Mặc dù đứng trên lập trường duy tâm, nhưng phép biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức. So với các nền triết học trước thì triết học Đức có tầm khái quát cao, lý luận chặt chẽ logic. Trong đó Cantơ, Hêghen, Phoi ơ bắc là những đại biểu lớn của triết học cổ điển Đức đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển triết học vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX góp phần làm cho triết học cổ điển Đức trở thành tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác.
Cantơ (1724 - 1804) là người mở đầu nền triết học Đức thời cận đại với những quan niệm biện chứng của mình về giới tự nhiên. Ông cho rằng thế giới được phân đôi tồn tại: tự nó (tồn tại bản chất thế giới hay vật tự nó) và tồn tại cho ta (tồn tại của thế giới các hiện tượng được sinh ra bởi mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan). Trên ý nghĩa đó người ta gọi Cantơ là nhà triết học nhị nguyên.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7704 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Biện chứng và siêu hình là 2 phương pháp tư duy đối lập nhau của triết học. Siêu hình là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái tĩnh tại, không trong mối liên hệ phổ biến, không trong quá trình vận động và phát triển.
Dựa vào phương pháp siêu hình con người chỉ có thể nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sinh vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sinh vật ấy mà quên mất sự vận động của những sinh vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng. Siêu hình nhận thức đối tượng ở trạng thái không biến đổi trong không gian, thời gian xác định nên nó chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm.
Trái ngược với phương pháp siêu hình, phương pháp biện chứng nhận thức đối tượng ở trong các mối quan hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau. Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo linh hoạt. Nó phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Phương pháp tư duy biện chứng dần trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình hình thành và phát triển và phép biện chứng cũng không nằm ngoài qui luật đó cũng có quá trình phát triển riêng tương ứng với sự phát triển của tư duy con người thể hiện trong lịch sử triết học. Vậy tìm hiểu quá trình phát triển của phép biện chứng cũng là tìm hiểu về sự phát triển của tư duy loài người chúng ta. Chính nhờ những nguyên nhân đó mà tôi đã lựa chọn đề tài tìm hiểu "Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch triết học".
Về cơ bản phép biện chứng có ba giai đoạn phát triển được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó; phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Phép biện chứng tự phát:
Là phép biện chứng ngây thơ chất phát mang nặng tính trực quan được hình thành trên cơ sở quan sát tự nhiên, xã hội hoặc thông qua kinh nghiệm của bản thân. Chúng được thể hiện sắc nét trong triết học Trung hoa cổ - trung đại, triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Hi Lạp cổ đại.
a. Triết học Trung hoa cổ trung đại:
Do nền triết học trung hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn, chính trị đạo đức của xã hội. Những tư tưởng biện chứng chỉ được thể hiện trong những luận giảng về sự biến dịch ở vũ trụ. Trong đó thuyết Âm Dương, Ngũ Hành là hai thuyết tiêu biểu nhất mang tính chất duy vật biện chứng của Trung Hoa bấy giờ.
Thuyết Âm Dương cho rằng lịch trình biến hoá của vũ trụ có khởi điểm là Thái cực. Từ Thái cực sinh ra Lưỡng nghi (âm dương) rồi Tứ tượng, rồi Bát quái. Trong đó 2 nguyên tố Âm - Dương là 2 nguyên tố ngược nhau nhưng không tồn tại biệt lập mà thống nhất, chế ước lẫn nhau: âm cùng dương khởi, dương thịnh âm suy đặc trưng cho sự thống nhất của các khác biệt và đối lập tạo nên sự thống nhất của vạn vật trong vũ trụ. Vậy theo quan niệm này thì vạn vật trong trái đất đều kết hợp từ chính các mặt và khác biệt tuân theo một quy luật tuần hoàn chung. Dựa vào quan niệm đó nên mọi sự biến đổi, mọi quá trình vận động đều phải tuân theo quy luật cân bằng trong Thái cực mà không có sự phát triển theo chiều hướng đi lên.
Quan niệm này một mặt là tư tưởng tiến bộ trong ý niệm cho rằng không có yếu tố thần linh hay thượng đế quyết định quy trình thay đổi của mọi sự vật, hiện tượng trong trời đất mà nó tự thân vận động theo quy luật của Thái cực. Thuyết đã có những kiến giải đúng và sâu sắc ở tầm khái quát đối với một số nguyên lý về quy luật hoạt động của vạn vật và con người nhưng còn hạn chế là chưa phát hiện được các nguyên lý của sự phát triển trong thế giới.
Thuyết Ngũ hành tập trung luận giải bản nguyên của vạn vật. Theo quan niệm này bản nguyên của vạn vật trên thế giới được biểu hiện ra vô cùng vô tận những tính chất khác nhau nhưng tất cả đều có thể quy về 5 nhóm tố chất cơ bản: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Theo quan niệm này 5 nhóm tố chất trên không tồn tại biệt lập nhau mà tuân theo 4 nguyên tắc cơ bản: tương sinh, tương khắc, tương thừa và tương vũ.
Dựa vào thuyết Âm Dương, Ngũ Hành kết hợp làm một người xưa đã giải thích mọi vật trong trời đất và giữa nhân gian từ đó phát sinh ra quan điểm duy tâm dần biến hoá thành một thứ thần học đó là mặt hạn chế mà phép biện chứng Trung Hoa cổ trung đại chưa khắc phục được.
b. Triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học Ấn Độ là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo. Giữa triết học và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học ẩn dấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua bộ kinh Vêda, Upanisad. Triết học đạo phật do Tất Đạt Đa sáng lập vào thế kỷ VI trước công nguyên ông được người đời tôn vinh là Thích ca Mâu ni. Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích nhân - quả. Theo phật giáo nhân - quả là một chuỗi liên tục, không hỗn loạn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân quả này phật giáo thường gọi là nhân duyên với ý nghĩa là một kết quả của nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân của một kết quả khác. Thế giới tự nhiên, bằng sự phân tích nhân quả, phật giáo cho rằng không thể tìm ra một nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là vũ trụ không do thần linh, thượng đế sáng tạo ra còn vạn vật trong vũ trụ là sự kết hợp của 2 yếu tố Danh (tinh thần) và Sắc (vật chất). Mỗi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với các sự vật, hiện tượng khác, được quy định bởi các sự vật, hiện tượng khác.
"Cái này sinh thì cái kia sinh
Cái này diệt thì cái kia diệt."
Cũng từ đây đạo phật đưa ra 2 luật trong luật nhân quả là vô ngã và vô thường. "vô ngã" cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự "giả hợp" do hội đủ nhân duyên nên thành ra "có". "vô thường" cho rằng vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: sinh - trụ - dị - diệt (sinh vật), thành - trụ - hoại - không (con người).
Đây là tư tưởng biện chứng chống lại đạo đại Bà la môn về sự tồn tại của cái tôi - Át man bất biến. Phật giáo cũng có mặt tiến bộ trong quan niệm cho rằng sự vật động của vạn vật trong trời đất là do sự tương tác của các mặt đối lập chứ không do một thế lực siêu nhiên nào đó gây ra nhưng bên cạnh đó còn có một số hạn chế nhất định như đạo phật vẫn mang nặng màu sắc bi quan trước cuộc đời thể hiện trong chu trình biến đổi của vạn vật.
d. Triết học Hi lạp cổ đại:
Triết học Hi lạp cổ đại ra đời trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đặc biệt trên các lĩnh vực như toán học, vật lý học, thiên văn, thuỷ văn nên triết học thời kì này gắn kết hữu cơ với hữu cơ khoa học tự nhiên, hầu hết các nhà triết học duy vật đều là các nhà khoa học tự nhiên, sự ra đời sớm của chủ nghĩa duy vật mộc mạc, thô sơ và phép biện chứng tự phát.
Một trong những nhà triết học điển hình có tư tưởng biện chứng là Hêraclit (540 - 480 trước công nguyên). Hêraclit nhà triết học biện chứng với quan điểm biện chứng duy vật của mình đã lý giải toàn vẹn về bản thể luận và nhận thức luận trong đó vấn đề bản thể luận thì ông cho rằng bản nguyên, biện chứng của thế giới là năng lượng (lửa). Năng lượng là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi sự vật. "Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi cái, tựa như trao đổi vàng thành hàng hoá và hàng hoá thành vàng". Lửa không chỉ là cơ sở của mọi vật mà còn là khởi nguyên sinh ra chúng. "Cái chết của lửa - là sự ra đời của không khí, và cái chết của không khí là sự ra đời của nước, tự cái chết của nước sinh ra không khí, từ cái chết của không khí - lửa, và ngược lại".
[Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại, Nxb. Tư tưởng, Matxcơva, 1955, tr 48 (tiếng Nga)].
Vậy bản thân vũ trụ không phải do chúa trời hay một lực lượng siêu nhiên thần bí nào tạo ra. Ví toàn bộ vũ trụ tựa như ngọn lửa bất diệt, Hêraclit đã tiếp cận được với quan niệm duy vật nhấn mạnh tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới.
Đồng thời ông cũng có quan điểm biện chứng trong việc lý giải tính phong phú, chu kỳ của các quá trình phát triển. Đặc biệt ông đã có quan điểm sâu sắc về trật tự biến đổi của thế giới theo các quy luật tất định. Cụ thể theo quan niệm này ông cho rằng gốc rễ của mọi quá trình biến đổi là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ông nói: "Cùng một cái ở trong chúng ta - sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này biến đổi là cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến đổi thì thành cái này…" . Hêraclit đã phỏng đoán về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối lập là tiền đề và cơ sở của phép biện chứng sau này
Ông là người đầu tiên phân biệt logos khách quna và logos chủ quan. Trong việc lý giải sự vật động phát triển không ngừng của thế giới do quy luật khách quan quy định. Theo ông thì logos khách quan là trật tự khách quan của mọi diễn biến trong vũ trụ còn logos chủ quan là từ ngữ học thuyết của con người. Từ đó ống đặt vấn đề nghiên cứu khả năng nhận thức thế giới của con người là khả năng phản ánh của con người về thế giới. Theo ông phải đạt được sự hiểu về logos khách quan.
Lý luận nhận thức của Hêraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai nhưng cơ bản là đúng.
Trường phái duy vật lớn nhất của triết học Hi Lạp là trường phái nguyên tử luận với 3 đại biểu: Lơxip, Đê mô crit, Ê pigugrơ. Đây là trường phái duy vật cũng giải thích trọn vẹn về bản thể luận và nhận thức luận trong đó bản thể luận ông cho rằng nguyên tử với tư cách là phần tử không thể phân chia là cơ sở hình thành tính đa dạng của vạn vật trong thế giới. Theo ông số lượng nguyên tử có giới hạn nhưng với sự kết hợp khác nhau tạo ra sự phong phú. Đối với vấn đề nhận thức luận trường phái này cho rằng con người sinh ra vốn không có sẵn tri thức mà toàn bộ những hiểu biết của con người đều dựa trên quan sát thực tế. Đối lập với quan niệm trên là quan điểm của trường phái Platôn.
Đối với vấn đề bản thể luận trường phái này đứng trên quan điểm duy tâm khách quan. Theo quan niệm này bản chất của thế giới bao gồm các khái niệm.
Đối với vấn đề nhận thức luận thì trường phái này cho rằng để có thể nhận thức đúng sự vật thì chỉ không thể dùng giác quan mà phải sử dụng phương pháp hồi tưởng (dùng tư duy) Þ Trường phái này đề cao vai trò của tư duy lý tính của các khái niệm trong nhận thức hoá.
* Sau 2 hệ thống trên là triết học của Aristốt là nhà bách khoa đầu tiên, ông kế thừa những yếu tố hợp lý trong cả 2 trường phái.
Trên vấn đề bản thể luận ông đưa ra học thuyết 4 nguyên nhân: Bất cứ 1 sự vật nào đều tạo lên bởi 4 nguyên nhân phổ biến: vật liệu, hình dạng (mô thức), tác động hoạt động tạo nên - tạo tác), mục đích.
Trên vấn đề nhận thức luận ông kế thừa các quan điểm của duy vật (kinh nghiệm) và tư duy lý tính của con người. Đặc biệt trên vấn đề nhận thức luận ông là người đầu tiên xây dựng logic học hình thức với tư cách khoa học nghiên cứu tư duy của con người có nhiệm vụ phát hiện các qui luật của tư duy chính xác. Các hình thức tư duy: khái niệm, phán đoán, suy luận, nguyên tắc tư duy (luận 3 đoạn)
e. Triết học Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII
Phép biện chứng trong thời kỳ này phát triển trong thời kì thống trị của tư duy siêu hình
Triết học Tây Âu là thời trung cổ là thời kỳ ra đời và phát triển của triết học kinh viện đặt ra các vấn đề để giải quyết không phải từ thực tế mà là những vấn đề thuộc đạo thiên chúa trong kinh thánh. Đến thời kì Phục Hưng có sự khôi phục lại những tư tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này vẫn có giá trị cách mạng như mở đầu cho thời kì từ bỏ tư duy kinh viện trong việc nhận thức khoa học, nhận thức thế giới; bước đầu xác lập phương pháp tư duy mới: phương pháp quan sát và thực nghiệm trong khoa học; bước đầu xác lập quan điểm nhân văn tư sản là quan điểm về quyền tự do bình đẳng của mỗi con người trướt hết. Những tư tưởng nhân văn đó đã tạo lập cơ sở triết học nhân quyền cho nền chính trị và pháp luật tư sản ở thế kỷ 17, 18 đồng thời đối với cả nền nghệ thuật Phục Hưng.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời cận đại là Ph. Bêcơn (1561 - 1626) phát triển những quan niệm bằng nhữn kết luận từ khoa học thực nghiệm nghiên cứu vật lý. Cụ thể theo quan niệm này,thế giới không có gì khác ngoài vật chất, vật chất được tạo nên từ các yếu tố đất,nước lửa hay xơ là các nguyên tử. Ông cho rằng đặc tính phổ biến của vật chất là qui luật vật thể như trọng lượng, khối lượng điều đó được chứng minh bằng quan sát thực nghiệm vật lý.
Ông đưa ra phương pháp xây dựng chân lý phải từ kinh nghiệm quan sát được rồi tiến hành phân tích, lập bảng phân loại để khái quát lên biện chứng của sự vật, phát biểu nguyên nhân, hình tượng. Từ đó theo ông tiêu chuẩn của chân lý không phải là tính logíc trong lập luận cũng không phải là sự thừa nhận của số đông người mà trái lại một tri thức là một chân lý khi được kiểm chứng bằng thí nghiệm kiểm tra.
Tuy đã có cơ sở dựa vào thực nghiệm khách quan nhưng triết học thời kỳ này vẫn chưa đạt tới sự hoàn chỉnh, thiếu sự gắn kết quan sát thực nghiệm vào tự duy logic và nó bị phủ định bởi phép biện chứng cổ điển Đức.
2. Phép biện chứng duy tâm (phép biện chứng cổ điển Đức)
Mặc dù đứng trên lập trường duy tâm, nhưng phép biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức. So với các nền triết học trước thì triết học Đức có tầm khái quát cao, lý luận chặt chẽ logic. Trong đó Cantơ, Hêghen, Phoi ơ bắc là những đại biểu lớn của triết học cổ điển Đức đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển triết học vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX góp phần làm cho triết học cổ điển Đức trở thành tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác.
Cantơ (1724 - 1804) là người mở đầu nền triết học Đức thời cận đại với những quan niệm biện chứng của mình về giới tự nhiên. Ông cho rằng thế giới được phân đôi tồn tại: tự nó (tồn tại bản chất thế giới hay vật tự nó) và tồn tại cho ta (tồn tại của thế giới các hiện tượng được sinh ra bởi mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan). Trên ý nghĩa đó người ta gọi Cantơ là nhà triết học nhị nguyên.
Trải qua một số nhà triết học Đức cho tới Hêghen tỉnh đao của triết học Đức Hêghen quan tâm nghiên cứu đầu tiên là năng lực tư duy của con người với tác phẩm nổi tiếng đầu tiên là "Hiện tượng học tinh thần. Theo Mác trong triết học này chứa đựng toàn bộ bí mật của triết học Hêghen. Trong tác phẩm này có hai tư tưởng lớn:
· Nghiên cứu con người không chỉ ở cá thể loài người mà là cá nhân của một lịch sử loài người (sáng tạo lịch sử, lịch sử sáng tạo con người).
Người đầu tiên phát hiện mối quan hệ tư duy cá nhân với lịch sử phát triển tư duy của loài người nghĩa là lịch sử hình thành, phát triển tư duy cá nhân trước tiên nó tái hiện, đồ ảnh của lịch sử tư duy loài người.
Theo ông hiện thực lịch sử ấy chỉ là lịch sử của sự tha hoá tư duy con người trong sự phát triển của nó.
Cũng từ cách nhìn này mở rộng ra giải thích thế giới Hêghen đi đến một quan niệm là không chỉ có lịch sử mang bản tính của tư duy, tinh thần mà vạn vật đều mang bản chất tinh thần. Ông gọi đó là tinh thần thế giới hay ý niệm tuyệt đối.
Theo Hêghen bản thân ý niệm tuyệt đối cũng nằm trong lịch trình sự tự phát triển mà nó là đối tượng nghiên cứu về lôgic học.
Theo Hêghen một bộ triết học lớn là triết học tự nhiên
Theo Hêghen triết học tinh thần bao gồm lịch sử kinh tế hay kinh tế - xã hội nhân văn.
* Nhận xét theo Lênin:
- Xét toàn bộ hệ thống triết học Hêghen với 3 bộ phận cấu thành: lôgic học, triết học tự nhiên, triết học tinh thần trong sự thống nhất của nó đã phản ánh cách nhìn thế giới trong tính toàn thể của tồn tại, trong quá trình không ngừng vận động, phát triển, trong mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Đó là cách nhìn biện chứng.
- Tuy nhiên với cách nhìn đó lại thể hiện hạn chế rất lớn là toàn bộ thế giới được giải thích trên lập trường duy tâm.
- Giá trị lớn nhất của triết học Hêghen là xây dựng được phép biện chứng với tư cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến, mối liên hệ phổ biến của các quá trình vận động, phát triển. Tất cả các nguyên lý, quy luật của phép biện chứng đã có đầy đủ trong học thuyết của ông. Nó được kế thừa, hoàn thiện trong triết học Mác.
3. Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác - xit
Phép biện chứng duy vật "đã khắc phục" những hạn chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ đại cũng như những sai lầm của phép biện chứng Tâm cổ điển Đức, làm cho phép biện chứng duy vật trở thành 1 khoa học.
Nội dung của phép biện chứng duy vật gồm:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát triển
- Sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
a. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát triển
*Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
- Theo triết học duy vật biện chứng, cơ sở của mối liên hệ phổ biến chính là tính thống nhất vật chất của thế giới. Bởi lẽ, mọi sự vật hiện tượng trên thế giới dù đa dạng, phong phú khác nhau nhưng đều là những dạng tồn tại cụ thể của thế giới vật chất. Ngay cả tinh thần,ý thức cũng là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người.
- Mối liên hệ phổ biến có tính chất: Tính khách quan - nghĩa là mối liên hệ phổ biến không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người; tính phổ biến nghĩa là tồn tại cả ở tự nhiên, cả ở xã hội và tư duy của con người; tính đa dạng - rất nhiều mối liên hệ như mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất.
- Mối liên hệ có vai trò là cơ sở, điều kiện tồn tại phát triển của mọi sự vật, hiện tượng.
* Nguyên lí về sự phát triển
- Phát triển là một phạm trù triết học để chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn là một trường hợp đặc biệt của vận động.
· Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của bản thân sự vật quy định.
· Phát triển là quá trình tự thân của mọi sự vật và hiện tượng. Do vậy, nó là một quá trình khách quan độc lập với ý thức con người.
· Sự phát triển có tính phổ biến với nghĩa là sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực - từ tự nhiên đến xây dựng và tư duy, từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.
· Tuỳ thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất, sự phát triển sẽ được thực hiện hết sức khác nhau. Chẳng hạn, ở thế giới hữu cơ, phát triển thể hiện ở sự tăng cường khả năng thích nghi của cơ thể trước môi trường; ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trong xã hội, sự phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội nhằm giải phóng con người… Trong tư duy, phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, đúng đắn hơn.
b. Sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Là cái chung - cái riêng, tất nhiên - ngẫu nhiên,nguyên nhân - kết quả, nội dung - hình thức, khả năng - hiện thực.
Tính biện chứng của các phạm trù biểu hiện ở chỗ:
- Nội dung các phạm trù luôn vận động và phát triển. Do đó, vận dụng các phạm trù phải linh hoạt. Tuy nhiên, không được tuỳ tiện.
- Các phạm trù khác nhau lại có thể thâm nhập, chuyển hoá lãnnhau.
- Các phạm trù là kết quả phản ánh những mối liên hệ bản chất của các sự vật, các hiện tượng tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người và luôn vận động, phát triển.
· Tính biện chứng của các sự vật, hiện tượng quy định tính biện chứng của các phạm trù.
· Sự phát triển của phạm trù, một mặt, do sự phát triển của bản thân đối tượng được phản ánh quy định mặt khác, do trình độ phát triển của nhận thức con người đối với sự vật được phản ánh trong các phạm trù đó.
c. Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
* Quy luật lượng chất
Lượng đổi ® chất đổi: Mỗi 1 sinh vật luôn tồn tại trong các mối liên hệ phổ biến. Sự tác động lẫn nhau của chúng tạo nên sự biến động về lượng của các sinh vật. Sự biến đổi về lượng của sự vật ® chưa làm thay đổi thuộc tính căn bản nên chất của sự vật chưa thể thay đổi.
Nhưng khi lượng thay đổi tới giới hạn điểm nút có khả năng biến động thuộc tính cơ bản ® biến đổi về chất.
Nói lượng đổi dẫn đến chất đổi chỉ bao hàm khả năng tất yếu còn khả năng đó thành hiện thực không thì phải gắn với các điều kiện xác định sau:
· Lượng phải biến đổi tới giới hạn điểm nút
· Lượng đổi phải dẫn đến cấu trúc sự vật thay đổi
· Sự biến dodỏi của lượng nào dẫn đến biến đổi chất đó.
· Thông thường tại điểm nút nó phải tiếp tục
Sự biến đổi quá trình đó mới làm thay đổi về chất
Chất đổi tác động đến biến đổi về lượng mới của sự vật.
* Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
- Mâu thuẫn là cái tồn tại khách quan, phổ biến ở mọi sự vật, hiện tượng, mọi lĩnh vực khác nhau.
- Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của các quá trình biến đổi, phát triển
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối, thống nhất giữa chúng là tương đối, tạm thời. Một sự vật tồn tại những mâu thuẫn, vị trí, vai trò của chúng là khác nhau đối với quá trình vận động, phát triển của sự vật.
* Quy luật phủ định của phủ định
- Mỗi một quá trình phát triển bao giờ cũng được thực hiện bởi nhiều lần phủ định biện chứng.
Cũng vì vậy ta gọi quy luật này là quy luật phủ định của phủ định. Sau mỗi lần phủ định hình thái mới duy trì được nội dung cũ và phát triển nó lên. Vì vậy kết quả chung của nhiều lần phủ định, sự vật không ngừng biến đổi về chất theo chiều hướng đi lên.
- Nói chung trải qua nhiều lần phủ định biện chứng sự vật dường như lặp lại hình thái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn về mặt trình độ có nghĩa là quy luật chung của sự phát triển diễn ra dưới hình thức xoáy chôn ốc đó là tính chu kì phủ định của phủ định.
KẾT LUẬN
Đến thời điểm này thì phép biện chứng là công cụ hữu hiệu nhất giúp chúng ta tìm hiểu vạn vật trong vũ trụ cùng với những biến đổi vận động của chúng.
Nghiên cứu phép biện chứng một cách có hệ thống nhất là nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật là một yêu cầu cấp thiết để đổi mới tư duy, đổi mới đất nhận thức áp dụng đẩy mạnh đất nước phát triển nhất là trong giai đoạn hiện nay nước ta đang ra nhập vào WTO. Biện chứng giúp chúng ta có một tư duy sắc bén đấu tranh chống lại nhữn tư tưởng siêu hình lạc hậu của thiểu số dân cư trong xã hội hiện nay nhất là dân tộc miền núi chưa nhận thức rõ vai trò quan trọng của mình trong xã hội điển hình còn bị các thế lực thù địch lợi dụng.
Tuy nhiên, đề tài này là một vấn đề rất lớn, bao trùm rất nhiều khía cạnh mà tôi chưa thể trình bày được trong bài tiểu luận này do kiến thức còn hạn hẹp rất mong được sự góp ý của thầy giáo và các bạn sinh viên.
Xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin
2. Lịch sử phép biện chứng (tập 1, 2, 3), Viện triết học Liên xô (cũ)
3. Các nhà duy vật Hy lạp cổ đại, Nxb tư tưởng, Mátxcơva, 1955, (tiếng Nga)
4. Tập bài giảng triết học dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học. Nxb chính trị quốc gia 1997.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch triết học.docx