực hiện CNHXHCN, tạo ra một cơ cấu kinh tế công –nông nghiệp hiện đại. Con đường cơ bản để tạo ra cơ cấu ấy là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát trine nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” . Đại hội cũng đề ra một nhiệm vụ cho kế hoạch 5 năm (1976-1980) là” tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm; phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí”
Do đó chủ trương nôn nóng, chủ quan duy ý như trên, cộng với những sai lầm trong chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nên trong thời kì 1976-1980 nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng, nông nghiệp yếu kém không đáp ứng được yêu cầu trong nước, công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng không phát huy được tác dụng. Thời kì 1976-1980: tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bìng quân 1,4%, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4% trong khi đó dân số tăng 2,24% một năm; sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm chỉ tăng 0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6% ; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 1,9% một năm. Trước tình hình đó từ hội nghị Trung uơng 6 (khóa IV) năm 1979 và tiếp đó là đại hội V của Đảng đã nhận thấy can phải nhận thức đúng hơn vị trí của nông nghiệp và phải bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh cơ cấu đầu tư.Đại hội Đảng lần thừ V (1982) đã xác định:” Nội dung chính của CNHXHCN trong 5 năm (1981-1985) và những năm 80 là tập trung sự phát triễn mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp lean sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất hxua61ttie6u dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng”. Sự điều chỉnh, thay đổi bước đầu trong nhận thức và chủ trương đã có tác dụng nhất định đến phát triển kinh tế-xã hội và công nghiệp hóa. Bình quân hàng năm thời kì 1981-1985 sản xuất công nghiệp tăng 9,5%; sản xuất nông nghiệp tăng 5,3%; cơ cấu nông nghiệp trong thu nhập quốc dân vẫn được tăng từ 20,2% (1980) lên 30 %(1985)
4.32)Giai đoạn 1986 đến nay
Đây là giai đoạn có sự đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức, quan điểm và về tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ những quan điểm và chủ trương , phương hướng đổi mới kinh tế – xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ lean chủ nghĩa xã hội. Đại hội chỉ rõ: “ Tiếp tục xây dựng những tiền đề can thiết cho nay mạng công nghiệp hoá XHCM trong chặng đường tiếp theo” và “ trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986 – 1990 phải thực sự tập trung sức người, sức của thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về long thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu…” Thực hiện 3 chương trình mục tiêu ấy thực chất đó cũng làchuyển hướng chiến lược công nghiệp hoá từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang lấy nông nghiệp , công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm.
Từ những quan điểm và chủ trương đổi mới trên, Đảng và Nhà nước đã cụ thể hoá bằng cơ chế và thành các chính sách, biện pháp thực hiện, đáng kể nhất đó load:chính sách phát triển kinh tế nhiều thanh phần, chính sách đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính – tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyể cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế hị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Nhờ vậy mặc dù có “cú sốc” lớn là Liên Xô và các nước XHCN Đông Aâu tan rã làm mất đi khoản viện trợ khoảng 1 tỷ đô la/ 1 năm ,bằng gần 7 % GNP và mất do thị trường không chuyển đổi mặc dù Mĩ vẫn gay khó khăn với việc tiếp tục chính sách cấm vận, nhưng nền kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm, giảm lạm phát đáng kể , điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý hơn tiếp tục công nghiệp hoá . Lạm phát too mức 3 con số: 1986: 587,5%; 1987: 416,7%; 1988: 410,9% giảm xuống còn 2 con số: 1989: 30%; 1990: 52,8%. Trong thời kì 1986- 1990 tốc độ tăng bình quân hàng name của tổng sản phẩm xã hội: 4,8%; thu nhập quốc dân: 3,9%, giá trị tổng sản phẩm công nghiệp : 5,25%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp 3,5%, giá trị xuất khẩu: 28%. Cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất đã có sự điều chỉnh: công nghiệp: 30%(1985); 23%(1990), còn nông nghiệp 47,3% (1985); 46,6% (1990)
Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp có hiệu quả hơn. Năm 1976 trong cơ cấu gái trụ tổng sản lượng công nghiệp ngành điện lực chỉ chiếm 9,65%; hoá chất phân bón, cao su: 8,26%, năm 1990 so với năm 1976 thì chỉ số phát triển công nghiệp của nước ta load : 2,12 lần, trong đó: điện lực 2,96 lần, cơ khí 3,52 lần, hoá chất, phân bón, cao su: 2,13 lần
Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B Đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến phát triển các ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt các nguồn lực: vốn, kĩ thuật truyền thống, lao động. Công nghiệp nhóm A chiếm 33,8%(thời kì 1976 – 1980); 33,5%( thời kì 1981 – 1985) và 32,9% (1990). Tương ứng với các thời kì đó công nghiệp nhóm B chiếm tỉ trọng 66,2%; 66,5%; 61,7%.
Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển khá, lực lượng sản xuất bước đầu được giải phóng. Khu vực công nghiệp quốc doanh sau thời gian phải đương đầu với các thử thách quyết liệt khi chuyển sang cơ chế tưởng chừng không vượt qua nổi (năm 1989 gỉam 2,5% so với 1988) nhung đến năm 1990 công nghiệp quốc doanh đã thích nghi dần với cơ chế mới moat số ngành, một số cơ sở chủ yếu load quốc doanh Trung uơng đã khôi phục được sản xuất và tiếp tục phát triển. Nếu năm 1976 công nghiệp quốc doanh chiếm 68,6% , giá trị tổng sản luợng công nghiệp cả nước thì năm 1989 chiếm 57,0%, còn công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4%(1976),34%(1989).
Tiếp tục những quan điểm, chủ trương, hính sách đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đã xác định rõ hơn mục tiêu, phương hướng, nội dung của phát triển kinh tế – xã hội và của công nghiệp hoá. Đại hội đã chỉ rõ: “ Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN, Điều quan trọng nhất load phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế xã hội kém phát triển … phát triển lực lượng sản xuất , công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển nền nông nghiệp toàn diện load nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”. “Mu5c tiêu tổng quát của chiến lược đến năm 2000 load: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế – xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo va kém phát triển và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỉ XXI”
Đại hội VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm(1991 – 1995) load: “Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định và từng buớc cải tiến đời sống nhân dân và bắt đầu có tích luỹ too nội bộ nền kinh tế “
Việt Nam đang hướng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nứơc với mục tiêu load đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, an nunh quốc gia và sự bean vững của mội trường. Nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh , hiệu quả kinh tế xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên cơ sở công nghiệp hoá, hiện đại hoa . Nghị quyết Hoi nghị Trung ương lần thứ Bảy khóa VII đã chỉ rõ: “ Phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới” . Chúng ta phải căn cứ vào lý luận , kinh nghiệm các nước, đặc biệt là thực tiễn của Việt Nam để xác định đúng đắn nội dung , phương hướng, bước đi và giải pháp cụ thể trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế Việt Nam. Để lựa chọn đúng những biện pháp kinh tế, tổ chức quản lý nhằm thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, trước hết chúng ta cần phải quán triệt thực hiện này đầy đủ những quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những phương hướng phát triển công nghiệp , công nghệ làm nền tảng để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế mà Đảng ta đã đưa ra. Đó là:
Thứ nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế là một đòi hỏi tất yếu của việc phát triển mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Quan điểm này khẳng định công nghiệp hoá, hiện đại hoá load vấn đề quan trọng đặc biệt, là bước phát triển tất yếu đối với nước ta, nhất làtrong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất công nghiệp lạc hậu; công nghiệp còn nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu ; kinh tế tuy có phát triển khá nhưng năng suất, chất lượng hiệu quả còn thấp,còn nhiều yếu tố chưa vững chắc, khẳ năng cạnh tranh còn quá thấp so với nhiều nước trong khu vực. Thực tế này cho thấy nguy cơ tụt hậu xa hơn vẫn còn rất lớn. Cho nên chỉ có công nghiệp hóa, hịên đại hóa mới load con đường cơ khác là khắc phục được những yếu kém của nền kinh tế nước ta, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền sờm thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, đảm bảo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuan quyết định.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa việc ưu tiên thúc nay sự tăng trưởng và phát triển của các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, các vùng lãnh thổ, các doanh nghiệp có khả năng đem lại tích lũy nhanh,tích lũy lớn và hiệu quả kinh tế cao , để đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh. Mặt khác công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn phải bảo đảm, mục tiêu xã hội công bằng, văn minh, bảo đảm an ninh quốc gia và sự bean vững của môi trường. Để làm được điều đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thúc nay chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng nông nghiệp trong GDP. Ưu tiên thỏa đáng cho sự tăng trưởng phát triển hiệu quả kinh tế cao sẽ tạo ra sự tăng trưởng phát triển với hiệu quả kinh tế cao cho nền kinh tế và cho doanh nghiệp, đồng thời trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tăng trưởng và phát triển với hiệu quả kinh tế cao phải chú ý thỏa đáng đến những mặt tối thiểu về hiệu quả xã hội. Cần nhấn mạnh load khi hiệu quả kinh tế và tích lũy đã đạt được đến mức đủ lớn thì khả năng thỏa mãn tối đa hiệu quả xã hội sẽ trở thành hiện thực hơn. Với nhận thức như vậy, có thể kết luận: hiệu quả kinh tế –xã hội load tiêu chuan quyết định để lựa chọn những hướng phát triển phương án đầu tư cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa toàn bộ kinh tế quốc dân trong từng ngành từng thành phần kinh tế, từng vùng.Riêng doanh nghiệp phải lấy hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn xem xét đầu tiên vì kinh doanh trước hết là lợi nhuận.
Thứ ba, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình nâng cao trình độ phát triển của các phương pháp công nghiệp khác nhau, trong đó can kết hợp chặt chẽ giữa hiện đại và truyền thống, giữa quy mô lớn vừa và nhỏ, lấy quy mô vừa và nhỏ với công nghệ hiện đại load chính.
Quan điểm cơ bản này chỉ rõ nội dung của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự chuyển đổi căn bản, toàn diện từ lao động thủ công lên cơ khí hóa, tự động hóa, hóa học hóa, sinh học hóa và tin học hóa trong các ngành, lĩnh vực kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế của đất nước. Trong đó ưu tiên tập trung đầu tư các phương pháp công nghiệp và công nghệ hiện đại cho các ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế,vùng kinh tế trọng điểm, đạt hiệu quả kinh tế cao,tăng tích lũy nhanh và lớn. Đồng thời phải khai thác, phát huy nay đủ tình ưu việt của công nghệ truyền thống, hiên đại hóa công nghệ truyền thống, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế được thực hiện trong các quy mô khác nhau và sự kết hợp các quy mô ấy: quy mô lớn , quy mô vừa,
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế được thực hiện trong các quy mô khác nhau và sự kết hợp các quy mô:quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ, cho công nghệ hiện đại, thu hồi vốn nhanh ,tích lũy lớn. Bởi lẽ những loại quy mô này dễ thích nghi với sự thay đổi của thị trường, phù hợp với sự thay đổi của công nghệ khi nhu cầu của thị trường về sản phẩm thay đổi . Bên cạnh việc lựa chọn quy mô vừa và nhỏ, công nghệ hiện đại load chính, chúng ta can phải chú ý đúng mức việc phát triển những loại quy mô lớn that can thiết và có hiệu quả tạo khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường quốc tế. Trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta can quan tâm thỏa đáng đến việc kết hợp giữa phát triển chuyên moan hóa, tổng hợp hóa và đa dạng hoá . Từ nhận thức này có thể kết luận rằng con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế kết hợp giữa nhảy vọt too thủ công lean hiện đại, với tuần tự too thủ công lean nửa cơ khí, cơ khí, tự động hóa… Trong đó can lựa chọn để có thể tập trung đầu tư theo chiều sâu nhằm tạo ra sự nhảy vọt trong những ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế,đặc biệt tranh thủ đi nhanh vào hiện đại trong các khâu quyết định nhất của quá trình tái sản xuất xã hội
Thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở Việt Nam load moat quá trình lâu dài nhằm đạt năng suất lao động xã hội từ một nền nông nghiệp nhiệt đới với hơn 80% dân cư nông nghiệp
Quan điểm này cho thấy rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở Việt Nam bắt đầu từ một xuất phát về nền kinh tế thấp đó là từ nền nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, tích lũy ban đầu hầu như chưa có,hơn 80% dân số là dân cư nông nghiệp, nhưng có lực lượng lao động phong phú dồi dào, cần cù, sáng tạo. Thực tiễn đó, một mặt đòi hỏi công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải khai thác thế mạnh nền nông nghiệp nhiệt đới, lao động dồi dào, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn có thể đi nhanh tránh tụt hậu, mặt khác cũng thấy rõ rằng tong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta sẽ gặp không ít khó khăn cản trở, đòi hỏi phải có thời gian lâu dài với nội dung, bước đi thích hợp. Như vậy , thực tiễn Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải hiểu nay đủ công nghiệp hóa, hiện đại hoá là một quá trình lâu dài nhằm chuyển đổi căn bản toàn diện, đồng bộ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng một cách phổ biến lao động bằng phương pháp công nghiệp tiên tiến, hiện đại. Điều đó có nghĩa là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý được tiến hành bằng công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của khoa học- công nghệ hiện đại.Chỉ có như vậy mới tạo khẳ năng và điều kiện để đạt năng suất lao động xã hội cao.
Thứ năm, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân và đất nước là một sự nghiệp của quần chúng nhân dân, của mọi lực lượng kinh tế trong đó lực lượng kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo trên những lĩnh vực và khâu quan trọng.
Thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã chỉ rõ, sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của quần chúng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là sự nghiệp của toàn dân, vì lợi ích của nhân dân và do dân thực hiện. Quần chúng nhân dân khi nhận thức nay đủ lợi ích của công nghiệp hóa, hiện đại hóa họ sẽ phấn đấu vươn lên để học tập nâng cao trình độ văn hóa , kỹ thuật, tay nghề để làm chủ được công nghệ, công nghiệp hiện đại, họ là người đóng góp lao động, tài năng, sáng tạo, tiền vốn, của mình cho sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa.Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công bắt đầu too sự thành công trong từng công việc cụ thể, trong từng nơi làm việc cụ thể của từng người đã được xã hội phân công. Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, công nghiệp hóa ,hiện đại hóa còn được phát triển dựa trên cơ sở phát huy nay đủ sức mạnh, thế mạnh và lợi thế so sánh của các thành phần kinh tế Nhà nước, tư nhân và hỗn hợp. Trong đó nền kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong mợt số lĩnh vực, moat số khâu quan trọng nhất, quyết định nhất của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở moat số ngành, moat số vùng trọng điểm. Kinh tế quốc doanh cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân. Có như vậy mới tạo khẳ năng để nhanh chóng phát triển mạnh các phương pháp công nghiệp và công nghệ hiện đại trong các ngành, lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế.Đó là điều kiện quyết định để đạt năng suất lao động xã hội cao, trên cơ sở đó tạo những điều kiện thuận lợi cho các phương pháp công nghiệp phát triển mạnh trong các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình…
Thứ sáu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở việt Nam phải dựa trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền để xây dựng nền kinh tế mở theo hướng phát triển đầu tư trực tiếp và hướng mạnh về xuất khẩu
Trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước load thành quả vô giá của cách mạng Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thúc nay nền kinh tế mở. Nền kinh tế mở phải dựa trên cơ sở phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế đa phương, đa hình thức, hướng mạnh về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu những hàng hóa mà Việt Nam sản xuất có hiệu quả. Phát triển các quan hệ hợp tác đa phương, đa hình thức để tạo nguồn vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta phải lấy nguồn vốn trong nước là chính, nhưng trong thời gian đầu đối với một số nước nghèo như nước ta thì vốn đầu tư nước ngoài thông qua con đường đầu tư trực tiếp 100% , hợp tác sản xuất kinh doanh, lao động. một là vốn cho phát triển nhân lực có trình độ cao , tay nghề tinh xảo là vốn để có công nghệ hiện đại, trên cơ sở vốn này chúng ta mới có điều kiện tăng trưởng và phát triển nhanh để tăng tích luỹ từ nước ngoài tức là có điều kiện thực hiện đổi mới công nghệ để đạt năng suất lao động xã hội cao, chất lượng sản phẩm tốt, có lượng hàng hoá dồi dào để phát triển mạnh xuất khẩu. Xuất khẩu ở nay bao gồm cả xuất khẩu ra nước ngoài, xuất khẩu tại chỗ. Hướng mạnh vào xuất khẩu không chỉ để có hàng hoá đủ tiêu chuan để bán cho các nước và xuất khẩu tại chỗ, mà còn có hàng hoá chất lượng cao để cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài nhập vào. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải thúc nay được thay thế nhập khẩu những hàng hóa mà Việt Nam sản xuất có hiệu quả , có như vậy mới tiết kiệm ngoại tệ mạnh. Bên cạnh những hàng hoá xuất khẩu, chúng ta phải phát triển nhanh các hàng hoá phù hợp cới nhu cầu to lớn, rộng rãi của nhân dân trong nước với mức giá cả hợp lý mà đa số người tiêu dùng trong nước có khả năng thanh toán được. Đó là thị trường hơn 80% dân cư nông nghiệp và vùng nông thôn rộng lớn.
Thứ bảy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ có thể thành công khi quá trình đó được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
Như trên đã nêu, công nghiệp hoá load moat quá trình lâu dài và phức tạp. Quá trình đó trước hết phải tuân theo quy luật và tính quy luật của các quan hệ cung – cầu trên thị trường, gía cả thị trường và cạnh tranh trên thị trường. Điều đó có nghĩa load cơ chế thị trường và cạnh tranh trên thị trường sẽ quyết định quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá, quyết định các phương án phát triển , quyết định lựa chọn phương án đầu tư , quyết định lựa chọn các phương tiện, công nghệ , phương pháp công nghiệp hiện đại có hiệu quả. Nói moat cách cụ thể hơn load phải xuất phát từ cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường mà quyết định các yếu tố đầu vào như phương tiện, công nghệ, phương pháp công nghiệp, phương pháp sản xuất và quản lý tiên tiến, hiện đại cho phù hợp. Hơn nữa những yếu tố trên chỉ có thể phát huy được hiệu quả thông qua hoạt động của những người lao động có trình độ văn hoá và kỹ thuật, nghiệp vụ cao tương ứng.
Như cúng ta đều biết, cơ chế thị trường có những hạn chế và khuyết tật của nó, cho nên nếu quá trình công nghiệp hoá chỉ lệ thuộc vào cơ chế thị trường sẽ không đạt được những mục tiêu công bằng xã hội, an ninh quốc gia và sự beanh vững của môi trường. Thực tế khách quan này cũng đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước. Sự quản lý của Nhà nước load moat bộ phận không thể thiếu được của cơ chế quản lý quá trình công nghiệp hoá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TRAN NGOC DIEM NGAN -NOI DUNG.doc
- TRAN NGOC DIEM NGAN ( TRANG BIA).doc