Tiếp thu các tư tưởng của Mác và Ăngghen về cấu trúc và trình độ của ý thức xã hội trong các tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", lời tựa cuốn "Chiến tranh nông dân ở Đức". "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" "góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị. Lênin đã đề cập một số quan điểm cơ bản sau:
- Trong tác phẩm: "Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" tập 18, trang 159 Lênin viết: ". mọi hệ tư tưởng đều là có điều kiện về mặt lịch sử, nhưng việc mọi hệ tư tưởng khoa học (khác với trường hợp của hệ tư tưởng tôn giáo, chẳng hạn) đều có một chân lý khách quan, một tự nhiên tuyệt đối phù hợp với nó, lại là vô điều kiện".
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3051 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội qua một số tác phẩm kinh điển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hầm trú ẩn cuối cùng của nó là quan niệm về lịch sử; một quan niệm duy vật lịch sử đã ra đời, và người ta đã tìm thấy được phương pháp lấy sự tồn tại của con người để giải thích ý thức của con người, chứ không lấy ý thức của con người để giải thích sự tồn tại của con người như từ xưa đến nay người ta vẫn làm (42).
- "Như vậy là, phải tìm những nguyên nhân cuối cùng của tất cả những sự biến đổi xã hội và của tất cả những cuộc biến cách chính trị ở trong những sự thay đổi về phương thức sản xuất và phương thức trao đổi, chứ không phải ở trong đầu óc người ta, không phải ở trong sự hiểu biết ngày càng tăng thêm của người ta về chân lý vĩnh cửu và công lý vĩnh cửu; phải tìm những nguyên nhân đó không phải là ở trong triết học, mà ở trong kinh tế của thời đại mình nghiên cứu? (446). Do đó, những thủ đoạn để gạt bỏ những tai hoạ "phải dùng đầu óc của mình để phát hiện ra những thủ đoạn ấy từ những sự kiện vật chất về sản xuất đã có sẵn, chứ không phải là sáng chế ra trong đầu óc của mình, những thủ đoạn ấy" (447) - Đó là nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
* Trong tác phẩm chủ nghĩa xã hội phát triển từ không tưởng đến khoa học
- ăngghen phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng châu Âu từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, những hình thức tư tưởng của những nhà không tưởng trong thời kỳ đó là do ảnh hưởng của triết học duy vật siêu hình, triết học biện chứng duy tâm, trào lưu tư tưởng nhân đạo trong phong trào văn hoá phục hưng. Mặt khác nó còn phản ánh tính chất hạn chế của chế độ TBCN ngay khi nó ra đời, do nó phản ánh thời đại mà nó ra đời đó là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và thời kỳ ra đời của chế độ TBCN.
- Phê phán quan điểm của CNXH không tưởng, ăngghen còn chỉ ra rằng nếu chỉ coi CNXH là biểu hiện của chân lý, lý tính và chính nghĩa tuyệt đối thì cái có thể rút ra được chỉ là một loại đặc biệt của CNXH trung dung, chiết trung. Do vậy muốn làm cho CNXH thành một khoa học thì trước hết phải đặt CNXH trên cơ sở hiện thực.
- ăngghen dự báo về nội dung này trong CNCS. "Tồn tại xã hội của người ta từ trước đến nay vẫn đối lập với người ta như những cái do tự nhiên và lịch sử gán ghép cho người ta thì hiện nay đã biến thành hành động tự do của chính người ta. Những lực lượng khách quan bên ngoài, từ trước đến nay vẫn thống trị lịch sử, thì hiện nay sẽ do chính người ta kiểm soát. Chỉ từ lúc đó người ta mới bắt đầu tự sáng tạo ra lịch sử của chính mình một cách hoàn toàn tự giác, chỉ lúc đó những nguyên nhân xã hội mà họ thúc đẩy mới đưa lại những kết quả mà họ mong muốn, với một mức độ rất lớn và luôn luôn tăng lên mãi. Loài người thoát khỏi thời đại của định mệnh để bước vào thời đại của tự do" (111). "Cuối cùng người ta làm chủ lấy tồn tại xã hội của chính mình và do đó làm chủ được tự nhiên, làm chủ cả chính mình - thành người tự do" (114). ăngghen phát triển từ không tưởng đến khoa học, Nxb STHS, 1958.
Tóm lại: Qua một số tác phẩm cơ bản trên, Mác và ăngghen đã cơ bản giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của trật tự về xã hội, đó là quan hệ và giữa TTXH và YTXH. Những quan điểm đó là thế giới quan về phương pháp luận quan trọng để xem xét toàn diện sự phát triển của xã hội, đặc biệt là nhận thức cũ tác động đến các quy luật phát triển của ý thức qua các thời đại. Cho đến ngày nay, những quan điểm đó vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và đồng thời là cơ sở lý luận cho đường lối đổi mới của Đảng ta. Đặc biệt là đường lối về tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển về văn hoá và giáo dục.
II. lênin bảo vệ và phát triển quan điểm về quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội của mác và ăngghen
Vấn đề quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội được Lênin quan tâm và đề cập trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tiếp thu tư tưởng của Mác và ăngghen, Lênin đã phát triển triệt để hơn nữa vấn đề này, đồng thời trên cơ sở thực tiễn của thời đại Lênin và thực tế ở Nga, để khái quát thêm nhiều nội dung mới và cụ thể hơn.
1. Vấn đề quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Trong tác phẩm "Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao". Lênin đề cập tương đối toàn diện các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó vấn đề quan hệ biện chứng TTXH và YTXH được đề cập trên cơ sở trích lại quan điểm của Mác và ăngghen. Qua đó dùng để chống lại quan điểm của "những người dân tuý" đồng thời khẳng định tính khoa học trong học thuyết của Mác và ăngghen. Lênin khẳng định chính Mác đã mô tả quá trình lập luận về vấn đề đó như sau: (Lênin trích dẫn lời tựa cuốn "Góp phần phê phán chính trị kinh tế học". "Công việc đầu tiên mà tôi tiến hành để giải quyết những mối nghi ngờ đã ám ảnh tôi là phân tích một cách có phê phán: triết học pháp quyền của Hê-ghen. Công việc đó dẫn tôi đến kết luận là: chỉ xuất phát từ những căn cứ pháp lý và chính trị thì không thể nào rút ra và giải thích được những quan hệ pháp lý, cũng như những hình thức chính trị; xuất phất từ cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần con người thì lại càng ít có thể rút ra và giải thích được những quan hệ và hình thức đó. Căn nguyên của những quan hệ pháp lý và những hình thức chính trị là ở những quan hệ sinh hoạt vật chất" (tập 1, tr. 160).
- "Trong sản xuất vật chất, con người ở trong những mối quan hệ nhất định với nhau, những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này bao giờ cũng phù hợp với trình độ phát triển của năng suất mà những lực lượng kinh tế của các quan hệ ấy có được trong thời kỳ đó. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy có được trong thời kỳ đó. Toàn bộ những quan hệ sản xuất đó tạo thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến thức thượng tầng chính trị và pháp lý và phù hợp với cơ sở đó là những hình thức ý thức xã hội nhất định.
- "Như vậy PTSX quyết định các quá trình của đời sống xã hội, chính trị và tinh thần. Sự tồn tại của các quá trình ấy không những không phụ thuộc vào ý thức của con người, mà trái lại chính bản thân ý thức của con người lại phụ thuộc vào những quá trình ấy" (160).
- "Cơ sở kinh tế biến đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ xây dựng trên đó cũng thay đổi một cách ít nhiều chậm chạp hay nhanh chóng. Khi nghiên cứu những sự biến đổi đó, cần phân biệt một cách chặt chẽ sự biến đổi vật chất của các điều kiện sản xuất (xác nhận như khoa học tự nhiên) với sự biến đổi của những hình thức pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật và triết học, tóm lại là của những hình thức tư tưởng mà thông qua đó tư tưởng về sự xung đột thâm nhập vào ý thức của con người và trong đó diễn ra cuộc đấu tranh ngấm ngầm để giải quyết sự xung đột đó".
- "Chúng ta không thể nhận xét một cá nhân căn cứ theo ý kiến của người đó về bản thân; chúng ta cũng không thể xét một thời đại cách mạng căn cứ theo ý thức của chính bản thân thời đại cách mạng căn cứ theo ý thức của chính bản thân thời đại đó được. Trái lại phải giải thích ý thức đó bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột giữa những điều kiện sản xuất và những điều kiện của năng suất..." (161).
- Cho đến lúc này, vì không biết hạ mình xuống để hiểu được những quan hệ hết sức giản đơn và ban đầu như những quan hệ sản xuất, nên các nhà xã hội học đã bắt tay thẳng vào việc phân tích và nghiên cứu những hình thức chính trị và pháp lý, đã đụng đầu phải cái sự thật là những hình thức đó nảy sinh ra từ những tư tưởng này hay những tư tưởng khác của nhân loại, trong một thời kỳ nhất định, và họ đã không tiến xa hơn nữa; thành ra tựa hồ như những quan hệ xã hội là do con người tạo ra một cách có ý thức. Những kết luận đó... hoàn toàn mâu thuẫn với tất cả mọi sự quan sát lịch sử"(102).
"Chủ nghĩa duy vật đã thủ tiêu mâu thuẫn đó bằng cách tiếp tục phân tích sâu hơn nữa, cho đến tận nguồn gốc của chính ngay những tư tưởng xã hội đó của con người chỉ có kết luận của chủ nghĩa duy vật cho rằng tiến trình của những tư tưởng là phụ thuộc vào tiến trình của sự vật, là kết luận duy nhất có thể tương đương được với tâm lý học khoa học" (162).
"Chừng nào mà họ vẫn chỉ dừng lại ở những quan hệ xã hội tư tưởng (nghĩa là những quan hệ mà trước khi hình thành phải thông qua ý thức con người) thì họ không thể nhận thấy được, tính lặp lại và tính hợp quy luật trong những hiện tượng xã hội ở các nước khác nhau... việc phân tích những quan hệ xã hội vật chất khiến chúng ta có thể nhận thấy ngay được tính lặp lại và tính hợp quy luật, và có thể đem những chế độ của các nước khác nhau khái quát lại thành một khái niệm cơ bản duy nhất là: hình thức xã hội" (163).
Sau đoạn trích dẫn với những nội dung cơ bản trên, Lênin đã phê phán "người dân tuý" đồng thời khẳng định quan điểm của mình:
- "Ông (Mikhailốpski) ta đã đọc "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" mà không thấy rằng trong đó, những chế độ hiện tại chế độ pháp lý, chính trị, gia đình, tôn giáo, triết học đều được giải thích theo quan điểm duy vật chủ nghĩa, rằng trong đó ngay cả việc phê phán những lý luận XHCN và CSCN cũng tìm ra và đã tìm ra rằng những gốc rễ của những lý luận đó là ở trong quan hệ sản xuất nào đó (1/167).
"Muốn "làm sáng tỏ" lịch sử thì phải thấy rằngnhwngx quan hệ vật chất của xã hội, chứ khong phải những quan hệ tư tưởng của xã hội, là cơ sở của lịch sử" (177).
Lênin diễn đạt lại tư tưởng của Mác và ăngghen: "những quan hệ xã hội phân ra thành những quan hệ vật chất và những quan hệ tư tưởng. Những quan hệ tư tưởng chỉ là một kiến thức thượng tầng xây dựng trên những quan hệ vật chất là những quan hệ hình thành ngoài ý chí và ý thức con người, như một (kết quả) hình thức của sự hoạt động của con người để duy trì sự sinh tồn của mình" (178).
Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" (Tập 18) Lênin cũng đề cập về quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
- Lênin phê phán sự dung hoà giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác và ăngghen với chủ nghĩa Makhơ, về thực chất là thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm. Bôgđnốp đã xuyên tạc chủ nghĩa duy vật lịch sử: "Trong cuộc đấu tranh để sống còn, con người chỉ nhờ vào ý thức mới có thể liên hợp lại với nhau được, không có ý thức thì không có đời sống xã hội. Bởi vậy, cho nên đời sống xã hội, trên tất cả biểu hiện của nó, chỉ là đời sống của tâm lý có ý thức... Tính xã hội không thể tách rời tính ý thức. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội, căn cứ theo nghĩa chính xác của các từ ngữ ấy, là đồng nhất, Lênin vạch rõ quan điểm ấy cũng giống quan điểm của Makhơ: "mối liên hệ giữa yếu tố vật lý và yếu tố tâm lý không thể tồn tại tách rời nhau; chúng chỉ tồn tại cùng nhau".
- Phê phán các quan điểm trên Lênin viết: "Tồn tại xã hội và ý thức xã hội không phải là đồng nhất, cũng như nói chung, tồn tại và ý thức không phải là đồng nhất" (400) quan hệ con người là có ý thức song không thể kết luận ý thức xã hội là đồng nhất tồn tại xã hội.
"Con người khi liên hệ với nhau, đều xử sự với tư cách là những sinh vật có ý thức, nhưng hoàn toàn không thể do đó mà kết luận rằng ý thức xã hội là đồng nhất với tồn tại xã hội". Theo Lênin, trong tất cả những hình thái xã hội tư bản, con người, khi liên hệ với nhau, đều không có ý thức về những mối quan hệ xã hội giữa họ với nhau, họăc về những quy luật chi phối sự phát triển của những mối quan hệ ấy v.v.. Thí dụ: người nông dân bán lúa mì có "quan hệ" với những người sản xuất lúa mì trên thị trường thế giới, nhưng người ấy không hiểu điều đó, người ấy lại cũng không hiểu rõ những mối quan hệ xã hội nào hình thành từ những sự trao đổi ấy.
- "ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, đó là học thuyết của Mác - hình ảnh có thể phản ánh vật thể một cách gần đúng, nhưng ở đây mà nói về sự đồng nhất thì vô lý. Nói chung ý thức phản ánh tồn tại, đó là một nguyên lý chung của toàn bộ chủ nghĩa duy vật, và không thể không nhìn thấy mối liên hệ trực tiếp và mật thiết giữa nguyên lý ấy với nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội" (400).
- "Mỗi người sản xuất riêng biệt trong nền kinh tế thế giới đều biết rằng mình đưa ra một sự thay đổi vào đó trong kỹ thuật sản xuất, mỗi người sở hữu đều biết rằng mình trao đổi sản phẩm nào đó lấy sản phẩm khác, nhưng những người sản xuất và những người sở hữu đó đều không biết rằng do đó họ làm thay đổi tồn tại xã hội. Ngay đến 70 ông Mác cũng không thể bao quát được tổng số những sự thay đổi thuộc loại đó trong tất cả các ngành của nền kinh tế tư bản thế giới. Nhiều lắm là phát hiện ra được những quy luật của sự thay đổi đó, vạch ra được những nét chủ yếu và cơ bản của của cái logic khách quan của những sự thay đổi ấy và của sự phát triển lịch sử của chúng" (402-403) "khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người. Việc anh sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh con đẻ cái và anh chế tạo ra các sản phẩm, anh trao đổi sản phẩm làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu khách quan, gồm những biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức xã hội của anh và ý thức này không bao giờ được toàn vẹn cái chuỗi đó" (403).
"Nhiệm vụ cao quý nhất của loài người là bao quát được cái lôgic khách quan ấy của cuộc tiến hoá kinh tế (cuộc tiến hoá của tồn tại xã hội) trong những nét chung và cơ bản, để làm cho ý thức xã hội của loài người mà ý thức của những giai cấp tiên tiến của tất cả những nước tư bản thích ứng với logic đó một cách hết sức rõ ràng và sáng sủa, với tinh thần phê phán" (403).
- "Chủ nghĩa duy vật nói chung thừa nhận rằng tồn tại, thực tại khách quan (VC) là không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác, kinh nghiệm v.v.. của loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận rằng tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của loài người. Trong hai trường hợp đó, ý thức chỉ là phản ánh của tồn tại, nhiều lắm thì cũng chỉ là một phản ánh gần đúng (ăn khớp, chính xác một cách lý tưởng).
Như vậy toàn bộ những tư tưởng trên đây đã đề cập cơ bản những nguyên lý về quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Theo Lênin: "Trong cái triết học ấy của chủ nghĩa Mác, đúc bằng một khối lượng thép duy nhất, người ta không thể vứt bỏ một tiền đề cơ bản nào, một phần chủ yếu nào mà không xa rời chân lý khách quan, không rơi vào sự dối trá của giai cấp tư bản phản động" (Tập 11, tr. 404).
2. Về kết cấu của ý thức xã hội
Tiếp thu các tư tưởng của Mác và ăngghen về cấu trúc và trình độ của ý thức xã hội trong các tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", lời tựa cuốn "Chiến tranh nông dân ở Đức". "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" "góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị... Lênin đã đề cập một số quan điểm cơ bản sau:
- Trong tác phẩm: "Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" tập 18, trang 159 Lênin viết: "... mọi hệ tư tưởng đều là có điều kiện về mặt lịch sử, nhưng việc mọi hệ tư tưởng khoa học (khác với trường hợp của hệ tư tưởng tôn giáo, chẳng hạn) đều có một chân lý khách quan, một tự nhiên tuyệt đối phù hợp với nó, lại là vô điều kiện".
- Trong thế giới "Hội liên hiệp miền Bắc của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga" người chỉ rõ: "Những chủ nghĩa xã hội là hệ tư tưởng của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản, cho nên nó phụ thuộc vào những điều kiện chung của sự phát sinh, phát triển và củng cố của hệ tư tưởng, nghĩa là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở toàn bộ tài liệu của tri thức con người, lấy sự phát triển cao của khoa học làm tiền đề, đòi hỏi phải làm công tác khoa học v.v.. và v.v..".
- Trong tác phẩm "Làm gì?" Lênin viết "Đã không có hệ tư tưởng độc lập, do chính ngay quần chúng nhân dân xây dựng trong quá trình phong trào của họ, thì vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng XHCN. Không có hệ tư tưởng trung gian (vì nhân loại không tạo ra một hệ tư tưởng "thứ ba" cả, vả chăng trong một xã hội bị những sự đối kháng giai cấp chia rẽ thì không bao giờ có hệ tư tưởng nào hoặc đứng trên các giai cấp). Vì vậy mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mọi sự xa rời hệ tư tưởng đó đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản".
- Về tâm lý xã hội, Lênin đã đề cập rất nhiều vấn đề, có thể thấy một số quan điểm cơ bản sau:
Trong tác phẩm: "Bàn về quyền tự trị dân tộc" tập 2 Lênin viết: "Người công nhân thành thị biết rất rõ hơn ai hết chủ nghĩa tư bản phát triển và do toàn bộ cuộc sống của họ, họ đã hấp thụ được sâu sắc hơn ai hết tâm lý đấu tranh giai cấp, và có thể là thậm chí là đã hấp thụ tâm lý đó từ lúc còn bú sữa mẹ, - người công nhân đó sẽ không thể không nghĩ rằng việc phân chia các trường học theo từng dân tộc không những là một mưu đồ có hại, mà còn dứt khoát là một sự lừa dối bịp bợm của bọn tư sản" (222).
- "Hãy lấy tâm lý một đại biểu bình thường, trung bình của quần chúng lao động bị bóc lột, *** chiều tâm lý ấy với những điều kiện vật chất, khách quan của đời sống xã hội của anh ta. Trước cách mạng tháng Mười, anh ta thực tế chưa từng thấy những giai cấp hữu sản, bóc lột, lại thực sự hy sinh, nhượng bộ anh ta một cái gì đáng kể cả. Anh ta chưa hề thấy những giai cấp mang lại cho anh ta ruộng đất và tự do, cái mà chúng đã bao lần hứa hẹn - hay mang lại cho anh ta hoà bình, chưa hề thấy chúng lại sinh cho anh ta mảy may lợi ích "cường quốc" của chúng hay lợi ích của những hiệp ước là một cường quốc chủ nghĩa của chúng, hy sinh tư bản hay lợi nhuận của chúng. Anh ta chỉ thấy được những cái đó sau ngày 25 tháng 10 năm 1917, khi bản thân anh ta đã dùng vũ lực giành lấy tất cả những cái đó, và rồi anh ta cũng phải dùng vũ lực để bảo vệ những cái đó chống lại bọn Kêrenski, Gôtxơ, Gkêghêtscori, Putôp, Coocnilôp" (Lênin: "Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết", toàn tập, tập 36, trang 246).
- "Chủ nghĩa tư bản để lại cho chúng ta - đặc biệt ở một nước lạc hậu - vô số những thói quen đã làm cho người ta xem tất cả những cái gì thuộc về nhà nước, thuộc về của công, như là những vật liệu để người ta phá hỏng đi một cách ác ý. Tâm lý ấy của quần chúng tiểu tư sản lộ ra ở khắp mọi nơi và mọi lúc. Trong lĩnh vực này đấu tranh rất khó. Chỉ có giai cấp vô sản có tổ chức mới có thể chịu đựng được tất cả", tập 36, tr. 324.
- Trong tác phẩm "Giai cấp công nhân và chủ nghĩa Mantuýt mới", Lênin viết:
"... Đẻ con ra là để cho chúng bị hành hạ..." chỉ là để như thế thôi ư? Tại sao lại không phải là để coh chúng đấu tranh tốt hơn, đoàn kết hơn, có ý thức hơn, kiên quyết hơn chúng ta, nhằm chống lại những điều kiện sinh sống hiện nay đang làm tàn phế và huỷ hoại thế hệ chúng ta".
"Chính đó là chỗ khác nhau căn bản giữa các tâm lý của người nông dân, thợ thủ công, trí thức, nói chung là của người tiểu tư sản, với tâm lý của giai cấp vô sản... Người tiểu tư sản nhìn thấy và cảm thấy rằng anh ta đang đi đến diệt vọng, rằng đời sống ngày ngày càng trở nên khó khăn hơn, tình cảnh của anh ta và của gia đình anh ta ngày càng bế tắc. Đó là một sự thật không thể chối cãi được và người tiểu tư sản chống lại sự thật đó, tập 23.
- "Nhưng khi một đảng chân chính dần dần được hình thành, thì người công nhân giác ngộ cần phải học cách phân biệt giữa tâm lý của người chiến sĩ trong đội quân vô sản và tâm lý của phần tử tri thức tư sản thích nói những lời rỗng tuếch vô chính phủ chủ nghĩa, người công nhân giác ngộ cần phải học cách đòi hỏi không những các đảng viên thường, mà cả "những nhân vật cấp trên" nữa, đều phải làm tròn những trách nhiệm của người đảng viên; người công nhân giác ngộ cần phải khinh bỉnh bỉ chủ nghĩa theo đuôi trong các vấn đề tổ chức, cũng như trước kia họ đã khinh bỉ nó trong các vấn đề sách lược (Lênin: "Một bước tiến hai bước lùi", toàn tập, tập 8, tr. 464).
Như vậy, Lênin đã tiếp thu chủ nghĩa Mác, thông qua hoạt động chính trị, truyền bá chủ nghĩa Mấc vào nước Nga những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, vạch ra con đường phát triển của cách mạng Nga theo đường lối cách mạng vô sản, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Từ đặc điểm mới của thời đại và thực tiễn nước Nga, Lênin đã bảo vệ và phát triển những luận điểm của Mác và ăngghen. Đồng thời bằng thế giới quan, phương pháp luận mácxít, Lênin đã phân tích cụ thể điều kiện kinh tế - xã hội Nga, từ đó khẳng định và chỉ ra những vấn đề cụ thể trong học thuyết của Mác.
Vấn đề quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã được Lênin bảo vệ và bổ sung nhiều khía cạnh khác nhau. Đặc biệt trong cấu trúc của ý thức xã hội, Lênin đã khẳng định vai trò của lý luận, của tâm lý xã hội, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế cũng như những xu hướng lệch lạc của chúng trong xã hội Nga khi bước vào xây dựng xã hội mới.
III. tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận với tư cách là trình độ cao của ý thức xã hội
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì Người đã tìm thấy ở Lênin, ở chủ nghĩa Mác - Lênin câu trả lời bức thiết nhất cho cả dân tộc Việt Nam là làm thế nào có thể giành được độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mỗi con người? Hồ Chí Minh là một trong số những nhà cách mạng kiệt xuất ở thế kỷ XX đã vận dụng thành công chủ nghĩa Mác - Lênin vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình, đưa cách mạng Việt Nam đến những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại rất to lớn. Đó là thắng lợi hoàn toàn và triệt để của cách mạng thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc và bước đầu khai phá con đường đưa một nước nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển đi lên CNXH - một chế độ xã hội được tổ chức sao cho "đời sống sản xuất vật chấta ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày một tốt, xã hội ngày càng văn minh tiến bộ".
Thông qua toàn bộ những hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng trong suốt cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã thầm nhuần, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. ở đây chỉ xin đề cập đến một số tư tưởng của Hồ Chí Minh liên quan đến nội dung quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội của triết học Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã làm giàu trí tuệ của mình bằng cả văn hoá phương Đông và phương Tây, bằng những giá trị văn hoá - tinh thần của dân tộc và nhân loại, bằng kinh nghiệm cách mạng các nước. Nhờ vậy Hồ Chí Minh đã hiểu đầy đủ và sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, đã thấy rõ vai trò, vị trí, ý nghĩa của các động lực tinh thần trong xã hội. Điều đó thể hiện rõ nét trong tư tưởng của Người về lòng yêu nước, hệ tư tưởng cách mạng, đạo đức, văn hoá... Điều đó còn thể hiện ở sự đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng, tâm lý lỗi thời, lạc hậu, với đạo đức cũ và những giá trị phản văn hoá.
Tiểu luận chỉ đề cập khía cạnh tư tưởng của Người về lý luận cách mạng, bộ phận ở trình độ cao của ý thức xã hội.
Một số nội dung cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng và giáo dục lý luận của Đảng qua các tác phẩm đã học
- Năm 1920, Nguyễn ái Quốc lần đầu tiên được tiếp cận với "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người đã tìm thấy trong đó "cái cần thiếu cho những chúng ta, con đường giải phóng chúng ta".
Sự kiện ấy làm cho khát vọng giải phóng để phát triển dân tộc có được lời giải đáp khoa học, đồng thời đó cũng là bước ngoặt để Nguyễn ái Quốc từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Tuy nhiên con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là thế nào, vào thời điểm đó, Nguyễn ái Quốc chưa thể hình dung ngay được. Điều đó chỉ được giải đáp trong quá trình hoạt động thực tiễn và lý luận rất phong phú sau này của Bác.
- Trong "Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ", Bác đã rút ra một số luận điểm liên quan đến việc phát triển lý luận cách mạng như: cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây; chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước; và do đó, "sự cần thiết phải bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác, bằng cấch đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được". Như vậy Bác đã đề cập đến luận điểm về sự cần thiết phải biết vận dụng một cách sáng tạo lý luận Mác vào thực tiễn của mỗi nước, từ đó mà bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác.
- Sau khi về Quảng Châu 11/1924. Người đã bắt tay mở các lớp huấn luyện chính trị, các bài giảng được tập hợp thành cuốn "Đường cách mệnh", ngay dưới tên sách có trích lời của Lênin: "Không có lý luận kách mệnh thì không có kách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận kách mệnh tiên phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm kách mệnh tiên phng". Trong nội dung của tác phẩm, Người đã xác định tầm quan trọng của lý luận đối với cách mạng Việt Nam: cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng của Nga, tức là phải đặt nó trong quỹ đạo của cách mạng vô sản; cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn là dân tộc cách mệnh và thế giới cách mệnh, hai giai đoạn này có quan hệ mật thiết với nhau. Về phương pháp cách mạng Người cho rằng làm cách mạng trước hết phải biết tuyên truyền, giảng giải lý luận và chủ yếu cho dân giác ngộ... có làm được như vậy đích mới đồng, chí mới đồng, tâm mới đồng, công việc mới thành công. Điều tiên quyết là phải có Đảng cách mệnh, đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, "Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết, nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin". Qua đó ta thấy đảng kiểu mới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieuluan.doc