A. MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 4
Chương 1: VÀI NÉT VỀ NHẬN THỨC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN, HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CSVN VỀ ĐỔI MỚI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM. 4
1.1. Khái niệm đổi mới 4
1.2. Quan điểm về thời kỳ quá độ lên CNXH 4
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin 4
1.2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh 11
1.2.3 Quan điểm của Đảng 12
Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CNXH Ở NƯỚC TA TỪ 1986 – NAY. 13
2.1. Tính tất yếu của việc hình thành đường lối đổi mới trong công cuộc xây dựng CNXH Ở Việt Nam. 13
2.1.1. Về mặt khách quan: 13
2.1.2 Về mặt chủ quan: 17
2.2 Quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta từ 1986 đến nay. 19
2.2.1 Đường lối đổi mới từng bước được hình thành trong quấ trình Đảng chỉ đạo cách mạng Việt Nam 1975 - 1985. 19
2.2.2 Đại hội VI – Khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện các mặt và các Đại hội sau tiếp tục bổ sung 21
2.3 Đánh giá, nhận xét đường lối đổi mới trong công cuộc xây dựng CNXH từ 1986 đến nay. 31
2.3.1 Thành tựu đạt được 31
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân hạn chế 35
2.4 Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm về đường lối đổi mới của ta trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta từ 1986 đến nay. 36
2.4.1 Ý Nghĩa 36
2.4.2. Bài học kinh nghiệm 37
C. KẾT LUẬN. 39
40 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 15884 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá trình hình thành đường lối đổi mới trong cách mạng xã hội chủ nghĩa của đảng và nội dung đường lối đổi mới do đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng khởi xướng và các đại hội sau tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nên doanh nghiệp nhằm mục tiêu lợi nhuận, sáng tạo thông tin, tri thức, định hướng kinh tế, văn hóa kinh doanh, doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu xã hội, người tiêu dùng.
Xã hội thông tin đòi hỏi phối hợp hài hòa giữa công nghệ cao với giao tiếp tinh tế , giữa nền công nghệ dựa trên những trí tuệ mọi tiềm năng con người. Sự cân bằng nhu cầu cao về vật chất với đòi hỏi sâu về tinh thần con người là dấu hiệu nổi bật của sự thâm nhập lẫn nhaungayf càng trở nên sâu sắc giữa kinh tế và văn hóa.
Con người thay đổi quan niệm, nhận thức, cách làm việc, lối sống, đạo đức….
Thứ 3: cuộc cách mạng Khoa học – công nghệ, hình thành xã hội thông tin, kinh tế, tri thức đòi hỏi quốc gia dân tộc phải đổi mới, hiện đại hóa 1 cách căn bản. Những tác động trên của Khoa học – công nghệ, sự bùng nổ thông tin, hình thành xã hội thông tin, nền văn minh tin học và kinh tế, tri thức đã hối thúc mạnh mẽ đối với công cuộc đổi mới đât nước ta. Trước một thế giới đổi thay và phát triển như vậy, làm thế nào để nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng, trì trệ, bắt kịp nhịp sống chung của thế giới hiện đại để bước vào sự phát triển năng động, thích ứng mọi đòi hỏi mới của thời đại.
Đổi mới trước hết là đổi mới tư duy hình thành và trở nên chín muồi, trở thành một quyết sách chiến lược để phát triển bắt nguồn từ tác động và ảnh hưởng đó.
- Toàn cấu hóa kinh tế gắn liền mọi quá trình tiếp xúc, giao lưu, đối thoại giữa các nền văn hóa – 1 xu thế chủ quan và phổ biến.
Nữa sau thế kỷ XX, vài thập kỷ nay, toàn cầu hóa là vấn đề đáng quan tâm và thảo luận toàn cầu hóa diễn ra như cơn lốc, một thực tế kinh tế, chính trị là một quá trình nhiều mặt, xu thế lớn trong đời sống đương đại, tác động hàng ngày , hàng giờ, hàng phút hàng giây. Tức khắc đến mọi mặt sinh hoạt , hoạt động, mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc, toàn bộ cuộc sống con người trên hành tinh, không một quốc gia nào đứng ngoài tác động toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa là quá trình phức tạp, biến cố khôn lường, bước đi ngoắt ngoéo, hiện tượng nghịch lý, mâu thuẫn. Toàn cầu hóa là một quá trình vận động, bao hàm trong đó những diễn tiến của quốc tế hóa và khu vực hóa, từ sản xuất và kỹ thuật đã thâm nhập các lĩnh vực: văn hóa, xã hội, chính trị và ngược lại chiến tranh, hợp tác song phương, đa phương.
Toàn cầu hóa bắt đầu từ quốc tế hóa sản xuất, biến đổi mạnh mẽ, phân công lao động, chuyên môn hóa thúc đẩy bởi những cải biến trong công cụ, cái yếu tố “ động’ nhất của LLSX, nới rộng thị trường, tăng lên không ngừng hoạt động thương mại.
- Toàn cầu hóa trong Khoa học – công nghệ
- Toàn cầu hóa và khuôn khổ một nền kinh tế toàn cầu là một xu thế lớn nhất của thế giới, nó chứa đựng các cơ hội đồng thời cũng là thách thức quan trọng đối với mọi quốc gia.
- Toàn cầu hóa không chỉ là tác nhân tạo cơ hội một mà mỗi quốc gia dân tộc cần phải đón kịp không bỏ lỡ bằng cách cổ đông hội nhập kinh tế quốc tế, ra sức hội nhập thành quả cách mạng Khoa học – công nghệ, phát sinh hậu quả tiêu cực là thách thức vượt qua- tác động toàn cầu hóa tới mọi mặt đời sống xã hội.
- Toàn cầu hóa gắn liền với mọi mở cửa hội nhập, gắn liền quá trình tiếp xúc – giao lưu, đàm thoại giữa các nền văn hóa của các dân tộc, thuộc các khu vực khác nhau, làm phong phú, sống động đời sống văn hóa trong thế giới toàn cầu hóa. Văn hóa thông qua đó tham dự phát triển đồng thời mọi chi phối, định hướng bản thân sự phát triển ấy.
- Cuộc khủng hoảng của CNXH hiện thực và vấn đề thời đại.
Cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX trong khi các nước TBCN phương tây ra sức tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng Khoa học – công nghệ vào sản xuất, nâng cao đáng kể năng xuất lao đỗngã hội với mức tăng trưởng kinh tế đồng thời áp dụng những công nghệ hiện đại vào quản lý, nhạy bén và năng động trước những cải cải cách của kinh tế - xã hội thì các nước XHCN lại rơi vào tình trạng trì trệ , xuất hiện những dấu hiệu khủng hoảng, đứng trước nguy cơ tụt hậu khá nghiêm trọng so với CNTB.
Đây là tình huống phức tạp, đặt CNXH hiện thực tiêu biể mô hình Liên Xô lúc đó( CNXH Xô Viết hay CNXH nhà nước) Trước những thử thách nặng nề , các nước CNXH bỏ lỡ mất cơ hội tận dụng thành tựu của cách mạng Khoa học – công nghệ. Thách thức đặt ra cho các nước XHCN từ Liên Xô từ Liên Xô – Tây Âu, hệ thống XHCN trên thế giới vào thế đối mặt trực tiếp, sự trì trệ của thể chế tập trung quan liêu, tâm lý bảo thủ, lạc hậu của lý luận, công tác tư tưởng gây tâm trạng khép kín phát triển đơn tuyến ( trong hệ thống XHCN với nhau). Công nghệ giáo điều, hình thức, bệnh quan liêu duy ý trí phổ biến đã cản trở nhận thức cái mới , chậm phát triển vấn đề , chậm sữa chữa khuyết tật mà các Đảng cầm quyền trong các nước XHCN mắc.
2.1.2 Về mặt chủ quan:
- Cách mạng Việt Nam chuyển sang một gia đoạn mới, xây dựng, phát triển theo di huấn của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Cách mạng Việt Nam chuyển sang gia đoạn mới, cả nước cùng thực hiện một nhiệm vụ chiến lược, xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN. Tình hình mới xuất hiện yeeuu cầu mới , đòi hỏi chuyển biến , đổi mới đồng bộ của Đảng, nhà nước, nhân dân ta thuộc mọi phiến diện, từ tổ chức tới tác động, từ phương thức , phương pháp lãnh đạo, quản lý đến cơ chế chính sách thực hiện, từ nhận thức đến hoạt động của mỗi cá nhân trong tổ chức, các cấp, nghành từ tư đến địa phương, cơ sở.
Xuyên qua tất cả đòi hỏi đó là đổi mới quan hệ Đảng – Nhà nước – nhân dân phù hợp tình hình nhiệm vụ mới từ chiến tranh đến hòa bình, chiến tranh chống ngoại xâm giành độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ sang xây dựng tổ chức cuộc sống mới, phát triển kinh tế văn hóa nâng cao không ngừng cơ sở vật chất tinh thần cho nhân dân, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của toàn dân được sống trong độc lập tự do hạnh phúc.
Hậu quả nặng nề của chiến tranh, khó khăn phức tạp mới nảy sinh sau chiến tranh. Đế quốc Mỹ 25 năm ( 954 – 1975) tiếp sức cho chế độ ngụy quyền tay sai và xâm lược Miền Nam phát động chiến tranh phá hoại hủy diệt miền Bắc. Những khuyết điểm, những sai lầm trong chỉ đạo thực hiện đường lối chủ trương chính sách làm tăng thêm những khó khăn phức tạp của tình hình kinh tế xã hội, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng ở nước ta trước đổi mới. Những sai lầm của Đảng ta:
Trong nhận thức hoạt động chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, chưa nắm vững, vận dụng đứng quy luật, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuât và tính chất trình độ LLSX.
Nhiều chính sách cơ chế lỗi thời chưa được thay đổi , một số thể chế còn chắp vá , không ăn khớp trái ngược. Tập trung quan lưu còn nặng, hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật khá phổ biến. Cần khắc phục hai khuynh hướng: Bảo thủ, trì trệ, không muốn đổi mới và nóng vội, giản đơn muốn giải quyết mọi vấn đề trong một thời gian ngắn.
Chưa có chính sách, cơ chế về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tín dụng, tiền tệ, tiền lương.
Chi ngân sách nặng tính bao cấp, một thời gian dài vượt quá nguồn thu gây thâm hụt ngân sách dẫn đến lạm phát trầm trọng.
Phạm sai lầm trong việc giải quyết vấn đề giá, lương, tiền. Sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông là sai lầm rất nghiêm trọng trong lãnh đạo quản lý kinh tế. Những sai lầm trên là những sai lầm rất nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược, tổ chức thực hiện.
Sau khi giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đã cũng đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức mới. Tư tưởng chủ quan, say xưa với chiến thắng, nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với những khuyết điểm của mô hình kinh tế hoạch hóa, tập trung quan lưu bao cấp ngày càng rõ làm cho tình hình kinh tế rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đó, cuối những năm 70 của thể kỷ XX ở một số địa phương, một số lĩnh vực bắt đầu có những tìm tòi thử thách, cách làm mới, đưa ra những lời giải đát cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Qua những thành công bước đầu đạt được trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm đó. Đảng và nhân dân ta càng nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có hiệu quả hơn.
2.2 Quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta từ 1986 đến nay.
2.2.1 Đường lối đổi mới từng bước được hình thành trong quấ trình Đảng chỉ đạo cách mạng Việt Nam 1975 - 1985.
Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, nhân dân Việt Nam bắt tay xây dựng chủ nhĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Song do nhiều nguyên nhân khác nhau (cả chủ quan và khách quan) , công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta gặp nhiều khó khăn , thậm chí lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Niềm tin vào chủ nghĩa xã hội bị thách thức.
Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế Việt Nam bị suy thoái. Nhu cầu tối thiểu trong đời sống của nhân dân không được đáp ứng, lương thực, thực phẩm thiếu trầm trọng (năm 1980 nhập 1.576.000 tấn lương thực). Nhiều sản phẩm công nghiệp giảm hoặc tăng không đáng kể. Mất cân đối nghiêm trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu (năm 1979 nhập 1.526 triệu rúp-đôla, xuất 320 triệu rúp – đôla) . Giá cả sinh hoạt tăng cao so với thu nhập của nhân dân. Năm 1976: 128%; năm 1977: 117%; năm 1978:120,9%; năm 1979: 119,4%; năm 1980: 125%.
Nhìn một cách tổng quát, thời kỳ 1976 – 1980, nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng trì trệ. Trong 5 năm 1976 – 1980, sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 0,6%, nông nghiệp là 1,9%, thu nhập quốc dân 0,4%, trong khi đó dân số tăng 4,5 triệu người.
Đứng trước những đòi hỏi bức xúc đó của cuộc sống, với xu thế phát triển của thời đại, lại chịu ảnh hưởng của các nước trong khu vực và trên thế giới, buộc Việt Nam phải đổi mới.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam có thể nói là bắt đầu từ Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa IV (8-1979). Đây là hội nhị chuyên bàn về những vấn đề kinh tế cấp bách và sản xuất hàng tiêu dùng. Tuy chưa cơ bản và toàn diện, nhưng Hội nghị trung ương sáu đã đưa ra một số quan niệm, chủ trương đổi mới có tính chất cục bộ, đây là bước khởi đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng cho toàn bộ sự nghiệp đổi mới tiếp theo.
Tư tưởng cơ bản trong Hội nghị lần này là “làm cho sản xuất bung ra” đúng hướng, nghĩa là phải phát triển lực lượng sản xuất, lấy lợi ích kinh tế làm đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất phát triển. Phải tận dụng mọi khả năng lao động, kỹ thuật, quản lý của các thành phần kinh tế: quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể (kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp ) tham gia vào quá trình sản xuất xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm để phục vụ đời sống và xuất khẩu. Nghị quyết Trung ương sáu như luồng sinh khí tốt lành thổi vào cuộc sống, xã hội Việt nam bắt đầu khởi sắc và có những chuyển biến tích cực.
Sau nghị quyết Trung ương sáu khóa IV,chỉ thị 100 – CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã – đây có thể coi là một bước đột phá hết sức quan trọng về mặt tư duy trong việc cải cách một phần mô hình hợp tác xã nông nghiệp Việt Nam.
Để có chỉ thị 100, chúng ta phải trải qua quá trình tìm tòi, thử nghiệm. Nếu như Trung Quốc có “khoán chui” ở An Huy, hay “nới lỏng và cởi mở các chính sách” ở Tứ Xuyên, thì ở Việt Nam cũng có “khoán chui” ở Vĩnh Phúc (1966 – 1979), cho dù đây là những trường hợp ngẫu nhiên, không có bất kỳ sự liên hệ nào giữa An Huy, Tứ Xuyên với Vĩnh Phúc cả. Rất có thể đây là cơ sở thực tiễn, trên cơ sở đó để Trung Quốc và Việt Nam tiến hành cải cách, mở cửa và đổi mới, mà bước khởi đầu là từ trong nông nghiệp, nông thôn.
Trong quản lý công nghiệp, chúng ta có Quyết định số 25 – CP, ngày 21 – 1 – 1981 về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh, là một đổi mới có ý nghĩa rất quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tháng 3 - 1982 đã đánh giá một cách đúng đắn những thành tựu có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, đồng thời chỉ ra những tồn tại và yếu kém mà chúng ta cần khắc phục. Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề gay gắt, cần tháo gỡ (sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh; thu nhạp quốc dân chưa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng xã hội; lương thực vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu; chênh lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn…
2.2.2 Đại hội VI – Khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện các mặt và các Đại hội sau tiếp tục bổ sung
Nhận thức được sự thay đổi của tình hình và yêu cầu gay gắt phải tạo một bước ngoặt trong tiến trình phát triển đất nước, Đại hội Đảng lần VI Đảng Cộng Sản Việt Nam tuyên bố tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và triệt để. Chương trình phát triển đất nước được thông qua tại Đại hội này có nội dung đặt biệt quan trọng là chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường – mở cửa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được bước chuyển ấy khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới tư duy phát triển. Chính điều đó xác định giá trị lịch sử của Đại hội VI - Đại hội của đổi mới tư duy.
Quá trình đổi mới tư duy phát triển trên thực tế là quá trình đấu tranh về mặt lý luận và tư tưởng nhằm đạt đến nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
* Trước hết, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” Đại hội VI đã kiểm điểm và đánh giá theo tinh thần phê phán những sai lầm chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chủ quan không tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
* Thứ hai, nội dung cốt lõi của tư duy đổi mới là bước chuyển từ quan niệm kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp phải được xây dựng ngay trong thời kỳ quá độ sang khẳng định phải phát triển trong thời kỳ quá độ một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Thứ ba, sự đổi mới tư duy phát triển còn thể hiện ở bài học thứ 3 mà Đại hội VI đã rút ra đó là “ phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.”
* Thứ tư, cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành cơ chế chung trong quản lý toàn xã hội.
* Thứ năm, sự đổi mới tư duy phát triển còn thể hiện ở khẳng định phải phát huy yếu tố con người, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước, là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững, từ đó yêu cầu phải khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội như đã từng xảy ra trong thời kỳ trước đổi mới.
Đại hội đề ra mục tiêu của chúng ta trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên:
“Nhiệm vụ bao trùm mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo.”
Từ mục tiêu bao trùm đó đại hội đề ra 5 mục tiêu cụ thể:
Sản xuất cho tiêu dùng và có tích lũy.
Bước đầu tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất.
Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội.
Bảo đảm nhu cầu cũng cố quốc phòng và an ninh.
Để thực hiện được những mục tiêu trên thì Đại hội đã đề ra nhữn giải pháp:
Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư. Giải pháp này nhằm giải quyết một vấn đề lớn là nội dung công nghiệp hóa XHCN và xây dựng cơ cấu công – nông nghiệp mà trong nhiều năm qua Đảng ta đã đặt ra và cố gắng giải quyết. Song, do chưa giải đáp đúng vấn đề nên đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, phần nào làm tăng thêm mất cân đối trong nền kinh tế nước ta. Cụ thể, thời gian qua, chúng ta thiên về xây dựng công nghiệp nặng và công trình quy mô,không tập trung sức giải quyết vấn đề căn bản:lương thực thực phẩm,phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Điều đó không phù hợp với mục tiêu ổn định đời sống và ổn định nền kinh tế xã hội sau chiến tranh. Đại hội 5 đã phát hiện ra sai lầm đó và đã xác định “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và chủ trương xây dựng một số ngành công nghiệp nặng cần thiết. Đình chỉ một số công trình kém hiệu quả. Tuy nhiên việc chỉ đạo thực hiện lại không triệt để, không hiệu quả. Đến đại hội 6 lần này, về cơ chế kinh tế không có gì thay đổi, vẫn coi “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và chỉ xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Vấn đề mới chính là bố trí lại cơ cấu sản xuất, thực hiện tập trung sức người sức của cho mặt trận nông nghiệp để thục hiện cho được 3 chương trình mục tiêu: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Sử dụng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, cải tạo đúng các thành phâng kinh tế. Giải pháp này góp phần giải quyết mọi năng lực sản xuất hiện có của đất nước và sử dụng hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế nhằm phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Điều này phản ánh nhận thức mới của Đảng về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX dưới CNXH và phù hợp với đặc điểm nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp hành chính mệnh lệnh, chuyển sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Phát huy động lực của khoa học kỹ thuật.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: liên kết liên doanh, kêu gọi vồn đầu tư nước ngoài.
Đại hội VII khẳng định đường lối đổi mới khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng là đúng đắn, cần tiếp tục đẩy mạnh một cách toàn diện và đồng bộ
Đại hội khẳng định, quyết tâm không gì lay chuyển nổi của Đảng và nhân dân ta là kiên trì con đường Xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng.
-Về những định hướng lớn trong chính sách kinh tế, Đại hội khẳng định phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, chính sách kinh tế nhiều thành phần là mục tiêu chiến lược được thực hiện nhất quán và lâu dài.
-Về cơ chế quản lý kinh tế, kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời với đổi mới kinh tế, tất yếu phải đổi mới hệ thống chính trị, nhưng phải xác định rõ nội dung, bước đi, hình thức cho phù hợp. Đổi mới hệ thống chính tri không phải là thay đổi chế độ chính trị, mà làm cho hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả, củng cố và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và phát huy vái trò làm chủ của nhân dân.
Về vấn đề Đảng, Đại hội khẳng định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ Nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đai hội lần thứ VII Đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh nêu ra đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
+ Do nhân dân lao động làm chủ.
+Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới
Đó là bước phát triển quan trọng đường lối đổi mới, làm rõ hơn nhận thức về CNXH ở nước ta. Đại hội khẳng định: Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đại hội VII nêu rõ đường lối đối ngoại: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Sau Đại hội VII, Việt Nam đứng vững trên con đường đổi mới vì CNXH, mặc dù chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Nền kinh tế Việt Nam chuyển mạnh sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Thúc đẩy CHN,HĐH đất nước, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế. Điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh cho phù hợp tình hình mới. Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đối ngoại, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, phá thế bị bao vây, cấm vận. Đó là nhũng quyết sách rất quan trọng thể hiện sự tiếp tục phát triển đường lối đổi mới bảo đảm cho công cuộc đổi mới phát triển vững chắc trên con đường XHCN.
Đại hội VIII Công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986-1996) thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội đề ra cho 5 năm (1991-1995) đã hoàn thành về cơ bản.
- Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn.
- Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
- Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.
- Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc vơi sức mạnh của thời đại.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
* Đại hội cũng nêu rõ quan điểm chỉ đạo công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
- Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
Đại hội IX:
Đại hội IX đã bổ sung, phát triển thêm những quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vớ những điểm cơ bản:
- Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Mô hình kinh tế tổng quát: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần kinh tế: có 6 thành phần kinh tế (bổ sung thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài).
- Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
+ Nền kinh tế độc lập tự chủ trước hết phải độc lập về đường lối, chính sách đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức tích lũy ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô; đảm bảo an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi trường.
+ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
Đại hội X:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng 4/2006 tổng kết hai 20 năm đổi mới nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nhìn lại quá trình đổi mới Đại hội X của Đảng, đường lối đổi mới được phát triển quan trọng:
- Phát triển và thực hiện nhất quán nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đánh giá thành tựu của công cuộc đổi mới, Đại hội nhấn mạnh: “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chude 2_xua.doc