Mục lục
Nội dung Trang
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
A – QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG CỦA HÀN QUỐC 3
I – Hàn Quốc phụ thuộc chặt chẽ vào hoạt động ngoại thương, coi phát triển ngoại thương là mục tiêu cốt yếu để phát triển kinh tế đất nước. 3
II – Vai trò và xu hướng xuất khẩu trong nền kinh tế Hàn Quốc 4
III – Quan điểm về các chính sách thương mại và “làn sóng FTA” 5
1. Các quy định về thương mại 5
2. Tự do hóa thương mại và làn sóng FTA 5
IV – Lộ trình chính sách thương mại phải thực hiện 7
1. Chính sách về thuế quan 7
2. Hàng rào phi thuế quan 8
3. Chính sách khuyến khích xuất khẩu 8
B – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG HÀN QUỐC 2006 – 2010 9
I – Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ đạo và tỉ trọng của từng mặt hàng 9
1. Các mặt hàng xuất khẩu và tỉ trọng từng mặt hàng 9
1.1 Thiết bị điện tử 11
1.2 Tàu thuyền 12
1.3 Ô tô 14
1.4 Máy móc chung và phụ tùng 15
2 – Các mặt hàng nhập khẩu 15
2.1 Nhập khẩu lao động nước ngoài 15
2.2 Nhập khẩu café, thuốc lá, chè 16
2.3 Nhập khẩu thủy sản 18
II – Khủng hoảng tài chính năm 2008 ảnh hướng tới hoạt động ngoại thương của Hàn Quốc 19
1. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới kinh tế Hàn Quốc nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng 19
2. Hàn Quốc đối phó với khủng hoảng, kinh tế phát triển trở lại, hoạt động ngoại thương lại tấp nập 21
III – Các đối tác ngoại thương của Hàn Quốc 23
1. Quan hệ Hàn Quốc – Trung Quốc 23
2. Quan hệ Hàn Quốc – Mỹ 24
3. Quan hệ Hàn Quốc – Nhật Bản 25
4. Quan hệ Hàn Quốc – Liên minh Châu Âu 26
5. Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam 26
IV – Lịch trình cắt giảm thuế quan của Hàn Quốc theo cam kết với WTO 28
KẾT LUẬN 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
PHÂN CÔNG TÌM HIỂU TÀI LIỆU, VIẾT BÀI 32
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3115 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
amsung bao gồm màn hình LCD LED-backlit TV và điện thoại di động S Galaxy. Nhiều người tiêu dùng không thể nhận ra, những sản phẩm không phải của Samsung như TV và điện thoại vẫn có các thành phần bộ nhớ do Samsung sản xuất ở bên trong.
Trong phân khúc thị trường TV, vị trí thị trường của Samsung chiếm ưu thế. Trong bốn năm kể từ năm 2006, công ty đã được ở vị trí đứng đầu về số lượng TV bán ra, dự kiến sẽ tiếp tục trong năm 2010 và xa hơn nữa. Trong bảng điều khiển thị trường LCD toàn cầu, công ty đã giữ vị trí dẫn đầu trong tám năm liên tiếp. TV LCD Samsung rất nổi tiếng tại Indonesia, Singapore, Ấn Độ, Việt Nam và Nigeria. Một lý do khiến TV LCD Samsung nổi tiếng ở Singapore là độ phân giải cao. Tại Indonesia, sản phẩm Samsung có giá cao hơn 10-15% so với các nhãn hiệu khác, song nó được những khách hàng thu nhập cao ưa chuộng vì điều kiện bảo hiểm và tuổi thọ cao.
Ngoài Tivi LCD, điện thoại di động - cũng là mặt hàng đem về nhiều lợi nhuận cho Samsung. Samsung Electronics đã bán được 235.000.000 điện thoại di động trong năm 2009. Vào cuối quý 3 / 2010 Samsung xuất xưởng hơn 70 triệu điện thoại, cho nó một thị phần toàn cầu là 22% . Nhìn chung, Samsung đã bán 280.000.000 điện thoại di động trong năm 2010, tương ứng với thị phần 20,2%
Ngoài Samsung, LG cũng là một hãng điện tử mang lại nhiều lợi nhuận cho Hàn Quốc. Điện tử LG hoạt động trên nhiều mảng khác nhau: thiết bị nghe nhìn, thông tin viễn thông, điện gia dụng, đồ điện và điện tử…….Máy giặt LG, tủ lạnh LG, máy tính LG, điều hòa….. là những sản phẩm được người tiêu dùng thế giới biết đến nhiều hơn cả. Doanh thu năm 2009 của LG là 78,891 tỉ USD. LG cũng là một trong những công ty điện tử hàng đầu thế giới, chi nhánh đại diện trên khoảng 60 quốc gia và quan hệ hợp tác với 171 nước.
1.2 Tàu thuyền
Mặc dù mới tham gia vào ngành công nghiệp đóng tàu với vẻn vẹn chưa được 40 năm kinh nghiệm, Hàn Quốc đã có những bước tiến ngoạn mục, vượt qua nhiều quốc gia có lịch sử đóng tàu lâu hơn rất nhiều. Và các công ty đóng tàu Hàn Quốc đã hoàn toàn tự tin giữ vững vị trí dẫn đầu bảng trên trường quốc tế
Công nghiệp đóng tàu là ngành kinh tế góp phần quan trọng trong phát triển quốc gia, và Hàn Quốc đã phát triển ngành công nghiệp đóng tàu thành ngành chiến lược đối cho sự phát triển kinh tế đất nước từ những năm 1970. Mặc dù có lịch sử phát triển muộn hơn so với Châu Âu, Nhật Bản, song Hàn Quốc vẫn đã xây dựng được một nền công nghiệp đóng tàu có khả năng cạnh tranh cao và kỹ thuật tiên tiến. Trong 10 nhà máy được xếp hạng đứng đầu trên thế giới, có sáu nhà máy đóng tàu của Hàn Quốc. Hyundai đứng vị trí số một tiếp theo là Samsung và Daewoo.
Ngành công nghiệp đóng tàu của Hàn Quốc đã đạt được khối lượng đơn đặt hàng kỷ lục trong nhiều năm. Năm 2006, khối lượng đặt hàng của Hàn Quốc đạt 18.1 triệu CGT. Với lượng đơn hàng chưa thực hiện lên tới 41.4 triệu CGT, họ đã đảm bảo đủ khối lượng công việc cho 3 năm tiếp theo. Vì vậy, họ có đủ khả năng theo đuổi một chiến lược có chọn lọc và tiếp tục tập trung vào loại tàu trị giá cao.
Trong những năm gần đây, các nhà máy đóng tàu chính của Hàn Quốc đã tập trung nhiều vào các loại tàu giá trị lớn như tàu khoan, tàu chở container cực lớn và tàu LNG (chở khí hóa lỏng). Hàn Quốc ngày nay là quốc gia đứng đầu thế giới về sản phẩm tàu LNG. Lĩnh vực này đang phát triển mạnh cùng với việc LNG được sử dụng ngày càng nhiều như là một nguồn nhiên liệu vì nó tương đối sạch. Lượng tiêu thụ LNG được dự báo tăng 25% mỗi năm trong thập kỷ tới và đội tàu LNG của thế giới được dự báo tăng gấp đôi lên tới khoảng 250 tàu trong khoảng thời gian này. Hyundai, Daewoo và Samsung đã chiếm được phần lớn các hợp đồng đóng tàu LNG trên thế giới.
Năm 2007, tổng doanh số nước ngoài mà ngành đóng tàu mang về là 27,68 tỉ USD. Các công ty đóng tàu Hàn Quốc giành được 38,9% tổng số đơn đặt hàng trên toàn cầu, cao hơn so với con số 37,3% của các đối thủ Trung Quốc.
Theo báo cáo của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc, nhu cầu đóng tàu toàn cầu trong năm 2008 giảm mạnh so với năm 2007 do cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra, song số đơn đặt hàng mà các công ty nước này giành được lại gia tăng. Trong nửa đầu năm 2008, các hãng đóng tàu của Hàn Quốc đã giành được 50,6% tổng số đơn đặt đóng tàu trên toàn cầu, với tổng giá trị 12,4 tỉ đô USD và tổng trọng tải 12,40 triệu tấn, tiếp tục dẫn đầu thế giới về ngành đóng tàu. Trung Quốc chỉ giành được 34,3% tổng số đơn đặt đóng tàu trên toàn cầu. Theo các chuyên gia, nhiều công ty tàu biển muốn đặt hàng với các hãng đóng tàu Hàn Quốc trong thời gian qua đã phải chuyển hướng sang Trung Quốc do đơn đặt hàng của Hàn Quốc đã quá nhiều, còn lâu mới thực hiện xong. Tuy vậy, ngay khi có cơ hội là họ lại tìm đến Hàn Quốc. Về nửa sau năm 2008, số đơn đặt hàng của Hàn Quốc cũng giảm, chỉ còn 41,4 % tổng số đơn đặt hàng thế giới. Tuy nhiên, đây vẫn là một con số cao khi nền kinh tế thế giới đang chịu khủng hoảng nặng nề.
Năm 2009 Tập đoàn quốc phòng Mỹ Lockheed Martin và tập đoàn công nghiệp nặng Hyundai của Hàn Quốc đã hợp tác để sản xuất và xuất khẩu tàu chiến hạng trung, được trang bị hệ thống vũ khí tối tân Aegis. Theo ông Cho Woo Tae – phát ngôn viên tập đoàn Hyundai, Lockheed rất hiếm khi cộng tác với một công ty nước ngoài để sản xuất tàu chiến được trang bị tên lửa Aegis. Sự kiện này cho phép cả 2 tập đoàn sản xuất ra tàu chiến hiện đại tối tân mà giá cả lại hợp lí hơn, nhằm đem lại lợi nhuận về sản lượng và doanh thu cho cả hai bên.
Năm 2010, ngành đóng tàu thế giới phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Theo kết quả nghiên cứu của tổ chức đăng kiểm Na Uy (DNV), Hàn quốc là nước đứng đầu danh sách các nước bị hủy hợp đồng đóng mới nhiều nhất với 194 tàu, tương ứng với 19.2 triệu DWT và chiếm 39.4% tổng số 492 tàu bị hủy hợp đồng trên tòan thế giới. Trung quốc đứng thứ hai trong danh sách này với 161 tàu bị hủy hợp đồng tương ứng với 12.9 triệu DWT. Để hỗ trợ ngành đóng tàu vượt qua khó khăn, chính phủ Hàn quốc đã có kế họach cấp 4.7 ngàn tỉ Won cho ngành này. Và đến ngày 30 tháng 4 vừa qua Tổng thống Hàn Quốc Lee đã đồng ý tăng gấp đôi vốn cho ngành đóng tàu thành 9.5 ngàn tỉ Won (tăng 2.8 ngàn tỉ Won từ ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn quốc và 2 ngàn tỉ Won từ tổng công ty bảo hiểm xuất khẩu Hàn quốc) Sự trợ giúp của chính phủ các nước trong thời điểm này được coi là quý hơn vàng, vì nếu vượt qua được khủng hỏang kinh tế ngành đóng tàu sẽ có nhiều cơ hội và phát triển trong tương lai.
1.3 Ô tô
Là một nhà sản xuất ô tô lớn, Hàn Quốc sản xuất trên ba triệu xe hàng năm. Kể từ khi Hàn Quốc lần đầu tiên xuất khẩu xe năm 1976, ngành công nghiệp ô tô của nước này đã phát triển với tốc độ kinh ngạc. . Ô tô Hàn Quốc ngày nay chiếm lĩnh nhiều thị trường trên trường quốc tế kể cả thị trường tiềm năng như Trung Quốc và thị trường khó tính như Mỹ. Ngành xuất khẩu ô tô trở thành một trong những thế mạnh của ngoại thương Hàn Quốc và trở thành ngành công nghiệp không thể thiếu đối với kinh tế của đất nước này.
Từ năm 2006, lãnh đạo năm tập đoàn sản xuất ô tô trong nước đã cho biết họ hy vọng tổng lượng xuất khẩu ô tô và phụ tùng ô tô sẽ đạt mức 44,5 triệu đô la .Hãng Hyundai-Kia Motor và các công ty khác như GM Daewoo và Renault Samsung Motor đều đưa ra sản lượng kinh doanh cao nhất từ trước tới giờ.Năm tập đoàn sản xuất ô tô cũng đã công bố các kế hoạch của mình sẽ chi khoảng 2 ngàn tỷ won để phát triển loại ô tô hai động cơ và ô tô dùng nhiên liệu ắc qui điện vào năm 2010 và khoảng 14 ngàn tỷ won để giúp đỡ về tài chính cho các nhà thầu phụ với hoạt động nghiên cứu và phát triển đến năm 2009.
Năm 2010, theo Hiệp hội Các nhà sản xuất Xe hơi Hàn Quốc, lượng xe xuất khẩu của nước này trong 10 tháng đầu năm đã vượt doanh số của cả năm trước đó. Họ đã tiêu thụ được 2,25 triệu xe ở thị trường nước ngoài, tăng 32,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo các nhà phân tích, những yếu tố dẫn tới mức tăng trưởng đáng kể này chính là sự hồi phục kinh tế toàn cầu, đặc biệt là Mỹ và các nền kinh tế mới nổi, những mẫu xe mới và lợi thế cạnh tranh về giá do đồng yen Nhật Bản mạnh lên.
Chỉ trong tháng 11/2010, Hyundai Motor đã xuất khẩu 47.000 xe sang Mỹ, tăng 45% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi Kia Motors đạt mức doanh số hàng năm kỷ lục kể từ khi thâm nhập thị trường ôtô lớn nhất thế giới.
Bốn mẫu xe của tập đoàn Hyundai-Kia đã lọt vào danh sách những xe tốt nhất tại Australia năm 2010. Ngoài ra, dòng xe hạng nhỏ ix20 của Hyundai Motor và mẫu crossover Soul và compact Venga của Kia Motors cũng được cấp chứng chỉ môi trường quốc tế của Đức.
Trên đà uy tín của ôtô Hàn Quốc ngày càng tăng cao trên thế giới, các công ty ôtô Hàn Quốc hàng đầu đã bắt đầu mở rộng cơ sở sản xuất ra nước ngoài.
1.4 Máy móc chung và phụ tùng
Hàn Quốc chuyên xuất khẩu đi các nước các loại máy móc về quang học, hóa học, dệt may, cơ khí, thiết bị đông lạnh và phụ tùng ô tô……Thị trường tiêu thụ máy móc của nước này tương đối rộng, đều là các thị trường tiềm năng như Trung Quốc, Trung Đông, Nhật Bản, và khối ASEAN. Sau khi mở rộng được cơ sở sản xuất ở nước ngoài, Hàn Quốc cho xuất khẩu máy móc chưa lắp ráp sang các cơ sở đó để lắp ráp thành phẩm và tiêu thụ ở chính nước đó, nhằm giảm được giá cả của các sản phẩm.
Quan chức Bộ Kinh tế và tri thức cho biết, Hàn Quốc sẽ đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu máy móc của Hàn Quốc bằng cách mở rộng đầu tư vào các nước đang phát triển và những nước tiên tiến đang trên đà hồi phục kinh tế sau khủng hoảng 2008.
Tuy nhiên, Hàn Quốc phải tìm phương án xuất khẩu phù hợp, khi Trung Quốc có sức cạnh tranh mạnh tại các thị trường mới nổi còn các nước châu Âu và Nhật Bản vẫn chiếm ưu thế về xuất khẩu máy móc công nghệ cao.
Ngoài thiết bị điện tử, tàu thuyền, ô tô và máy móc, Hàn Quốc còn có thế mạnh trong một số ngành khác như xuất khẩu thép, xuất khẩu sản phẩm dầu thô và đặc biệt là chất bán dẫn.
2 – Các mặt hàng nhập khẩu
Hàn Quốc phụ thuộc chặt chẽ vào ngoại thương, không chỉ có về xuất khẩu mà còn cả nhập khẩu. Do nguồn tài nguyên về nông nghiệp bị thiếu hụt, các mặt hàng mà Hàn Quốc nhập khẩu chủ yếu là nông sản. Ngoài ra, do đặc thù kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhu cầu nhập khẩu lao động của Hàn Quốc cũng là một vấn đề đáng quan tâm.
2.1 Nhập khẩu lao động nước ngoài
Với một nền kinh tế phát triển , Hàn Quốc luôn là một thị trường tiềm năng thu hút các lao động nước ngoài. Sự bùng nổ của nền kinh tế Hàn Quốc từ những năm 80s đã khiến nước này thiếu hụt nhân công trầm trọng. Để cung cấp đủ nhân lực cho các ngành công nghiệp vừa và nhỏ, Hàn Quốc đã bắt đầu có chính sách tiếp nhận lao động nước ngoài từ những năm 1980s. Hàng năm Hàn Quốc cần tiếp nhận khoảng 50.000 lao động nước ngoài để cung cấp đủ nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo tin từ Cục Quản lý lao động ngoài nước, năm 2006 Hàn Quốc tiếp nhận khoảng 105.400 lao động nước ngoài, trong đó chương trình cấp phép lao động tiếp nhận 70.000 lao động và chương trình tu nghiệp sinh tiếp nhận khoảng 32.000 người. Năm 2007, Hàn Quốc tiếp nhận gần 110.000 lao động nước ngoài, tăng thêm 4.600 người so với năm 2006. Các doanh nghiệp nhỏ của Hàn Quốc tại những vùng xa đô thị được cho phép nâng tỉ lệ người lao động nước ngoài lên 20% tổng số lao động. 2010,số lao động nước ngoài đang tham gia hoạt động kinh tế ở Hàn Quốc chiếm 2,2% dân số Hàn Quốc với 551.858 người và chiếm 47% trong tổng số 1.170.000 người nước ngoài đang cư trú ở đây. Tính theo từng quốc gia, lao động người Trung Quốc gốc Hàn chiếm 55,1%; lao động người Việt Nam chiếm 9,16%; Philipin chiếm 5,23% và Thái Lan 4,68%. Sau khi chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới, Hàn Quốc thắt chặt quy chế nhập lao động ngoại quốc. Chính phủ đã giảm bớt mức giới hạn cho phép nhập lao động nước ngoài từ 72.000 lao động năm 2008 xuống còn 24.000 lao động năm 2010. Hàn Quốc cũng tăng cường thắt chặt quy chế xin việc nhất là trong lĩnh vực xây dựng nhằm đảm bảo cho các lao động này làm việc trong môi trường an toàn nhất. Do những điều chỉnh trên mà từ quý 2 năm 2008 đến nay số lượng lao động nước ngoài vào Hàn Quốc giảm xuống. Trước đây, bình quân mỗi năm lượng lao động nước ngoài vào Hàn Quốc tăng 15% nhưng tính đến thời điểm 2008 trở lại đây, nó chỉ còn 1%. Dự kiến năm 2011, Hàn Quốc tiếp tục nhập khẩu lao động nước ngoài cho các khu vực sản xuất thiếu lao động, đặc biệt trong lĩnh vực xử lí rác thải và sản xuất muối và hạn chế tiếp nhận lao động trong lĩnh vực chăn nuôi do đang phải đối phó với dịch lở mồm long móng lây lan.
2.2 Nhập khẩu café, thuốc lá, chè
Thị trường Cà phê Hàn Quốc hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu và những năm gần đây tiêu dùng cà phê có tăng trưởng. Uống cà phê đã trở nên phổ biến đối với người Hàn Quốc. Thị hiếu người tiêu dùng Hàn Quốc ngày càng chuộng các nhãn Cà phê nổi tiếng có chất lượng cao như Starbucks, Seattle’s Best Coffee, Coffee Bean, Rosebud,vvv. Năm 2007 thị trường tiêu thụ cà phê Hàn Quốc ước tính khoảng 1,5 tỷ USD với cà phê uống liền chiếm 95% thị phần, còn lại là cà phê rang xay. Sau đây là bảng thống kê về nhập khẩu café của Hàn Quốc thời gian gần đây
Tình hình nhập khẩu cà phê của Hàn Quốc giai đoạn 2005 – 2008
Đvị: USD
Tên hàng
2005
2006
2007
2008 (1-10 )
Thị trường cung cấp chính
Cà phê
chưa rang
129.080.000
143.682.000
174.295.000
203.591.000
Việt Nam, Brazil, Colunbia, Honduras
Cà phê
rang
10.079.000
15.427.000
24.897.000
29.031.000
Mỹ, Italy, Nhật, Thuỵ sỹ, Đức
Cà phê uống liền
21.680.00
25.046
26.985.000
35.995.000
Brazil, Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, Thuỵ sỹ
Tổng cộng
160.839.000
184.155.000
226.177.000
268.617.000
Năm 2008 cà phê chưa rang được nhập khẩu chiếm xấp xỉ 80% kim ngạch chủ yếu được nhập từ Việt Nam, Brazil, Columbia, Honduras. Trên 60% cà phê rang được nhập từ Mỹ. Đối thủ cạnh tranh của Mỹ là Italy và các nước EU khác. Người Hàn Quốc ngày càng ưa dùng cà phê hoà tan vì tiện sử dụng và giá hợp lý hơn so với cà phê hạt tươi. Năm 2008 nhập khẩu cà phê uống liền chiếm xấp xỉ 26% tổng trị giá và Mỹ chiếm trên 30% thị phần. Nhật Bản chiếm 20%, còn lại là các đối thủ khác như Trung Quốc, Brazil, Ai cập.Quy định nhập khẩu café của Hàn Quốc là :Thuế nhập khẩu cà phê vào Hàn Quốc khá thấp và không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt: cà phê hạt chưa rang = 2%; cà phê rang=8%; cà phê uống liền=8%. Thuế gia strị gia tăng (VAT)=10%.Ngoài ra chính phủ Hàn Quốc còn có những quy định về ghi nhãn sản phẩm với những nội dung khá chi tiết.
Năm 2009, trong bối cảnh kinh tế đi xuống, Hàn Quốc đã giảm nhập khẩu café lần đầu tiên trong 5 năm. Số liệu của Hải quan Hàn Quốc cho thấy, nhập khẩu cà phê vào nước này năm qua đã giảm 4,5% so với năm trước đó, với kim ngạch 276,3 triệu USD. Về khối lượng, cà phê nhập khẩu giảm 1,5%, chỉ đạt 100.576 tấn. Đây là lần đầu tiên trong 5 năm trở lại đây nhập khẩu cà phê của Hàn Quốc giảm cả lượng lẫn trị giá. Trong 6 tháng đầu năm trước, nhập khẩu cà phê vào Hàn Quốc tăng 3,7%, đạt 54.417 tấn, nhưng trong nửa cuối năm nhập khẩu đi xuống mạnh do nhu cầu giảm sút.
Không những vậy, mặt hàng thuốc lá nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Lần đầu tiên trong vòng 4 năm qua nhập khẩu thuốc lá vào Hàn Quốc giảm 7,5% về khối lượng so với năm 2008, chỉ đạt 51.877 tấn. Về giá trị, kim ngạch nhập khẩu thuốc lá năm qua tăng 87% đạt 242,9 triệu USD, dù vậy đây vẫn là mức thấp trong vài năm trở lại đây. Trước năm 2009, kim ngạch nhập khẩu thuốc lá vào Hàn Quốc tăng ở hai chữ số trong 3 năm trước, trong đó năm 2008 tăng 44,4%. Trung Quốc là quốc gia cung cấp thuốc lá cho Hàn Quốc nhiều nhất, chiếm 23,5%, tiếp đến là Ấn Độ với 23,2%, Braxin chiếm 18,9%.
Thị trường tiêu dùng chè Hàn Quốc có nhiều khả năng và cơ hội phát triển tốt vì người tiêu dùng ngày càng có nhận thức về sức khoẻ của uống chè. Cạnh tranh bán chè xanh sẽ tăng lên do đang có nhiều công ty tham gia vào kinh doanh chè để đáp ứng nhu cầu đang tăng. Thị phần chè xanh năm 2006 là 42,4%; năm 2007 là 45%. Một số các hàng lớn của Hàn Quốc như LG , Amore Paciffic đang đầu tư trồng và chế biến chè xanh tại Trung Quốc và nhiều nhãn hiệu chè xanh của hai công ty này đang được nhập khẩu và cung cấp qua các kênh phân phối vào Hàn Quốc như các siêu thị, các cửa hàng tiện dụng.
Về thuế nhập khẩu và quy định, thuế nhập Chè xanh, chè đen- đóng gói không quá 3kg = 40%. Hàn Quốc đòi hỏi chất lượng các loại chè nhập khẩu phải đảm bảo đầy đủ tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, ngoài ra sản phẩm nhập khẩu phải được Cơ quan kiểm dịch thực vật Hàn Quốc cấp chứng nhận đã qua kiểm dịch trước khi được nhập khẩu.
2.3 Nhập khẩu thủy sản
Năm 2006, tổng sản lượng nhập khẩu thủy sản vào Hàn Quốc lên đến 1,38 triệu tấn, đạt giá trị 2,77 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2005. Đây là giá trị cao nhất từ trước đến nay, trong đó Trung Quốc chiếm 37% thị phần đạt 1.034 triệu USD, Nga (13%) 347 triệu USD, Nhật (8%) 224 triệu USD, Việt Nam (7%) 206 triệu USD, USA 151 triệu USD, Thái Lan 144 triệu USD, Đài Loan 86 triệu USD và Chi Lê 84 triệu USD. Tám nước này chiếm đến 82% tổng giá trị nhập khẩu thủy sản Hàn Quốc năm 2006.Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2007, tổng sản lượng nhập khẩu thủy sản vào Hàn Quốc đạt 1,255 triệu tấn, với giá trị 2,734 tỷ USD tăng 10% so với cùng kỳ năm 2006. Trong đó Trung Quốc chiếm 35% đạt 963 triệu USD, Nga (14%) 381 triệu USD, Nhật (9%) 245 triệu USD, Việt Nam (9%) 235 triệu USD, Thái Lan 138 triệu USD.
Năm 2007, tổng giá trị nhập khẩu nguyên năm dự kiến lên đến 3 tỷ USD, tức là tăng 10% so với năm 2006 (2,77 tỷ USD). Trong khi đó, năm 2006 thủy sản Hàn Quốc chỉ xuất đi được 367.498 tấn, đạt 1.09 tỷ USD, đây là số lượng xuất đi thấp nhất chưa từng có trong lich sử.
Theo số liệu thống kê cuả Bộ Thủy sản Hàn Quốc, Việt Nam là quốc gia xuất khẩu thủy sản vào Hàn Quốc đứng hàng thứ tư sau các nước Trung Quốc, Nga và Nhật Bản. Trong 11 tháng đầu năm 2007, Việt Nam xuất sang Hàn Quốc đạt giá trị 235 triệu USD, chiếm 9% thị phần. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Hàn Quốc các mặt hàng như tôm, cá các loại và surimi
Năm 2008, tổng nhập khẩu thủy sản của Hàn Quốc đạt 2.96 tỉ USD (trong đó :Trung Quốc 1.014,23 trUSD, Nga 383,475 trUSD, Việt Nam 304,125 trUSD, Nhật Bản 206,943 trUSD, Mỹ161,781 trUSD), giảm 13% so với năm 2007 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.Năm 2009, tổng sản xuất thủy hải sản của Hàn Quốc tiếp tục giảm và tổng nhập khẩu được duy trì bằng mức năm 2008 , đáp ứng nhu cầu nội địa. Nhằm nâng cao chất lượng mặt hàng thủy sản nhập khẩu , Cơ quan kiểm định chất lượng hàng thủy sản quốc gia Hàn Quốc đã có những quy định mới sửa đổi bắt đầu áp dụng từ năm 2010 về tỷ lệ sản phẩm nhập khẩu bắt buộc phải kiểm dịch sẽ nâng lên 30% tổng lô hàng nhập khẩu thay vì mức 28%.
Trước đây, Hàn Quốc là một nước có xuất khẩu thủy sản với giá trị nhiều hơn nhập khẩu. Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi do nhu cầu tiêu thụ thủy sản nội điạ ngày càng tăng và nguồn cung cấp nội điạ ngày càng giảm. Hiện tại, giá trị nhập còn vượt xa trong tương lai.
II – Khủng hoảng tài chính năm 2008 ảnh hưởng tới hoạt động ngoại thương của Hàn Quốc
1. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới kinh tế Hàn Quốc nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 xuất phát từ Hoa Kỳ khi tốc độ tăng trưởng của kinh tế Hoa Kì bắt đầu chậm lại, các nhà đầu tư về nhà ở bắt đầu có những khoản vay không thể trả nổi cho các tổ chức tài chính của nước này. Hàng loạt các tổ chức tài chính của Mỹ bắt đầu tuyên bố phá sản, kể cả những tổ chức tài chính có thâm niên hoạt động lâu năm. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã liên tiếp dẫn đến khủng hoảng ở nhiều nước khâc nhau và trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, Hàn Quốc không nằm ngoài sự tác động này và thị trường tiền tệ ở Hàn Quốc bắt đầu bị ảnh hưởng. Tháng 9 năm 2008, đồng won Hàn Quốc bị mất giá mạnh, có lúc tới mức 1.500 won/đô la Mỹ.
Ảnh hưởng của khủng hoảng tới hoạt động ngoại thương
Đồng won mất giá khiến cho việc nhập khẩu đầu vào của các doanh nghiệp gặp khó khăn. Giá các mặt hàng nhập khẩu lần lượt tăng. Đồng won yếu buộc các nhà nhập khẩu phải chi phí nhiều hơn vào dầu mỏ, dịch vụ và các hàng hóa khác, khiến cho giá thành sản phẩm cũng theo đó mà tăng lên.
Xuất khẩu của các ngành chủ lực như: máy móc, phụ tùng ô tô và sản phẩm hóa dầu đều giảm ở mức 2 con số. Bộ Kinh tế Hàn Quốc dự báo, xuất khẩu nhiều khả năng sẽ tiếp tục giảm do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới.
Những công ty sản xuất thép cắt giảm sản lượng và các mỏ khai thác cũng tung ra thị trường ít quặng hơn. Các công ty xuất khẩu mắc kẹt tại cảng bởi họ không còn nhận được hỗ trợ giải quyết các giao dịch từ phía các ngân hàng nữa.
Tần suất vận chuyển những hàng hoá với số lượng lớn như quặng sắt hay ngũ cốc giảm mạnh trong năm 2008. Hãng tàu lớn gần như ngừng đặt hàng đóng mới tàu hay huỷ hợp đồng cũ bởi không vay được vốn ngân hàng.
Tháng 10/2008, số lượng tàu đặt đóng mới trên toàn thế giới giảm đến tháng thứ 3 liên tiếp xuống con số 46 tàu lớn, mức thấp nhất trong gần 1 thập kỷ. Con số tàu đặt đóng mới tháng 6/2008 là 69.
Tổng giá trị hợp đồng đóng tàu năm 2008 tính đến hết ngày 01/11/2008 là 129,6 tỷ USD, thấp hơn 38% so với 1 năm trước.
Tại Hàn Quốc, công ty chịu ảnh hưởng đầu tiên là C& Heavy Industries. Công ty đã nhận được nhiều đơn đặt hàng với tổng số 60 tàu trị giá 2,3 tỷ USD. Sau đó tình hình tài chính gặp khó khăn, công ty đã đề nghị được nhận hỗ trợ tài chính từ ngân hàng song không thành công. Cho đến nay, số tàu chưa làm xong vẫn ở nguyên tại bãi của công ty. Năm 2008, Hàn Quốc không mấy vui vẻ bởi ngành đóng tàu – vốn là niềm tự hào của Hàn Quốc và là lĩnh vực duy nhất Hàn Quốc chiến thắng Nhật – đang gặp cực kỳ nhiều khó khăn. Tuy nhiên, xét về tổng sản lượng tiêu thụ. Tuy nhiên, nếu xét về tỉ trọng các mặt hàng xuất khẩu thì tỉ trọng xuất khẩu tàu lại tăng 2,92%.
Ngoài xuất khẩu tàu, một số mặt hàng xuất khẩu khác của Hàn Quốc cũng giảm mạnh do nhu cầu người tiêu dùng trên toàn cầu giảm và các ngân hàng không còn hỗ trợ giải quyết cho các giao dịch nữa. Theo như biểu đồ thể hiện tỉ trọng xuất khẩu của các mặt hàng năm 2008 và 2009 ở phía trên, sản lượng xuất khẩu của các ngành hầu như đều giảm.Sản phẩm dầu thô giảm 2,94%, máy móc chung giảm 1,56%,……
Nhìn chung, đồng won mất giá đã dẫn tới lạm phát, khiến cho các hoạt động ngoại thương của Hàn Quốc đều bị ì trệ. Tuy nhiên, theo chính phủ Hàn Quốc, việc đồng won mất giá đã làm giảm cầu và hoạt động xuất khẩu nhưng sẽ làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu phải cạnh tranh với nhau một cách khốc liệt hơn. Các nhà xuất khẩu hàng đầu của Hàn Quốc đang "mở cờ trong bụng" khi cơn sốc bắt nguồn từ sự sụt giảm của đồng USD tác động đến các thị trường châu Á, bởi nó kéo giá trị đồng won giảm theo. Các công ty Hàn Quốc thậm chí còn được hưởng lợi thế hơn khi đồng yên Nhật Bản ngày lên tăng giá. Điều này có nghĩa là các công ty Hàn Quốc như Hyundai Motor, Samsung Electronics và LG Electronics, vốn coi các công ty Nhật Bản là những đối thủ chủ chốt, sẽ được lợi vì hàng hóa xuất khẩu của họ có khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới.Ngoài ra, chính phủ Hàn Quốc vẫn có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn khủng hoảng và đưa ngoại thương phát triển trở lại.
Tác động trở lại của xuất khẩu tới kinh tế Hàn Quốc
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, kim ngạch xuất khẩu đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 7 năm qua; thu nhập quốc gia và dự trữ ngoại tệ đều giảm mạnh, trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Theo hãng KBS, thu nhập quốc gia của Hàn Quốc đã xuống tới mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997.
Thống kê sơ bộ của Ngân hàng trung ương Hàn Quốc cho biết, tổng thu nhập quốc dân trong quý 3 năm nay của nước này đã giảm 3,5% so với cùng kỳ năm ngoái và 3,7% so với quý trước. Nguyên nhân khiến thu nhập quốc dân giảm là thâm hụt thương mại, do giá dầu tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008.
Do xuất khẩu gặp khó khăn nên dự trữ ngoại tệ của Hàn Quốc cũng đã giảm 8 tháng liên tiếp và chỉ còn khoảng 200 tỷ USD, tính đến cuối tháng 11. Số ngoại tệ dự trữ tháng 11 đã giảm 18 tỷ USD so với tháng 10 và sẽ tiếp tục giảm, sau khi Chính phủ rót thêm vốn vào thị trường. Vừa qua, Chính phủ Hàn Quốc đã phải cung cấp khoảng 32 tỷ USD cho thị trường tài chính để tăng tính thanh khoản.
Hậu quả việc kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc giảm mạnh những tháng qua làm nhiều ngành sản xuất bị đình trệ, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Bộ Kế hoạch và Tài chính vừa cho biết, tỷ lệ người lao động chính không có việc làm trong hộ gia đình Hàn Quốc đã lên tới 16% trong bối cảnh thị trường việc làm ngày càng hạn hẹp. Đây là tỷ lệ cao nhất kể từ khi Hàn Quốc bắt đầu tiến hành thống kê trong lĩnh vực này vào năm 2003.
2. Hàn Quốc đối phó với khủng hoảng, kinh tế phát triển trở lại, hoạt động ngoại thương lại tấp nập
Cho rằng phát triển ngoại thương là đòn bẩy để đưa kinh tế Hàn Quốc phát triển trở lại, chính phủ Hàn Quốc đã có những biện pháp về tài chính kịp thời để hỗ trợ các doa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010.doc