Con người là sản phẩm của lao động, chính do lao động và nhờ có lao động con người cần trao đổi thông tin với nhau mà ngôn ngữ hình thành, ý thức hình thành, sự giao tiếp, văn hoá, các quan hệ giữa người với người, quan hệ xã hội hình thành; con người chịu sự tác động, chi phối của môi trường và các quy luật xã hội; con người có các nhu cầu xã hội như: giao tiếp, thẩm mỹ, chính trị, an toàn, biết tự trọng và muốn được kính trọng, tự sáng tạo và tự hoàn thiện bản thân,. Những nhu cầu này rất khác nhau giữa những con người cụ thể, phụ thuộc vào điều kiện sống, hoàn cảnh của mỗi cá nhân, đặc tính của mỗi cá nhân, trình độ văn hoá của mỗi người. Một khi nhu cầu bậc thấp được thoả mãn thì nhu cầu ở bậc cao hơn sẽ xuất hiện. Các nhà quản lý xã hội và quản lý tổ chức cần phải tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của mỗi cá nhân người lao động và tìm cách đáp ứng các nhu cầu đó, nghĩa là tạo ra lợi ích cho người lao động để từ đó khơi dậy động lực lao động trong mỗi con ngươì.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13827 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm của triết học về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m của mọi quá trình phát triển. Hiện nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội càng trở nên quan trọng và cấp thiết.
Để nghiên cứu bản chất con người là gì?, con người quan hệ với thế giới như thế nào?, con người có vai trò như thế nào trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội?.... hay để tìm hiểu "Quan điểm của triết học về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta", cần phải làm rõ các nội dung sau:
Phần 1: Trình bày hiện trạng nghiên cứu con người
Phần 2: Vận dụng lý luận về con người trong triết học Mác - Lênin với việc phân tích vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam;
Phần 3: Một số giải pháp để xây dựng nguồn lực con người trong sư nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1
HIỆN TRẠNG NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI
Trong tất cả các đối tượng mà con người nghiên cứu thì không có đối tượng nào hấp dẫn bằng nghiên cứu con người và cả thế giới từ xưa đến nay đều loay hoay tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi muôn thuở "Con người là ai?". Phát triển và hoàn thiện con người là mục tiêu và lý tưởng cao cả nhất của nhân loại. Thời đại ngày nay đang mở ra nhiều khả năng để cho loài người tiến bộ tự mình tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai.
Con người sinh ra không chỉ biết tồn tại mà còn biết sống và khác với muôn loài ở chỗ con người biết sống. Một cuộc sống chân chính, đó không chỉ là sự đáp ứng các nhu cầu vật chất mà cao hơn là được đáp ứng các nhu cầu tinh thần, không chỉ là thoả mãn các tiện nghi mà cao hơn là thoả mãn sự hoàn thiện thế giới, trong đó có bản thân mình. Nâng cao hiểu biết, phát triển thể chất và trí tuệ, nâng cao trình độ làm chủ tự nhiên, xã hội, bản thân, xây dựng một cuộc sống văn minh, tiến bộ, hạnh phúc, hoàn thiện, v.v... đó là lý tưởng cao đẹp nhất của loài người.
Loài người bắt đầu tiến những bước dài cùng với văn minh Tây Âu của các phong trào Phục hưng, Khai sáng, v.v... với các học thuyết, tư tưởng phát triển trên nền khoa học, kỹ thuật, v.v... Các trào lưu tư tưởng phương Tây hiện đại với những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến đã mở ra những hướng mới để tiếp cận thế giới. Platon cho rằng con người ra đời đã mang bản chất khác nhau và được chia thành 3 loại phù hợp với những chức năng xã hội khác nhau: chỉ huy, thừa hành và phục tùng.
Ở phương Đông, Nho giáo đã từng là hệ tư tưởng chính thống của nhiều quốc gia, nó có ưu thế trong việc thiết lập kỷ cương xã hội với "tam cương, ngũ thường", trong việc xây dựng một nền đạo đức "nhân nghĩa",... Nhưng chính nó lại là vòng cương toả bản chất tự do phát triển tự nhiên của con người.
Phật giáo như một lý thuyết về sự giải thoát bể khổ nhân gian bằng cách đi vào tự ngã của cái tâm bên trong nhằm đạt tới sự sáng suốt tối cao ở Niết bàn. Học thuyết đó có sức mạnh đưa con người vào thế giới thanh bạch "từ bi hỷ xả", nhưng nó thực hiện ý tưởng đó bằng cách khước từ những ham muốn quý báu vốn có của con người, thủ tiêu sức sống hành động của con người. Đánh giá đạo Phật, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói "nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho loài người".
Thiên chúa giáo lại chủ trương khoan dung bao la, ước mong về một xã hội "công bằng, bác ái", vươn tới sự toàn thiện, toàn mỹ nhưng đó là sự khoan dung, sự công bằng, sự toàn thiện, toàn mỹ của thế giới trên thiên đường.
Mặc dù được các nhà triết học rất quan tâm nhưng với cách nhìn nhận siêu hình, phiến diện các quan điểm về con người trước Mác có hạn chế cơ bản sau: trước hết, sự tiếp cận trừu tượng về con người. Chỉ tiếp cận ở một phương diện, một khía cạnh nào đó của con người, tuyệt đối hoá bản chất con người là cái vốn có. Ví dụ trong triết học Trung hoa Cổ đại chỉ tiếp cận bản chất con người về mặt chính trị, đạo đức; triết học Ấn Độ tiếp cận bản chất con người với khía cạnh tâm linh; triết học Hy Lạp thì tiếp cận dưới góc độ đời sống tinh thần; triết học Cận đại lại tiếp cận với khía cạnh sinh học; ngay cả triết học Cổ điển Đức thì sự tiếp cận con người từ phương diện tinh thần, đời sống tình cảm, tình yêu nam nữ.
Như vậy, so với tất các cả học thuyết, các tư tưởng đã và đang tồn tại, có thể nói, chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học tiến bộ hơn cả. Nhiều nhà tư tưởng phi mác-xít cũng thừa nhận là chủ nghĩa Mác vượt xa tất cả các hệ tư tưởng trong lịch sử về mọi mặt: về hệ thống lý luận, về nội dung khoa học, về phương pháp phản ánh, cách tiếp cận và về khả năng cải tạo thế giới. Từ cái nhìn bao quát và chiều sâu bản chất chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận đề cập và giải quyết vấn đề con người ở tầm lớn lao với tính toàn vẹn, hiện thực và khoa học. Có thể nói, cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa nhân đạo, là học thuyết về con người và vì con người. Vượt lên trên tất cả các học thuyết triết lý trong lịch sử, các học thuyết xuất phát từ thần thánh, từ ý niệm, từ tự nhiên, thậm chí từ con người chung chung trừu tượng,v.v... chủ nghĩa Mác-Lênin đã vạch ra được bản chất con người hiện thực "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Chỉ khi vạch ra được bản chất con người hiện thực như là điều kiện tiên quyết mới có thể giúp con người thực hiện được sứ mệnh phát triển chính mình. Giá trị nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin còn được nâng cao lên ở chỗ nó không chỉ vạch ra bản chất mà còn vạch ra bản tính con người hiện thực. Bất cứ ở đâu và làm gì, trong bất kỳ trường hợp nào, con người cũng thực hiện mục đích của mình, hành động theo thước đo của cái đẹp. Bản tính con người cũng được chủ nghĩa Mác-Lênin phát hiện sâu hơn, ở khát vọng vươn tới tự do, phát triển toàn vẹn mỗi cá nhân, mà biểu hiện hiện thực của bản tính đó là khả năng cải biến tự nhiên, cải biến xã hội; với năng lực sáng tạo vô tận là phương tiện, là điều kiện và khả năng cao nhất để con người vươn tới sự hoàn thiện.
Trong thời gian qua, chủ nghĩa Mác-Lênin tạo được bước tiến rất lớn cho sự phát triển con người Việt Nam. Nhưng sự phát triển con người với tư cách là phát triển tối đa bản chất, bản tính và khả năng của nó theo đúng tinh thần mác-xít lêninnít với các khái niệm tự do, phát triển đúng nghĩa khoa học của chúng thì trên thực tế lại chứa đựng những thiếu hụt và sai lầm nghiêm trọng. Do tri thức non kém, chủ nghĩa Mác-Lênin được hiểu và vận dụng vào Việt Nam một cách giản đơn, thô thiển, đã làm nảy sinh quan niệm sai lầm về con người: trong xã hội chỉ chú ý cộng đồng mà xem nhẹ cá nhân. Quan niệm đó đòi hỏi xã hội phải có những thành viên phù hợp với nó: mọi người phải cùng một khuôn mẫu, đó chính là nguyên nhân sản sinh ra những con người giản đơn, nghèo nàn, đơn điệu, những con người không phát triển toàn diện - hài hoà, không cần tính tự chủ, năng động và tài năng sáng tạo, mà là con người phục tùng và thừa hành, ra lệnh và quyền uy. Cơ chế quan liêu bao cấp đã góp phần tạo nên những con người mang tính sơ lược, tuỳ tiện, tư duy bao cấp đẻ ra tính ỷ lại, triệt tiêu tính độc lập, tự chủ, tính năng động của từng chủ thể, làm thui chột tài năng và bản chất sáng tạo vốn có quý báu nhất của con người,v.v...
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI TRONG
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về con người
1.1 Phương pháp tiếp cận
Triết học Mác xuất phát từ con người, nhưng Mác đã vượt qua quan niệm trừu tượng về con người để nhận thức con người hiện thực. Theo Mác, con người có đời sống hiện thực và biến đổi cùng với sự biến đổi đời sống hiện thực của nó; trong đó phương thức sản xuất vật chất không chỉ đơn thuần là sự tái sản xuất ra tồn tại thể xác của cá nhân, mà hơn thế nó đã là một hình thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một phương thức sinh sống nhất định của họ.
Chỉ có thể xem xét con người trong đời sống hiện thực mới hiểu được đúng bản chất con người của nó không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá thể con người. Mác đã đi tới quyết định: "trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Gắn con người với hoạt động thực tiễn tức là con người có mối quan hệ chặt chẽ với tự nhiên, chinh phục và cải tạo tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ đời sống của con người. Cũng chính trong quá trình lao động sản xuất, hoạt động thực tiễn mà con người có mối quan hệ với nhau, hình thành các mối quan hệ xã hội và mọi quy luật xã hội, và nhờ đó tạo nên xã hội loài người với con người hiện thực. Đây chính là điểm khác nhau căn bản với triết học trước Mác. Mác đã kết luận: "Với tư cách là con người hiện thực, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên và xã hội". Nói cách khác, chủ nghĩa Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên, gạt bỏ cái sinh vật khi xem xét con người, mà xem xét con người như một thực thể sinh học-xã hội. Mác viết: con người là một sinh vật có tính loài và xem giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người... vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên.
1.2 Con người là thực thể sinh học - xã hội:
Phương diện sinh học về con người:
Triết học Mác đã coi con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của tự nhiên. Con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và các quy luật của tự nhiên. Con người cũng có những nhu cầu sinh học: ăn, uống, ngủ, nghỉ ngơi, tái sản xuất ra giống nòi.
Phương diện xã hội trong con người:
Con người là sản phẩm của lao động, chính do lao động và nhờ có lao động con người cần trao đổi thông tin với nhau mà ngôn ngữ hình thành, ý thức hình thành, sự giao tiếp, văn hoá, các quan hệ giữa người với người, quan hệ xã hội hình thành; con người chịu sự tác động, chi phối của môi trường và các quy luật xã hội; con người có các nhu cầu xã hội như: giao tiếp, thẩm mỹ, chính trị, an toàn, biết tự trọng và muốn được kính trọng, tự sáng tạo và tự hoàn thiện bản thân,.... Những nhu cầu này rất khác nhau giữa những con người cụ thể, phụ thuộc vào điều kiện sống, hoàn cảnh của mỗi cá nhân, đặc tính của mỗi cá nhân, trình độ văn hoá của mỗi người. Một khi nhu cầu bậc thấp được thoả mãn thì nhu cầu ở bậc cao hơn sẽ xuất hiện. Các nhà quản lý xã hội và quản lý tổ chức cần phải tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của mỗi cá nhân người lao động và tìm cách đáp ứng các nhu cầu đó, nghĩa là tạo ra lợi ích cho người lao động để từ đó khơi dậy động lực lao động trong mỗi con ngươì.
Phương diện xã hội và phương diện sinh học của con người tác động biện chứng, thâm nhập vào nhau và tạo nên con người là động vật xã hội. Phát triển mặt xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu sinh học. Mỗi bước tiến về mặt xã hội là một bước nâng cao mức độ thoả mãn nhu cầu sinh học. Những nhu cầu sinh học lại được thể hiện thông qua các quan hệ xã hội. Do đó, không kết hợp cả hai phương diện sinh học, xã hội sẽ dẫn đến nhận thức trừu tượng, phiến diện về con người, không có động lực thúc đẩy sự phát triển. Nhưng trên thực tế con người lại là những con người ở thời đại khác nhau, các dân tộc khác nhau, các giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau, nên trong họ cái tự nhiên tồn tại trong sự tác động của cái xã hội. Năng khiếu bẩm sinh của một con người có thể được nuôi dưỡng hoặc thui chột đi tuỳ thuộc vào điều kiện, môi trường xã hội, do hoàn cảnh xã hội quy định.
1.3 Bản chất con người
Bản chất là tập hợp tất cả các mối quan hệ tất nhiên bên trong tương đối ổn định và quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Mác viết: "Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà của những quan hệ xã hội".
Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng, đan xen nhau, hoà quyện với nhau: như các quan hệ kinh tế, chính trị, đạo đức, tôn giáo, khoa học. Các quan hệ này còn được thể hiện dưới các góc độ khác nhau: dân tộc, cộng đồng, gia đình, giai cấp hoặc của một tập thể, các quan hệ đó diễn ra trong quá khứ, hiện tại, tương lai, trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Theo quan niệm duy vật lịch sử, quan hệ sản xuất là cơ sở của các quan hệ xã hội khác, nhưng các quan hệ xã hội khác lại có tính độc lập tương đối. Bản thân quan hệ sản xuất là quan hệ xã hội của con người trong sản xuất cũng hình thành và biến đổi với sự biến đổi quan hệ giữa con người với tự nhiên. Điều đó có nghĩa là các quan hệ xã hội quy định bản chất con người được triết học Mác xem xét không tách rời, cô lập với các quan hệ giữa con người với tự nhiên. Bản chất con người không phải bất biến, vốn có mà được hình thành và biến đổi theo sự biến đổi của các quan hệ xã hội, để thay đổi bản chất con người phải thay đổi môi trường xã hội.
Hơn nữa, phải xem xét các quan hệ xã hội cấu thành bản chất con người trong sự liên hệ tổng hoà của chúng. Bản chất con người chỉ có thể được hình thành và thể hiện trong các mối quan hệ xã hội, những quan hệ xã hội ấy chi phối, quyết định hành vi của con người trong đời sống hiện thực phụ thuộc vào hoàn cảnh sinh sống của con người. Mặt khác, không chỉ là sự tổng hoà các quan hệ kinh tế với chính trị, văn hoá, đạo đức và pháp quyền,... mà còn phải xem xét mặt vật chất và tinh thần, mặt không gian và thời gian của các quan hệ xã hội trong sự tổng hoà đó, đặc biệt cần thấy sự thống nhất cái chung toàn nhân loại với cái đặc thù giai cấp, dân tộc trong cái riêng của mỗi cá nhân con người. Ở đây cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, nhưng cái chung chỉ là một bộ phận, một khía cạnh hay một bản chất của cái riêng. Sự xem thường cái cá nhân, cái nhân loại trong việc giải quyết những vấn đề chính trị - xã hội là biểu hiện xa lạ với quan điểm biện chứng Mác xít. Ngoài ra, cũng cần phê phán việc thổi phồng cái chung toàn nhân loại, hạ thấp vai trò của cái đặc thù giai cấp, dân tộc.
Con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của hoàn cảnh
Trước hết con người là sản phẩm của hoàn cảnh vì: con người là kết quả của quá trình tiến hoá tự nhiên; con người kết quả của hoạt động sản xuất; con người là sản phẩm của các quan hệ xã hội và luôn chịu sự chi phối của các quan hệ xã hội. Hoàn cảnh nào thì tạo nên con người ấy. Do đó, phải tạo ra hoàn cảnh có tính người, tạo ra môi trường tích cực, điều kiện, cơ chế vì con người.
Mặt khác, con người là chủ thể của hoàn cảnh vì: hoàn cảnh lại do con người tạo ra, cải tạo hoàn cảnh cho phù hợp. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi đời sống xã hội, đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Do vậy, phát triển nguồn lực con người đã trở thành vấn đề có tính quy luật của thời đại, con người là trung tâm của sự phát triển. Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, duy trì và phát triển năng lực của người lao động, đón đầu những thay đổi có tính chiến lược để tổ chức và quốc gia có lực lượng lao động thích ứng với mọi tình huống, chủ động đối với tương lai. Đó chính là vấn đề chiến lược nguồn nhân lực của mọi tổ chức và của quốc gia trong việc sử dụng, duy trì, bảo toàn và phát triển nguồn nhân lực con người.
2. Vận dung lý luận về con người trong triết học Mác - Lênin với việc xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
Theo lý luận Mác - Lênin, con người là chủ thể toàn năng, đó chính là con người được phát triển một cách chỉnh thể hài hoà cả ba mặt cơ bản:
- Thứ nhất, con người với tư cách là sản phẩm của lịch sử tự nhiên (tức khía cạnh con người bản thể). Đó là góc độ phát triển con người sinh học - xã hội, do tự nhiên và xã hội tạo nên cả về thể chất lẫn tinh thần: thể lực, trí lực, đạo đức, thẩm mỹ, ... con người được phát triển mặt này chính là nền tảng quyết định nhất cho mọi sự phát triển về sau ở các tầng cao hơn.
- Thứ hai, con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra lịch sử (thực chất là động lực và tiềm lực phát triển xã hội). Đó là con người được phát triển các trình độ tư chất, năng khiếu, tài năng cũng như các khía cạnh phẩm chất, ý chí, tinh thần,v.v... là chủ thể hoạt động cải tạo, sáng tạo, xây dựng thế giới mới, điều kiện sống mới, chất sống mới.
- Thứ ba, con người văn hoá (với tư cách là mục tiêu của chính mình). Đó là con người không chỉ phát triển thể chất, tinh thần, có năng lực cao tạo dựng ra thế giới mới - thế giới văn hoá thứ hai, mà điều có ý nghĩa lớn lao là xây dựng chính bản thân mình với tư cách một chủ thể, phát triển tự do, tối đa, toàn diện, hài hoà, hay nói cách khác là con người toàn năng: con người phát triển thể chất - tâm hồn, tình cảm - trí tuệ, đạo đức - thẩm mỹ, văn hoá vật chất - văn hoá tinh thần, khả năng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ chính mình,v.v...
Cùng với nhân loại, nhân dân Việt Nam cũng phải trải qua lịch sử nhận thức, đấu tranh và xây dựng trong nhiều thập kỷ, đến nay mới có thể đề ra và thực hiện lý tưởng: "Con người - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội". Tức là nhân dân Việt Nam phải vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, đánh đuổi nhiều kẻ thù xâm lược, giải phóng chính mình, xây dựng một đất nước giàu mạnh, văn minh (con người là động lực), để rồi trên nền tảng đó mới có thể phát triển tối đa, toàn diện mọi năng lực và phẩm chất vốn có của mình, hưởng một cuộc sống hạnh phúc với tất cả các phẩm chất và giá trị nhân văn (con người là mục tiêu). Cái xã hội phấn đấu cho lý tưởng nhân văn cao đẹp đó là một xã hội "tất cả của con người, do con người và vì con người".
Những thành tựu nổi bật trong sự phát triển kinh tế từ những năm 80 của thế kỷ XX là kết quả của sự thay đổi chiến lược phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày nay, thế giới đang chuyển từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên hạn hẹp sang nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế đó, việc đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực được coi là quan trọng hơn các dạng đầu tư khác. Kinh nghiệm phát triển của khu vực Châu Á trong vài thập kỷ vừa qua đã cho thấy, sự cất cánh và phát triển của họ là ở chiến lược con người. Có thể nói, chìa khoá của sự thành công nằm ngay trong chân lý đơn giản: "chiến lược trồng người".
Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế, việc nhận thức về vị trí nhân tố con người đã có sự thay đổi theo hướng ngày càng đúng hơn. Trong quá trình đổi mới, quan điểm "con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" đã được khẳng định rõ trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như trong thực tiễn của nước ta. Điều đó phản ánh tính đúng đắn của tư duy mới phù hợp với xu hướng nhận thức chung của thời đại. Ở thời đại ngày nay, sự chăm lo đầy đủ đến con người là đảm bảo chắc chắn nhất của sự phồn vinh, thịnh vượng; sự đầu tư vào con người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển.
Chuyển từ nền kinh tế có kế hoạch tập trung, sang nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN, mà trước tiên là phải thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kinh nghiệm chỉ ra rằng con người là tài sản quan trọng nhất của đất nước, của một tổ chức. Chiến lược phát triển cần coi con người là trung tâm của mọi quá trình phát triển. Phát triển con người ổn định thể hiện công bằng trong mỗi thế hệ và công bằng giữa các thế hệ, cho phép mọi thế hệ trong hiện tại và tương lai sử dụng tốt nhất năng lực của họ.
Do đó, trong điều kiện kinh tế thị trường thì lực lượng lao động với chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh đã và đang trở thành lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ nhất, quyết định sự thắng lợi của các tổ chức trên thương trường. Với cách nhìn nhận đó, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế - xã hội, Việt Nam phải coi con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, nguồn lực trí tuệ với kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm đáp ứng được yêu cầu của kỹ thuật hiện đại là quan trọng nhất.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Quan tâm đúng mức lợi ích kinh tế hợp pháp của người lao động, thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế
Trong thời gian dài trong cơ chế quan liêu bao cấp trước đây, tình hình kinh tế nước ta ở trong vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ: muốn phát triển sản xuất, chúng ta cần có những người lao động phát triển tốt cả về thể lực và trí lực. Nhưng điều đó chỉ có được, khi nền kinh tế phát triển với năng suất lao động cao. Nền kinh tế của ta lại kém phát triển, thu nhập của người lao động thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn, nạn suy dinh dưỡng tăng lên, người lao động không được đào tạo đầy đủ. Công cuộc đổi mới của chúng ta đã khơi dậy tính tích cực của người lao động, biến nó thành nguồn sức mạnh to lớn, đưa chúng ta vượt khó khăn để phát triển kinh tế. Nếu chỉ dựa vào tinh thần lao động tích cực, ý chí vươn lên đơn thuần của nhân dân, chúng ta không thể xây dựng được một nền sản xuất hiện đại. Nhưng nếu chỉ chú ý nâng cao trình độ học vấn của người lao động, công nghệ hiện đại và đảm bảo sức khoẻ của người lao động mà không chú ý khơi dậy tính tích cực ở họ, chúng ta cũng không thể tận dụng được cơ hội để vượt qua những thử thách hiện nay. Vì vậy, quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của người lao động một cách toàn diện, từ nâng cao mức sống, sức khoẻ đến nâng cao trình độ của họ là nhiệm vụ mà ta cần phải làm.
2. Xây dựng môi trường hoạt động thuận lợi cho việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế
Nhà nước cần tạo một môi trường xã hội thích hợp cho người lao động không chỉ trong hoạt động sản xuất, mà còn trong các quan hệ xã hội khác. Để đạt được mục tiêu trên, chúng ta phải cải tạo quan hệ sản xuất, luôn điều chỉnh nó cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thực tế thời gian qua đã chứng minh rằng, về cơ bản quan hệ sản xuất thời kỳ trước đổi mới chưa phù hợp với phát triển của lực lượng sản xuất. Hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang hình thành và phát triển. Đây cũng chính là quá trình từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất để nó phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Kinh tế thị trường đòi hỏi mọi của cải đều phải trở thành hàng hoá, kể cả tư liệu sản xuất, sức lao động, trí tuệ và sản phẩm lao động. Yêu cầu đó đã tạo ra cạnh tranh, thôi thúc người lao động tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để vươn lên có việc làm tốt, thu nhập cao, kích thích phát minh sáng tạo. Chính đây là một nhân tố quan trọng góp phần hình thành quan hệ hợp lý, rõ ràng, bình đẳng giữa người và người.
Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các nước XHCN nhiều người cũng thừa nhận rằng, chúng ta đã hướng theo những mẫu người chưa thật phù hợp với thực tiễn thời đại và với tinh thần của CNXH. CNXH đòi hỏi con người phải hiện thực và sinh động hơn, phải phong phú và đa dạng hơn, phải văn hoá và trí tuệ hơn với những cá tính độc đáo và những phẩm chất năng động mới. Chỉ như vậy, thời đại mới đi đúng dòng chảy tự nhiên, mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình trong quá trình phát triển, nó mới là điều kiện cho con người vươn tới giá trị đích thực cao cả của mình.
3. Kiện toàn hợp lý tổ chức bộ máy Nhà nước và nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ
Chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khi cơ chế cũ quan liêu bao cấp vẫn còn những ảnh hưởng tiêu cực: bộ máy quản lý cồng kềnh, cán bộ kém năng động, thụ động, ỷ lại,... Trong những năm đổi mới vừa qua, nhiều yếu kém đã được khắc phục một bước, song nhìn chung chưa chuyển biến cơ bản, bộ máy vẫn còn cồng kềnh, thủ tục phiền hà, điều hành phân tán, hiệu lực thấp. Một bộ phận cán bộ kém năng lực, quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, ức hiếp quần chúng, cản trở sự phát triển kinh tế và gây bất bình trong nhân dân. Vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" chúng ta nhất định phải vượt qua những điều đó.
4. Phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí
Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta đã coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó cũng có nghĩa con người là nhân tố quan trọng nhất, quyết định nhất trong sự phát triển của quốc gia Tiêu chí phát triển của một nước không thể quy về chỉ là tổng sản phẩm quốc dân như trước đây, mà phải dựa trên ba chỉ tiêu cơ bản: thu nhập, trình độ giáo dục và tuổi thọ. Dễ dàng nhận thức rằng cả ba tiêu chuẩn trên đều liên quan đến con người, trong đó, giáo dục đào tạo là quan trọng nhất.Đảng đã nhấn mạnh trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VIII "thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư phát triển".
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội, 200
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận triết- Quan điểm của triết học về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.doc