Mục lục
1. Lời mở đầu
2. Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm (cổ điển) về nguồn gốc, bản chất của tội phạm.
2.1. Quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm
2.2.Ý nghĩa rút ra đối với công tác phòng ngừa từ việc nghiên cứu những quan điểm đó
2.2.1. Vấn đề thứ nhất: Động cơ, mục đích, ý định phạm tội
2.2.2. Vấn đề thứ hai: Quyết định thực hiện hành vi phạm tội
2.2.3. Vấn đề phương thức thực hiện hành vi phạm tội:
2.2.4. Diễn biến tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội
2.2.4.2. Những nhân tố cơ bản có ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
2.2.4.3. Một số cách người phạm tội thường dùng nhằm giải tỏa trạng thái tâm lý căng thẳng sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
4. Kết luận
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 21381 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm về nguồn gốc, bản chất của tội phạm và ý nghĩa rút ra đối với công tác phòng ngừa từ việc nghiên cứu những quan điểm đó, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận môn: Tâm lý học pháp lý
Đề tài: Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm (cổ điển) về nguồn gốc, bản chất của tội phạm và ý nghĩa rút ra đối với công tác phòng ngừa từ việc nghiên cứu những quan điểm đó.
1. Lời mở đầu
Tâm lý học pháp lý được hình thành vào cuối thế kỷ XVI – XVII ở phương Tây và bắt đầu phát triển mạnh mẽ vào XIX và đầu thế kỷ XX. Hầu hết các ngành tâm lý chuyên biệt: Tâm lý học nhận thức, Tâm lý học phát triển, Tâm lý học xã hội, Tâm lý học nghệ thuật, Tâm lý học quân sự, Tâm lý học tội phạm,Tâm lý học sáng tạo, Tâm lý học lao động, Tâm lý học trị liệu,Tâm lý học tư vấn, Tâm lý học kinh tế,.... Trong đó học thuyết của S.Phơrơt - cha đẻ của tâm lý học phân tâm và học thuyết của Watson – đại diện cho tâm lý học hành vi có sự chi phối mạnh mẽ. Đặc biệt, những quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm là cơ sở để xác định nguồn gốc, bản nghiên cứu những quan điểm đó.
Vận dụng quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm, giữa thế kỷ XIX, Trezare Lômbôrơđơ là một trong những người đầu tiên thử giải thích bản chất của hành vi phạm tội dưới góc độ chủng tộc học. Đến nay, thuyết của ông vẫn được kế tục.
Còn đối với nước Đức, tâm lý học tư pháp đã được đặc biệt quan tâm và có sự phát triển mạnh hơn cả. Ở đây, lần đầu tiên người ta đã tiến hành tổng hợp theo kinh nghiệm tất cả những yếu tố liên quan đến đặc điểm tâm lý của hành vi phạm tội, nhân cách của người phạm tội và lới khai của người làm chứng. về hoạt động tư pháp và về nhân thân người phạm tội đã thúc đẩ sự phát triển của tâm lý họ pháp lý.
Vào những năm đầu của chính quyền Xô Viết, sự quan tâm của xã hội đến các vấn đề về hoạt động tư pháp và nhân thân người phạm tội đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của tâm lý học tư pháp. Ngay từ những ngày đầu thành lập, nhà nước Xô Viết đã bắt đầu tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa tình trạng phạm tội và các cách thức để giáo dục, cải tạo và cảm hóa người vi phạm pháp luật.
Đối với Việt Nam, tâm lý học pháp lý là một chuyên ngành rất mới trong hệ thống khoa học tâm lý, tuy nhiên nó đã mang lại những tác dụng to lớn trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, đảm bảo sự công bằng trong hoạt động bảo vệ pháp luật và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm (cổ điển) về nguồn gốc, bản chất của tội phạm.
2.1. Quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm
Thuyết của S.Phơrơt cho rằng cấu trúc hành vi người được thúc đẩy bởi các thành tố cơ bản là ý thức-tiềm thức-vô thức, dựa trên cơ chế "thỏa mãn và dồn nén".
Khối vô thức là khối bản năng, trong đó bản năng tình dục giữ vị trí trung tâm. Khối vô thức là thùng năng lượng tâm thần chất chứa những khát vọng bản năng sôi sục, hoạt động theo nguyên tắc khoái cảm đòi hỏi sự thoả mãn ngay lập tức những khát vọng bản năng. Vô thức là cái ngấm ngầm điều khiển, điều chỉnh hành vi con người.
Khối ý thức tương đương với cái “tôi”. Cái tôi được hình thành do áp lực thực tại bên ngoài đến toàn bộ khối bản năng. Nó đảm bảo các chức năng tâm lý như chú ý, trí nhớ…Hoạt động của cái tôi theo nguyên tắc thực tại. Nhiệm vụ của cái tôi là làm cho cái bản năng thoả mãn mà không làm tổn hại đến cơ thể, làm giảm sự căng thẳng một cách tốt nhất.
Siêu tôi là tổ chức bên trong bao gồm tất cả phạm trù xã hội, đạo đức, nghệ thuật, giáo dục. Siêu tôi hoạt động theo nguyên tắc kiểm duyệt.
Cả ba khối này theo nguyên tắc chung là ở trạng thái thăng bằng tương đối: Con người lúc ấy ở trạng thái bình thường. Nhưng cả ba khối này luôn luôn xung đột với nhau, sự xung đột này là cơ chế của hoạt động tâm thần.
Từ quan niệm như trên S.Phơrơt nêu ra cơ chế hoạt động tâm lý của con người. Đó là cơ chế kiểm duyệt, chèn ép, cơ chế biến dạng, cơ chế siêu thăng, cơ chế suy thoái.
Con người sống gồm các bản năng. Xu hướng của các bản năng này là luôn vươn lên chiếm đoạt những cái khác (cái tôi và siêu tôi). Nhưng cái bản năng luôn bị sự chèn ép, kiểm duyệt của cái tôi. Do đó, nó phải biến dạng bằng một hình thức nào đó như bệnh tâm thần, hoặc tìm cách giải tỏa như hành vi phạm tội.
Cái siêu tôi thể hiện ở sự dạy dỗ, quy định của bố mẹ, thể hiện trong truyền thống của thế hệ trước truyền lại. Cơ chế tâm lý của việc hình thành siêu tôi là sự đồng nhất hoá - cá nhân đồng nhất với cha mẹ và những người giáo dục.
Học thuyết phân tâm của S. Phơrơt: đã đưa ra giả thuyết về vô thức tiềm thức là những mặt quan trọng trong đời sống tâm lý của con người. S. Phơrơt đã khám phá một thế giới vô thức mà trước đây chưa được khám phá. Mặt khác, đóng góp của S. Phơrơt còn ở chỗ đưa ra một số cơ chế tâm lý như cơ chế tự vệ, dồn nén, mặc cảm, đồng nhất hoá, các giai đoạn phát triển nhân cách. Từ những quan điểm trên, có thể đánh giá một người có phạm tội hay không, động cơ, mục đích phạm tội,…
Trên cơ sở học thuyết của S. Phơrơt, một vài lý thuyết tâm lý học cho rằng tội ác là kết quả của thiểu năng nhân cách. Thiểu năng nhân cách có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, từ việc học tập quá sức đến những tổn thương tâm lý từ thuở nhỏ... Khi tiến hành nghiên cứu ở những tên giết người hàng loạt khét tiếng như Ted Bundy hay Jeffrey Dahmer, người ta phát hiện thấy đa số chúng đều phải chịu những biến cố tâm lý từ lúc nhỏ với nhiều dạng và cấp độ khác nhau. Chúng đều là những kẻ tâm thần mang những nhân cách chống xã hội. Chúng không thể biết mình bị thiểu năng và luôn cảm thấy bị xã hội quấy rầy. Mức độ của những ám ảnh vô hình ngày càng tăng và đến một thời điểm nhất định kẻ mắc bệnh sẽ có những hành động mang tính bạo lực nhằm giải tỏa sự ức chế đó. Do đó, dựa trên quan điểm này, các nhà tội phạm học phân biệt ranh giới giữa bệnh nhân tâm thần và tội phạm.
Nếu tâm lý phân tâm lấy điều kiện bên trong làm nguyên tắc quyết định thì tâm lý học hành vi lại lấy điều kiện bên ngoài quyết định cho tâm lý con người. Những cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa hành vi do Watson xây dựng lên, đã thể hiện rất rõ điều ấy qua các nội dung cụ thể:
Tâm lý học hành vi tuyên bố không quan tâm đến việc mô tả, giảng giải các trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của tồn tại người, đối tượng của tâm lý học hành vi là hành vi con người. Hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của môi trường bên ngoài.
Theo Watson có 4 loại hành vi: hành vi bên ngoài, hành vi bên trong, hành vi tự động minh nhiên và hành vi tự động mặc nhiên. Theo ông, mọi việc con người làm kể cả suy nghĩ đều thuộc một trong bốn loại hành vi này. Nghiên cứu dùng các phương pháp khoa học khách quan, sử dụng phương pháp ghi chép các sự kiện kiểm soát được về quá trình cơ thể, thích nghi với môi trường.
Trong tâm lý học hành vi cổ điển, hành vi của động vật và người bị giản đơn hóa thành những cử động cơ thể. Nhờ những cử động đó với tính cách là “một cơ quan biết phản ứng” hay “một hệ thống vật lý” thích nghi với môi trường để đảm bảo sự sống còn. Quan sát cũng như giảng giải hành vi đều phải tuân theo công thức S - R. Trong đó S là kích thích, R là phản ứng. Kích thích có thể là một tình huống tổng quát của môi trường hay một điều kiện bên trong nào đó của sinh vật, phản ứng là bất cứ cái gì mà sinh vật làm và nó bao gồm rất nhiều thứ.
Với công thức S - R, Watson đã đặt cho thuyết hành vi mục đích cao cả là điều khiển hành vi động vật và con người. Lấy nguyên tắc "thử - sai" làm nguyên tắc khởi thuỷ điều khiển hành vi. Hành vi chỉ là mối liên hệ trực tiếp “cơ thể - môi trường”.
Theo quan điểm của tâm lý học hành vi thì việc con người thực hiện hành vi phạm tội là do sự kích thích của môi trường chứ không phải do ý thức bên trong.
2.2.Ý nghĩa rút ra đối với công tác phòng ngừa từ việc nghiên cứu những quan điểm đó
Từ quan điểm của tâm lý học phân tâm là hành vi phạm tội của một người là do những ức chế bên trong cần giải tỏa và quan điểm của tâm lý học hành vi là hành vi phạm tội do sụ tác động của yếu tố môi trường, đã chứng tỏ rằng việc dẫn đến hành vi phạm tội của một người có thể do rất nhiều yếu tố tâm lý tác động. Chính vì vậy, khi điều tra, xét xử vụ án, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản sau:
2.2.1. Vấn đề thứ nhất: Động cơ, mục đích, ý định phạm tội
Về động cơ: Đây là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Hình vi của con người trong trạng thái tâm lý đều được diễn ra do sự thúc đẩy của một hoặc một số động cơ nhất định. Thường những trường hợp phạm tội do cố ý được thực hiện do xung đột tình cảm được tích tụ lại đến một mức độ mà bản thân người ta không kiểm soát được, phải giải tỏa. Hành vi phạm tội càng được thúc đẩy nhanh hơn nếu như có sự kích thích, tác động của môi trường.
Ví dụ: Một kẻ phạm tội hiếp dâm, theo quan điểm phân tâm học cổ điển thì đó là do tính dục trong con người này rất mạnh mà không được đáp ứng nên dần tích tụ, dồn nén khiến người này luôn mong muốn được thỏa mãn dục vọng. Và hành vi hiếp dâm đã xảy ra khi kẻ đó tình cờ gặp một cô gái tại một quãng đường vắng, tức là theo tâm lý học hành vi, lúc này yếu tố môi trường (thuận lợi) đã thúc đẩy hành vi phạm tội.
Mục đích phạm tội: Là cái mà người phạm tội đặt ra trong trí óc của mình dưới dạng hình ảnh, biểu tượng và mong muốn đạt được nó thông qua hành vi phạm tội. Người phạm tội khi thực hiện tội phạm đều nhằm tới những mục đích nhất định.
Việc lựa chọn mục đích là do động cơ quyết định. Từ động cơ, kẻ phạm tội xác định mục đích hành động và vạch ra kế hoạch để có thể đạt được kết quả tối ưu.
Ví dụ: Năm 2008, một vụ án đã gây chấn động nước Áo và dư luận thế giới, đó là vụ án ông Josef Fritzl đã giam cầm con gái là Elisabeth Fritzl 24 năm dưới một tầng hầm để phục vụ nhu cầu tình dục của ông ta và hậu quả là Elisabeth Fritzl đã sinh ra tới 7 đứa chính bố đẻ của mình.
Các nhà tâm lý học tư pháp cho rằng, sở dĩ người cha có hành vi phạm tội kinh khủng như vậy có thể vì ông ta luôn có khao khát tình dục đối với cô con gái xinh đẹp và bản năng đã thôi thúc ông ta chiếm hữu cô. Để thục hiện mục đích của mình, Josef Fritzl đã dụ dỗ Elisabeth Fritzl đi vào tầng hầm căn nhà của họ ở thị trấn Amstetten, cách thủ đô Vienna gần 130km về phía tây, sau đó bị đánh thuốc mê và còng tay. Kể từ đó, cô bị ông Josef giam hãm và cưỡng hiếp nhiều lần.
Ý định phạm tội: Được xuất hiện trên cơ sở những động cơ phạm tội và gắn liền với sự phân tích, đánh giá hoàn cảnh cụ thể và việc xác định mục đích phạm tội cụ thể. Ý định phạm tội không mang tính khách quan mà là yếu tố tâm lý có tính chủ quan, do đó ý định phạm tội chính là cơ sở tâm lý dẫn đến việc thực hiện tội phạm. Ý định phạm tội có quan hệ chặt chẽ với điều kiện thực hiện tội phạm. Điều kiện thay đổi có thể làm thay đổi ý định phạm tội hoặc làm xuất hiện ý định phạm tội mới.
Ví dụ: Một kẻ có ý định trộm cắp tài sản, khi đột nhập vào nhà và khoắng xong tài sản thì bị chủ nhà phát hiện nên dù không muốn giết người nhưng để che dấu tội trộm cắp, tên trộm đã đâm chết chủ nhà.
2.2.2. Vấn đề thứ hai: Quyết định thực hiện hành vi phạm tội
Đây là cực điểm dẫn đến hành vi phạm tội, là điểm nút của toàn bộ quá trình chuẩn bị phạm tội. Có thể nói rằng, đến thời điểm này, nhân cách đã chuyển hóa, mục đích phạm tội đã chi phối toàn bộ suy nghĩ, tình cảm, hành động của tội phạm hướng đến kết quả sẽ đạt được thông qua hành vi phạm tội.
2.2.3. Vấn đề phương thức thực hiện hành vi phạm tội:
Phương thức thực hiện hành vi là hệ thống phương pháp được lựa chọn xuất phát từ động cơ, mục đích phạm tội đã hình thành và do đặc điểm tâm lý của người thực hiện hành vi phạm tội quy định.
Phương thức thực hiện hành vi phạm tội phản ánh ý định và quá trình chuẩn bị phạm tội. Việc làm rõ phương thức thực hiện phạm tội sẽ giúp thấy được động cơ thúc đẩy người phạm tội, mục đích mà họ theo đuổi, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi phạm tội của họ. Trong phương thức còn thể hiện đặc điểm tâm lý, trình độ, kỹ năng, ký xảo, thói quen, các mối quan hệ xã hội, kiểu khí chất, trạng thái tâm lý của người phạm tội.
Ví dụ: Những hành vi côn đồ thường có ở những người thuộc khí chất nóng, không biết kiềm chế, thiếu giáo dục.
2.2.4. Diễn biến tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội
Tâm lý học pháp lý đã chỉ ra rằng, việc thực hiện hành vi phạm tội trong đa số các trường hợp đều gắn với việc nhằm đạt tới kết quả đã định trước. Sau khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội, đã đạt được kết quả ở mức độ khác nhau so với dự kiến ban đầu thì thường có những thay đổi nhất định diễn ra trong tâm lý của họ. Tâm lý này có thể diễn ra theo hai chiều hướng chủ yếu là thái độ ăn năn, hối hận hoặc thỏa mãn với kết quả đã đạt được.
Theo quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm cổ điển thì sau khi gây án, kẻ phạm tội thường cảm thấy lo lắng, bất an, đặc biệt đối với các vụ án giết người, tội phạm thường rất run sợ. Hình ảnh về kết quả đã đạt được có thể gây nên những cảm xúc nặng nề, ghê rợn cùng với sự ăn năn, hối hận của sự phạm tội. Ở một số người phạm tội mới bị đe dọa phát giác, bị trừng phạt đã có trạng thái căng thẳng. Vì vậy, trong thời gian này người phạm tội thường có những hành vi không hợp với hoàn cảnh, giảm khả năng tự điều chỉnh, hay nghi ngờ, không nhanh nhạy, luôn luôn trong trạng thái trầm uất, ủ rũ. Có trường hợp quá lo lắng đã đến hiện trường vụ án để thăm dò hoặc cố tình tìm cách xóa dấu vết. Chính những hành động bất thường này đã giúp cơ quan điều tra có thể tìm ra thủ phạm của vụ án.
Một hướng khác đó là sau khi phạm tội, kẻ phạm tội thỏa mãn với kết quả đạt được nến càng yên tâm hơn khi thực hiện những “phi vụ” tiếp theo. Kẻ phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội ở những lần tiếp theo thường chú ý xóa dấu vết và hành vi phạm tội thường tàn nhẫn hơn, nguy hiểm hơn nhưng sự tính toán này nhiều khi lại lộ ra những sơ hở.
Tóm lại: Người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội, dù là phạm tội lần đầu hay tái phạm đều có trạng thái tâm lý căng thẳng, luôn luôn lo lắng, bồn chồn, sợ hãi do bị ám ảnh bởi hành vi phạm tội mà họ đã gây ra và bởi ý nghĩ sẽ bị phát giác, bị bắt và bị trừng phạt mà họ sẽ phải gánh chịu. Đây là trạng thái tâm lý đặc trưng có tính chất quy luật trong diễn biến tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trạng thái tâm lý đó của người phạm tội thường không được ổn định mà luôn vận động, thay đổi.
2.2.4.2. Những nhân tố cơ bản có ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
- Tính chất của hành vi phạm tội:
Tính chất phức tạp của quá trình thực hiện hành vi phạm tội có ảnh hưởng rất nhiều đến trạng thái tâm lý của kẻ phạm tội. Bởi vì nếu quá trình thực hiện hành vi phạm tội diễn ra khó khăn đòi hỏi người phạm tội phải sử dụng nhiều sức lực và trí tuệ. Trong những trường hợp, phạm tội lần đầu hay phạm tội do hoàn cảnh hoặc hậu quả của tội phạm xảy ra là nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội thì sau đó họ thường có trạng thái lo lắng, căng thẳng và bị dằn vặt nhiều hơn so với những trường hợp khác.
Sự nhận thức của người phạm tội về hậu quả của tội phạm và những cảm xúc trước hậu quả đó
Hậu quả của tội phạm là những thiệt hại về vật chất, tinh thần và các biến đổi khác và các biến đổi khác nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra luôn là yếu tố quan trọng tác động đến trạng thái tâm lý của người phạm tội. Trên thực tế, nếu người phạm tội nhận thức được những thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho xã hội , mà thiệt hại đó lại rất nghiêm trọng hoặc nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ, thì chính hậu quả của tội phạm sẽ ám ảnh rất nhiều trong đầu óc của người phạm tội và gây cho họ những cảm xúc lo lắng, bồn chồn, sợ hãi về trách nhiệm mà họ phải gánh chịu. Trạng thái của người phạm tội càng trở nên căng thẳng hơn khi họ thấy có nguy cơ bị phát giác, bị bắt.
- Sự đánh giá về việc ngụy trang, che giấu hành vi phạm tội của người phạm tội và về trách nhiệm hình sự mà họ phải gánh chịu.
Sau khi thực hiện tội phạm, người phạm tội thường phân tích đánh giá lại tự ngụy trang, che dấu hành vi phạm tội của mình để xác định xem chỗ nào đã đảm bảo bí mật và chỗ nào còn sơ hở, dễ bị cơ quan điều tra phát hiện. Nếu phát hiện ra bí mật của hành vi phạm tội có nguy cơ bị bại lộ, thì người phạm tội luôn có trạng thái tâm lý rất căng thẳng và tập trung vào tư duy cao độ để tìm cách che dấu hành vi phạm tội của mình. Khi người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và có lỗi thì tất nhiên họ phải biết hậu quả pháp lý bất lợi tất yếu sẽ đến với họ là điều không tránh khỏi. Do đó, người phạm tội thường có trạng thái tâm lý rất căng thẳng và tìm mọi cách đối phó với cơ quan bảo vệ pháp luật hoặc là chủ động ra đầu thú để mong nhận được sự khoan hồng của nhà nước.
Tác động của dư luận xã hội và hoạt động điều tra của các cơ quan bảo vệ luật pháp.
Nếu như người phạm tội đã gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội và bị dư luận xã hội lên án gay gắt, đồng thời đòi hỏi các cơ quan pháp luật phải tiến hành hoạt động điều tra tích cực bằng mọi cách để nhanh chóng tìm ra can phạm thì sẽ gây cho họ trạng thái tâm lý căng thẳng, lo sợ bị phát giác, bị trừng trị.
2.2.4.3. Một số cách người phạm tội thường dùng nhằm giải tỏa trạng thái tâm lý căng thẳng sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội luôn rơi vào trạng thái tâm lý căng thẳng. Chính trạng thái tâm lý này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần và thể chất của người phạm tội. Do vậy, theo quy luật tâm lý, người phạm tội luôn muốn thoát khỏi trạng thái tâm lý căng thẳng bằng mọi cách. Có thể là một trong các cách sau:
Người phạm tội thay đổi nhịp sống khác với thường ngày như họ thường biểu hiện tích cực một cách không bình thường, mang tính bề ngoài (tham gia lao động tích cực, học tập chăm chỉ khác thường…) hoặc dung bia, rượu, ma túy để rơi vào trạng hái âm tính (trạng thái ức chế) nhằm gạt bỏ trạng thái tâm lý căng thẳng này. Tuy nhiên, sau ức chế, trạng thái tâm lý căng thẳng lại tiếp tục.
Người phạm tội xa lánh địa bàn nơi gây án và địa bàn đang diễn ra hoạt động điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật
Người phạm tội tìm mọi cách để che dấu hành vi phạm tội của mình, chống lại sự phát hiện của cơ quan bảo vệ pháp luật. Đồng thơi, chuẩn bị cung cách khai báo nếu bị bắt.
Trong thực tế, có những trường hợp người phạm tội đã ra đầu thú trước cơ quan bảo vệ pháp luật và chấp nhận sự trừng phạt vì không thể chịu được những ám ảnh hoặc những ức chế tâm lý.
Kết luận
Nghiên cứu quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm về nguồn gốc và bản chất của tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc điều tra, xét xử tội phạm. Cái gì thúc đẩy một người thực hiện hành vi phạm tội (động cơ), họ thực hiện nhằn làm gì (mục đích) và thái độ sau khi thực hiện hành vi phạm tội (trạng thái tâm lý). Tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm đã chỉ ra rằng, những ám ảnh, những như cầu không được đáp ứng sẽ tạo ra những ức chế về mặt tâm lý và khi có một tác động nhất định của môi trường bên ngoài, người ta sẽ bị thúc đẩy để giải tỏa những ức chế này. Việc giải tỏa này nếu bị lệch chuẩn (vi phạm các chuẩn mực của pháp luật) thì hành vi giải tỏa đó sẽ trở thành hành vi phạm tội (ví dụ: Một người có tính ghen tuông và anh ta luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh vợ hoặc người yêu tình cảm với người nào đó, tình cờ bắt gặp người yêu đứng nói chuyện với người khác giới, cơn ghen bùng phát và anh ta đã lao vào đâm chết cả hai người).
Việc nghiên cứu những quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm trên sẽ giúp cơ quan pháp luật xác định đúng người, đúng tội. Cũng là hành vi giết người nhưng nếu là do bị kích động tinh thần thì sẽ nhẹ hơn hành vi giết người một cách đê hèn, dã man (dù hậu quả là như nhau, tức là có người bị chết).
Việc nghiên cứu quan điểm trên cũng giúp cơ quan điều tra, xét xử nắm bắt được tâm lý của kẻ phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội, đặc biệt là tâm lý lo lắng, run sợ, hoảng loạn sau khi gây án, dù kẻ phạm tội đã tìm mọi cách che dấu hành vi phạm tội. Từ đó có thể giúp nhanh chóng tìm ra được kẻ phạm tội và giúp việc xét xử được công bằng, nghiêm minh.
Mục lục
1. Lời mở đầu
2. Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm (cổ điển) về nguồn gốc, bản chất của tội phạm.
2.1. Quan điểm của tâm lý học hành vi và tâm lý học phân tâm
2.2.Ý nghĩa rút ra đối với công tác phòng ngừa từ việc nghiên cứu những quan điểm đó
2.2.1. Vấn đề thứ nhất: Động cơ, mục đích, ý định phạm tội
2.2.2. Vấn đề thứ hai: Quyết định thực hiện hành vi phạm tội
2.2.3. Vấn đề phương thức thực hiện hành vi phạm tội:
2.2.4. Diễn biến tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội
2.2.4.2. Những nhân tố cơ bản có ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
2.2.4.3. Một số cách người phạm tội thường dùng nhằm giải tỏa trạng thái tâm lý căng thẳng sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Trương Am, Tác động tâm lý trong hoạt động điều tra hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2001.
Nguyễn Hồi Loan - Đặng Thanh Nga, Tâm lý học tư pháp, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2009
Trương Ngôn, Giáo trình tâm lý pháp lý, Trường đại học Cảnh sát nhân dân, 1995.
Đào Thị Oanh, Tâm lý học xã hội, Giáo trình dung cho học viên cao học tâm lý, Hà Nội, 1996
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quan điểm của tâm lý học hành vi, tâm lý học phân tâm (cổ điển) về nguồn gốc, bản chất của tội phạm và ý nghĩa rút ra đối với công tác phòng ngừa từ v.doc