MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 0
1.Sự cần thiết phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 1
1.1. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN. 1
1.2. Vai trò của kinh tế thị trường trong xây dựng CNXH ở nước ta. 4
2. Thực trạng của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 7
2.1. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 7
2.2. Những thành tưu và hạn chế của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 10
3. Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 12
3.1. Tiếp tục hoàn thiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. 12
3.2. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. 12
3.3. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội. 13
3.4. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. 14
KẾT LUẬN 15
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1738 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế thị trường.
- Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao: Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường bao gồm các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh, các cá nhân và cả Nhà nước. Họ chính là người đưa ra các quyết sách kinh tế, các quyết định trong kinh doanh. Họ phải tự chịu trách nhiệm về tính khả thi của các quyết sách, quyết định được ban hành cũng như phải gánh chịu các rủi ro nếu có.
- Số lượng, chủng loại hàng hoá trong nền kinh tế thị trường rất phong phú, đa dạng. Do vậy, mọi nhu cầu tiêu dùng của con người dễ dàng được thoả mãn.
- Giá cả được xác định ngay trên thị trường: Do giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá mà giá trị hàng hoá là sự kết tinh của hao phí lao động xã hội cần thiết. Trên thực tế, giá cả còn chịu sự ảnh hưởng của quan hệ về cung cầu trên thị trường.
- Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường: Động lực của cạnh tranh là lợi nhuận. Cạnh tranh góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng nâng cao năng suất lao động, số lượng và chất lượng hàng hoá, dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả trong kinh doanh.
- Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Vì nó lấy trao đổi làm mục đích của sản xuất kinh doanh.
1.1.1.3. Ưu, nhược điểm của nền kinh tế thị trường.
1.1.1.3.1. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường.
- Kinh tế thị trường là một nền kinh tế năng động. Ở đây tồn tại một quy luật là hễ ai là người đầu tiên đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới thì họ có khả năng thu được nhiều lợi nhuận. Còn nếu biết sản phẩm của mình không còn nhu cầu nên họ ngừng sản xuất và cung ứng sản phẩm đó thì sẽ tiết kiệm được chi phí. Chính điều đó đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải năng động sáng tạo, tìm hiểu nhu cầu thị hiếu trên thị trường để cung ứng cho thị trường những sản phẩm mới, làm cho thị trường luôn xuất hiện những sản phẩm mới và bỏ đi những sản phẩm không còn nhu cầu.
- Kinh tế thị trường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Do yêu cầu sản xuất phải tính toán tới chi phí và chiến thắng trong cạnh tranh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động. Điều đó, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
- Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có nhiều hàng hoá, dịch vụ. Do đó, trong nền kinh tế thị trường không còn tình trạng người chờ hàng mà ngược lại là hàng chờ người. Ở đây người mua được nâng lên vị trí quí khách, là “thượng đế “ trên thị trường. Chính nhờ có nhiều hàng hoá và dịch vụ nên kinh tế thị trường có khả năng thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
1.1.1.3.2. Nhược điểm của kinh tế thị trường.
Bên cạnh những thành tựu của mình, kinh tế thị trường cũng bộc lộ một số khuyết tật, cụ thể:
- Tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp.
Khủng hoảng kinh tế là tình trạng sản xuất thừa, sản xuất tăng lên lớn hơn tiêu dùng, còn tiêu dùng không đầy đủ, dẫn đến tình trạng hàng hoá không bán được, doanh nghiệp không có thu nhập để bù đắp chi phí sản xuất nhằm tiếp tục quá trình tái sản xuất nên phải đóng cửa. Tình trạng đó làm cho doanh nghiệp không có lợi nhuận, người lao động bị thất nghiệp không có việc làm, không có tiền lương. Điều đó làm tăng mâu thuẫn kinh tế - xã hội trong nền kinh tế.
- Tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng.
Dù nền kinh tế thị trường có hoạt động tốt như thế nào thì bản thân cũng tạo ra sự phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng. Nguyên nhân của tình trạng là ở chỗ trong quá trình sản xuất kinh doanh, do tác động của cạnh tranh, mục tiêu chạy theo lợi nhuận, giảm giá trị hàng hoá, có người tài giỏi, gặp may, phát tài làm giàu. Trong khi đó nhiều người kém cỏi, không gặp may bị lỗ vốn phá sản. Điều đó dẫn đến sự phân hoá, xuất hiện quan hệ chủ thợ, tư sản – vô sản, thống trị - bị thống trị, bóc lột - bị bóc lột.
- Tình trạng độc quyền đã lấn át cạnh tranh làm mất tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế. Độc quyền còn làm cho nền kinh tế trì trệ.
- Tình trạng suy thoái môi trường. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên làm cho môi trường bị ô nhiễm, làm ô nhiễm bầu không khí, gây bẩn nguồn nước, bạc màu đất đai, tàn phá môi trường.
1.1.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.1.2.1. Khái niệm.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nền kinh tế dựa trên cơ sở kết hợp ưu thế của chế độ kinh tế năng động với ưu thế của chế độ chính trị tiên tiến, kết hợp mặt tích cực của cơ chế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các thành phần kinh tế cùng phát triển trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
1.1.2.2. Sự cần thiết khách quan phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
* Điều kiện trong nước.
Hiện tại, Việt Nam đang hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường:
Thứ nhất, phân công lao động xã hội đang ngày càng phát triển về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
Thứ hai, nền kinh tế đang tồn tại nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, có nhiều chủ thể kinh tế. Các chủ thể này độc lập, tách biệt nhau. Do vậy, trong sản xuất kinh doanh, họ vừa cạnh tranh với nhau lại vừa hợp tác với nhau, quan hệ giữa các chủ thể được thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ.
* Điều kiện khu vực và thế giới.
Phát triển kinh tế thị trường là một xu hướng phổ biến diễn ra trên thế giới trong giai đoạn hiện nay. Ngay từ thế kỷ XVIII, XIX một số nước tư bản phương Tây đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, sang đến thế kỷ XX sau khi lý thuyết của Keynes ra đời, những nước trước đây đã chuyển sang kinh tế thị trường thì vẫn tiếp tục phát triển kinh tế thị trường nhưng thực hiện sự kết hợp cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp. Còn một số nước trước đây là thuộc địa của các nước tư bản nay giành lại được độc lập cũng bắt đầu chuyển dần từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường.
Chính những điều kiện trong nước, khu vực và thế giới đòi hỏi kinh tế nước ta phải tuân theo quy luật khách quan chuyển sang nền kinh tế thị trường.
1.2. Vai trò của kinh tế thị trường trong xây dựng CNXH ở nước ta.
Đặc điểm của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta.
- Mục tiêu chiến lược của đường lối phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện CNH – HĐH, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, điểm khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng XHCN là vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
- Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta.
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước.
- Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu …, giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng CHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường.
- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế mở, hội nhập. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại kiểu rút ngắn.
1.2.2. Tác dụng của sự xây dựng và phát triển kinh tế thị trường.
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính tự túc, tự cấp. Vì vậy, sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong nền kinh tế hành hoá người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu người tiêu dùng, căn cứ vào thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đó nó kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ.
Sự phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn, xã hội hoá cao đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
2. Thực trạng của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
2.1. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
2.1.1. Giai đoạn quá độ chuyển từ nền kinh tế mang nặng tính hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Trước năm 1975, suốt một thời gian dài Việt Nam cũng như một số nước khác áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng nhất là đáp ứng được nhu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng sau khi miền nam giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã không vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc phát triển kinh tế đất nước. Theo quan điểm này, mọi sự vật hiện tượng đều có quá trình hình thành tồn tại, biến đổi và phát triển. Mỗi giai đoạn phát triển của sự vật lại có những mối liên hệ riêng đặc trưng của nó. Cho nên xem xét sự vật vừa phải xem quá trình phát triển của sự vật đó, vừa phải xem xét trong từng điều kiện cụ thể. Mô hình kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp chỉ thích hợp ở nước ta trước năm 1975, khi mà miền nam chưa được giải phóng, miền bắc nước ta nhận được viện trợ không hoàn lại của các XHCN để miền bắc tập trung sản xuất chi viện cho miền nam cả của cải vật chất lẫn sức người. Đây là một cơ chế rất cần thiết để chi viện kịp thời cho miền nam, cho sự nghiệp thống nhất của đất nước.
Tuy nhiên, sau năm 1975, khi miền nam được giải phóng, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, mọi nguồn viện trợ không hoàn lại của các nước XHCN cho miền bắc bị cắt, nước ta không thay đổi cơ chế kinh tế mà vẫn duy trì cơ chế cũ. Vì thế đất nước ta rơi vào cuộc khủng hoàng kinh tế trầm trọng kéo dài. Trước tình hình đó, trong hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ sáu, khoá IV Đảng ta đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế nhiều thành phần dưới những chủ trương cụ thể như sau: “Bỏ ngăn sông cấm chợ”, “Cho sản xuất bung ra”,… Từ những quan điểm đó, Nhà nước đã ban hành nhiều thể chế chính sách mới để khuyến khích phát triển sản xuất, chỉ thị 357 của Chính Phủ cho phép các hộ nông dân được nuôi và bán trâu bò, Chỉ thị 100 của Ban bí thư về khoán sản phẩm cuối cùng cho xã viên…
Trong cơ chế bao cấp, giá cả do Nhà nước quy định bằng mệnh lệnh hành chính và thường là định giá thấp so với giá trị hàng hoá. Chính điều đó buộc Ngân sách Nhà nước phải bù lỗ, bù giá, bù lương dẫn tới Ngân sách Nhà nước kiệt quệ, sản xuất thường xuyên ở tình trạng thua lỗ, giá bán không bù đắp nổi chi phí sản xuât, từ đó làm cho sản xuất ngày càng bị giảm sút. Để khắc phục những vấn đề trên, Nhà nước ta đã điều chỉnh giá cho sát với giá thị trường.
2.1.2. Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Giai đoạn này bắt đầu từ cuối năm 1986, được đánh dấu từ Đại hội VI trở đi. Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Do chưa nhận thức được đầy đủ những yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nên nước ta đã có một số chính sách chưa được đúng đắn.
Chính sách sai lầm trong giai đoạn này là tập trung công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo hướng ưu tiên cho công nghiệp nặng. Đây là một sai lầm nghiêm trọng đã làm mất rất nhiều thời gian, tốn nhiều tiền bạc. Vì lúc này, xuất phát điểm của chúng ta thấp, nền kinh tế đang còn yếu kém, cơ sở vật chất, công nghệ còn lạc hậu, thêm vào đó chúng ta lại thiếu vốn và thiếu đội ngũ các nhà khoa học tài giỏi. Theo quan điểm lịch sử cụ thể thì với điều kiện này chúng ta chưa thể đầu tư vào ngành công nghiệp nặng, một ngành đòi hỏi phải có vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, phải có đội ngũ lao động trình độ cao.
Nếu nhận thức đúng thì với điều kiện đó chúng ta nên phát triển công nghiệp nhẹ vì chúng ta có đội ngũ người lao động cần cù, khéo léo, sự ưu đãi của thiên nhiên khí hậu với nông sản phong phú đa dạng và nhiều loại hình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
Trước tình hình này, hội nghị Trung ương 6 đã họp, tiến hành đánh giá, tìm ra những chỗ đúng, chỗ sai và đưa ra quan điểm mới trong quản lý kinh tế, cụ thể: tập trung phát triển ngành công nghiệp nhẹ, thừa nhận cả nước chỉ có một thị trường thống nhất do nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia và chỉ có một cơ chế giá cả là giá thoả thuận, giá kinh doanh.
Tóm lại, trong giai đoạn này mặc dù đã đạt được một số thành tựu, nền kinh tế đã từng bước ổn định và phát triển, các cơn sốt do hậu quả của cơ chế quan liêu bao cấp đã dần dần giảm nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa bước hẳn ra khỏi cuộc khủng hoảng của những năm trước đổi mới.
2.1.3. Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Mốc lịch sử đánh dấu cho giai đoạn này là Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội xác định rõ: nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này là “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN”. Đại hội cũng khẳng định tất cả các yếu tố của sản xuất đều là hàng hoá. Vì vậy phải tạo lập thị trường cho các yếu tố đó, đồng thời là thị trường thống nhất thông suốt trong cả nước và giao lưu với nước ngoài.
Đại hội lần thứ VIII lại một lần nữa khẳng định sự nhất quán đối với những quan điểm nêu ra từ đại hội VII: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là một thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH”
Đến đại hội IX, Đảng và Nhà nước ta đã chính thức thay cụm từ “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN” bằng cụm từ “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đại hội cũng khẳng định, kinh tế thị trường định hướng XHCN là tự tìm tòi, thể hiện cái mới cả về lý luận lẫn thực tiễn của CNXH trong thời đại ngày nay.
Kinh tế thị trường ra đời, phát triển qua nhiều giai đoạn và ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia. Đây là một kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây hơn một thập kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều thăng trầm, không ngừng vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong bản thân nền kinh tế. Các yếu tố này vừa ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường vừa chịu sự tác động của chính nền kinh tế thị trường đó. Như vậy, trải qua mỗi giai đoạn lại hình thành nên những yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam ngày càng phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân tích kỹ lưỡng, chi tiết kịp thời từng yếu tố. Chính vì vậy, quan điểm lịch sử cụ thể luôn là quan điểm gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.2. Những thành tưu và hạn chế của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
2.2.1. Những thành tựu.
Do đã vận dụng đúng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, nền kinh tế nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể:
Giai đoạn 1986 – 1990, GDP tăng trung bình 3,9% thì đến giai đoạn 1991-1995 là 8,2%, giai đoạn 1996-2000 là 7%, giai đoạn 2001-2005 là 9,1%
Lạm phát được đẩy lùi từ 67,4% năm 1990 xuống 12,75 năm 1995, 0,1% năm 1999 và 0% năm 2004.
Việt Nam đã phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Chúng ta cũng gia nhập vào các tổ chức kinh tế của khu vực và thế giới như ASEAN, AFTA, WTO…
Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và các ngành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi lĩnh vực ra đời và phát triển. Dịch vụ thương mại phát triển mạnh tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng hoá ngày càng đa dạng phong phú hơn về cả chủng loại cũng như mẫu mã sản phẩm.
Điều kiện vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá không ngừng tiến bộ. Nước ta đã xoá bỏ hoàn toàn được nạn đói, nạn mù chữ.
Quốc phòng an ninh được đảm bảo, chính trị được ổn định, các mối quan hệ được mở rộng với nhiều nước trên thế giới, bộ mặt của đất nước đã có nhiều biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực.
2.2.2. Những hạn chế.
Đi đôi với những thành tựu là rất nhiều khó khăn đòi hỏi Nhà nước ta phải có hướng giải quyết đúng đắn, đặc biệt vấn đề lao động và việc làm đang là mối quan tâm nổi cộm nhất hiện nay. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 74%, tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 30%, tỉ lệ lao động được đào tạo về chuyên môn kĩ thuật còn rất thấp trong tổng số lao động. Công nhân kĩ thuật và nghiệp vụ chiếm 30,3%, công nhân chuyên nghiệp chiếm 36,8%, trình độ cao đẳng và đại học chiếm 31,6%, trên đại học chiếm 1,3%
Mức tiêu dùng của dân cư còn thấp, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế mới đạt khoảng 25-27%GDP, còn tích luỹ ròng chỉ đạt dưới 20%GDP
Kết cấu hạ tầng còn kém, sản lượng điện bình quân đầu người mới chỉ đạt trên 340kwh, mật độ đường giao thông tính trên 1000 dân còn thấp xa so với các nước xung quanh [Thời báo kinh tế Việt nam, số 151, 18/2005]
3. Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
3.1. Tiếp tục hoàn thiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Đảng và Nhà nước ta phải tiếp tục hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành nên nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất kỳ thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên , kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
3.2. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
Nhìn chung kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành và phát triển các loại thị trường. Chủ động hội nhập thị trường quốc tê, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển bằng chiến lược, quy hoạch và chính sách kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của Nhà nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập, kiểm tra, thanh tra mội hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế, chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hôị, tăng cường công tác thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc tế., công tác kế toán thống kê, ứng dụng rộng tãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
3.3. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Nhà nước nên hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng xã hôị, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng XHCN, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó không những tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội.
Trong tình hình cụ thể ở Việt Nam hiện nay, phải bằng nhiều biện pháp để tạo ra nhiều việc làm mới, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải tiến cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý, tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, chăm sóc những người có công với đất nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hôị.
3.4. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là bài học lớn nhất được rút ra từ những năm đổi mới. Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hoá xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền đưa đất nước đi con đường khác.
Đảng lãnh đạo nghĩa là Đảng phải đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho nền kinh tế không những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng XHCN, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Tuy nhiên, để có đủ trình độ và năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân ti
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11410.doc