Tiểu luận Quan điểm toàn diện của việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO

Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, những nỗ lực của lãnh đạo Nhà nước để đẩy nhanh tiến độ xây dựng và ban hành pháp luật đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Với việc thông qua hầu hết những bộ luật cần thiết trong năm 2005, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước đầu tiên xây dựng khá hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trước khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, hệ thống này vẫn còn nhiều tồn tại do thiếu tính cụ thể và đồng bộ, thường giới hạn ở những chế định mang tính nguyên tắc, tính minh bạch và ổn định còn hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả và hiệu lực thực thi.

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan điểm toàn diện của việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u nhập giữa các nhóm xã hội vẫn đang còn khoảng cách xa. Một vấn đề then chốt của nền kinh tế Việt Nam để tiến đến hội nhập là sự cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu và chậm cải thiện. Điều này được chứng tỏ trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đần kinh tế thế giới (WEF), hạng của Việt Nam bị tụt liên tục với tốc độ nhanh. Có thể nói rằng nền kinh tế Việt Nam vận động trong một nghịch lý: tăng trưởng nhanh nhưng sức cạnh tranh không được cải thiện. 2.2. Tác động và những thách thức khi vào WTO Tháng 01/1995 tổ chức này đẫ nhận đơn và thành lập Ban công tác Việt Nam gồm thành viên của 38 quốc gia và các vùng lãnh thổ. Trên 10 năm kiên trì và đàm phán, tại kỳ họp đa phương lần thứ 11, thành viên của Ban công tác đều ủng hộ để Việt Nam sớm gia nhập tổ chức thương mại toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO mang lại cho nước ta nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng có nhiều khó khăn, thách thức cần phải vượt qua. 2.2.1. Cam kết WTO với cải cách thể chế Những quy định về WTO đã được coi như công ước đa phương của một Bộ luật hành chính quốc tế. Từ cam kết không phân biệt đối xử dựa trên nguyên tắc tối huệ ước (MFN) và đối xử quốc gia (NT), thể hiện trong khuôn khổ những hiệp định về thương mại và dịch vụ (GATS), các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIMs), biện pháp khắc phục thương mại (trade reme-dies), cấp phép nhập khẩu (IL), ràng buộc thuế quan, định giá hải quan (CVA) và các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) đã có ảnh hưởng tích cực đối với nhiều nền kinh tế. Trong xu thế toàn cầu hóa, khi là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam có những thuận lợi cơ bản để thâm nhập, mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh công nghiệp hóa và tăng cường năng lực của nền kinh tế. Những cơ hội mới trong phát triển kinh tế xã hội chỉ có được khi hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh để mọi loại hình doanh nghiệp được đối xử công bằng trong các hoạt động thị trường. Muốn đón nhận thời cơ, tận dụng điều kiện thoát khỏi tình trạng bị các nước lớn gây sức ép, Việt Nam phải sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế thị trường, cải cách hành chính và doanh nghiệp cho tương đồng với những thể chế toàn cầu. Thời gian gia nhập WTO càng gần thì các kế hoạch hành động càng phải thiết thực, cụ thể và rất khẩn trương. đây chính là tác động mạnh mẽ của WTO đến hoạt động mở cửa thị trường và cải cách chính sách, thể chế pháp luật. Hệ thống chính sách minh bạch, ổn định và dễ dự đoán, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở quan trọng để thu hút đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực cần mở mang. Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiếm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển. Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 2.2.2. Về đầu tư xây dựng tiềm lực Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại là vấn đề có ý nghĩa to lớn. Thực hiện nghĩa vụ của hiệp định TRIMs sẽ xóa bỏ rào cản đối với đầu tư nước ngoài (FDI), tạo tuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào các ngành công nghiệp, chế biến nông sản và nhất là dịch vụ có lợi thế. Việc điều chỉnh chính sách nhằm xóa bỏ yêu cầu cân đối thương mại và cân đối ngoại tệ cũng là điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu. Khi gia nhập WTO, hiệp định TRIPs, một cơ chế hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, có tác dụng kích thích mạnh mẽ việc đầu tư chuyển giao công nghệ và đưa công nghệ cao vào các ngành kinh tế. Thực hiện nghiêm chỉnh những cam kết TRIPs, tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ cũng là giải pháp kích thích sáng tạo, khích lệ doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hoạt động R&D, đặc biệt là ở những ngành đòi hỏi trí tuệ cao, mang lại lợi ích kinh tế lớn. Làn sóng đầu tư nước ngoài nếu được gia tăng sẽ là động lực tích cực để tăng cường sản xuất công nghiệp, tăng cường nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh các hoạt động R&D, góp phần quan trọng vào nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và những sản phẩm ngành hàng. Nước ta mở rộng thị trường khi đại bộ phận các tổ chức sản xuất kinh doanh là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu nguồn lực đầu tư, trình độ nhân lực thấp, cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu kém, nhiều lĩnh vực công nghệ đang còn lạc hậu. Sức ép lớn đối với các doanh nghiệp trong nước khi vào WTO là sự cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh thị trường nội địa ngày càng trở nên gay gắt hơn khi các rào cản thương mại bị cắt giảm, những doanh nghiệp nhỏ, khả năng cạnh tranh yếu kém có nguy cơ phá sản hoặc giảm hiệu quả kinh doanh. Với tiềm lực hạn chế, doanh nghiệp Việt Nam đang ở thế yếu trong những tranh chấp thương mại quôc tế, thu hút được đầu tư nước ngoài vào phát triển những ngành có lợi thế phát triển, đòi hỏi trình độ công nghệ cao sẽ là một hướng thúc đẩy nhanh các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu để chiếm lĩnh thị trường toàn cầu. Từ thực tiễn ở nhiều quốc gia, trong thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp FDI thường mở mang những ngành nghề mới, thực hiện chuyển giao công nghệ và kỹ năng sản xuất kinh doanh cho lao động của nước sở tại nhằm thu được lợi nhuận cao. Mở mang phát triển những ngành nghề mới áp dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi lao động có trình độ kỹ thuật cao, buộc lực lượng lao động trẻ phải tự học hỏi vươn lên để có việc làm. Đây chính là cơ hội để nâng cao trình độ nguồn nhân lực nước ta khi vào WTO. 2.2.3. Tác động trong ngành nông nghiệp Được hưởng ưu đãi của 148 nước thành viên, mặt hàng nông sản nhiệt đới có thế mạnh của nước ta không bị phân biệt đối xử, có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường toàn cầu, đặc biệt trong những nước phát triển có nhu cầu cao. Ngoài những sản phẩm có ưu thế đặc thù, cây trồng vụ đông là một thế mạnh khi các nước ôn đới đang mùa đông băng giá cần nhiều, nông sản thực phẩm sạch có khả năng mở rộng cũng là một hướng có nhiều triển vọng phát triển lâu dài… Khi gia nhập WTO, ngành nông nghiệp nước ta có thuận lợi hơn trong các tranh chấp, với cam kết không phân biệt đối xử, hàng nông sản xuất khẩu giá rẻ nước ta sẽ có cơ hội thâm nhập vào nhiều thị trường. Thêm vào đó, ảnh hưởng trong các chương trình nghị sự và quyền đàm phán đa bên của các nước thành viên WTO cũng là những thuận lợi để tối đa hóa các lợi ích trong vòng đàm phán thương mại. Từ chính sách và thể chế phù hợp với những thông lệ quốc tế, nông nghiệp nước nhà sẽ có sức hút nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Ngoài ra, khi vào WTO, Việt Nam còn được tham gia nhiều hơn vào những chương trình hợp tác khoa học công nghệ, thu hút đầu tư đổi mới công nghệ, mở mang ngành nghề nông thôn, hiện đại hóa công nghiệp chế biến….sẽ tác động lớn đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế – xã hội nông thôn. Với hướng phát triển này, theo ước tính của ngành lao động thương binh xã hội, nếu xuất khẩu nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp tăng dược 31%, 62% và 7% thì việc làm cho lao động nông nghiệp có thể tăng thêm 85 vạn. Những hạn chế đối với ngành nông nghiệp: Nước ta còn là một nước với 67% lao động xã hội sống bằng nghề nông, nông nghiệp tạo ra khoảng 25% GDP và khoảng 1/3 kim ngạch xuất khẩu. Thách thức lớn nhất của nông nghiệp khi vào WTO là khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản và doanh nghiệp chế biến nông sản phải cạnh tranh khốc liệt với hàng nhập ngoại có chất lượng cao. Thực thi quyền sở hữu trí tuệ, buộc nông dân phải mua giống vật tư, tư liệu sản xuất với giá cao có thể làm tăng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Trong khi những nước giàu gây sức ép với nước nghèo mở của thị trường thì họ vẫn tiếp tục duy trì trợ cấp và những rào cản đối với thị trường nông sản nước mình, điều này khiến nông nghiệp nước ta khó sử dụng được biện pháp tự vệ đặc biệt đối với nông sản nhập khẩu. 2.2.4. Tác động tổng thể đối với ngành công nghiệp Có thể nói, khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp nước ta còn ở thế yếu do năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và trình độ khoa học công nghệ, khả năng quản lí còn hạn chế. Ngành công nghiệp có một số mặt hàng có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới song tỷ trọng nhỏ, chủ yếu dựa vào lợi thế tài nguyên, thiên nhiên và nguồn lao động rẻ. Với chính sách thúc đẩy tự do hóa thương mại, việc bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quanchỉ thực hiện được trong những hoàn cảnh nhất định và ngày càng giảm, khả năng Nhà nước bảo hộ cho ngành công nghiệp trước sức ép cạnh tranh ngày càng hạn hẹp, ngành công nghiệp nước nhà đang phải chấp nhận một cuộc chơi không cân sức, phải có những nỗ lực tối đa mới không bị biến thành thị trường tiêu thụ của các nước công nghiệp phát triển khi vào WTO. Hiện nay, do một số thị trường chưa được khai thông, hoặc bị phân biệt đối xử nên khả năng xuất khẩu còn hạn chế. Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng xuất khẩu những mặt hàng mà mình có tiềm năng ra toàn cầu nhờ được hưởng những thành quả của hơn 50 cuộc đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng nông sản và dệt may. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ kéo theo những ảnh hưởng tich cực tới các ngành kinh tế trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng Hạn chế đối với công nghiệp: Những hiệp định liên quan đã đặt công nghiệp ôtô Việt Nam một trong những ngành quan trọng, trước nhiều thách thức. Với cam kết xóa bỏ yêu cầu nội địa hóa khi vào WTO, dường như nước ta không còn cơ hội để tiếp tục thực thi chương trình nội địa hóa lĩnh vực công nghiệp này. Chế biến sữa là ngành sử dụng nguyên liệu thô của chăn nuôi bò sữa. Quy định hiện hành của nước ta yêu cầu các nhà đầu tư phải gắn chế biến sữa với phát triển đàn bò sữa để cấp giấy phép đầu tư. Do nguồn nguyên liệu cung cấp trong nước hạn chế, nhập khẩu nguyên liệu sữa bột từ nước ngoài có xu hướng gia tăng. Thực hiện cam kết TRIMs, các doanh nghiệp chủ động quyết định nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến, điều này càng làm gia tăng nhập khẩu sữa, tạo những khó khăn mới trong thực hiện chương trình phát triển bò sữa ở nước ta. Công nghiệp dược phẩm là lĩnh vực ảnh hưởng nhiều dến đời sống xã hội. Liên quan nhiều tới việc tiếp cận dược phẩm là bằng phát minh sáng chế (patens), nhãn mác hàng hóa và những bí mật kinh doanh, trong đó quy định về patens có vai trò quan trọng nhất. Thực hiện cam kết TRIPs có lợi nhuận cho hoạt động đầu tư, nhưng cũng gây nhiều sức ép. Những quy định liên quan đến phát minh, sáng chế dẫn đến làm gia tăng giá thuốc, gánh nặng của người nghèo lại càng tăng thêm vì khả năng tiêp cận thuốc của họ vốn đã thấp lại càng khó khăn hơn khi ngân sách nước nhà hạn hẹp. 2.2.5. Trong nghành dịch vụ Gia nhập WTO, dịch vụ sẽ là khu vực có độ mở cao. Đón nhận dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI sẽ đến cùng với công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nhà đầu tư, xu hướng này cũng tạo nhiều thuận lợi để đa dạng hóa và nâng cao chất lượng phát triển các ngành dịch vụ. Sự tăng trưởng các ngành dich vụ, đến lượt mình lại tạo điều kiện để tăng sự hấp dẫn và nâng cao khả năng cạnh tranh trong thu hút nguồn vốn FDI. Các nguồn đầu tư được phân phối lại theo hướng hiệu quả cho phép phát triển nhanh các ngành hàng có lợi thế cạnh tranh. Đi theo hướng này, nước ta có thể mở rộng một số dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động. Khi vào WTO, thị trường mở rộng, người tiêu dùng trong nước được tiếp cận với những dịch vụ đa ngành với giá thấp và chất lượng tốt sẽ là cơ hội để giảm chi phi sản xuất và quan trọng là nâng cao được sức cạng tranhcủa hàng hóa và dịch vụ Việt Nam . Khó khăn của ngành dịch vụ khi vào WTO: Ngành dịch vụ nước ta phát triển chưa cao, mới chiếm 40% GDP (bình quân chung thế giới là 68%). Phần lớn các doanh nghiệp dịch vụ khoa học, nghiên cứu thị trường, tiếp thị, kế toán, thiết kế mẫu mã…mới được hình thành, khả năng cạnh tranh thấp đang có nguy cơ bị các doang nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh ngay khi mở cửa thị trường. Do đó việc xuất hiện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài khi vào WTO, cơ cấu thị phần tiền tệ sẽ có nhiều thay đổi, việc hình thành chính sách tiền tệ quốc gia sẽ chịu tác động chi phối của ngững thay đổi kinh tế xã hội toàn cầu, biến động tỷ giá và hành vi của giới đầu tư quôc tế sẽ làm tăng các hoạt động giao dịch vốn và gia tăng rủi ro trong các hệ thống Ngân hàng. 2.2.6. Hạn chế và những thách thức Nước ta mở của thị trường trong điều kiện nền kinh tế chưa đủ sức cạnh tranh, trong khi các doanh nghiệp không ngang sức với công ty nước ngoài, việc thực hiện yêu cầu tự do hóa dịch vụ, cải cách tài chính, ngân hàng, việc tôn trọng nghiêm ngặt những rào cản về sở hữu trí tuệ, chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, trợ cấp sản xuất xuất khẩu và tiếp cận thị trường hàng hóa công nghiệp…đang dặt ra cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách và doanh nghiệp phải tìm lời giải cho nhiều bài toán khó. Thách thức lớn nhất đối với công việc quản lý , hoạch định chính sách là trong thời gian ngắn, phải sửa đổi và xây dựng được cơ chế và hệ thống chính sách đồng bộ phù hợp với các quy định của WTO. Cùng với nội dung này, thực hiện cam kết thương mại toàn cầu, nguồn thu ngân sách sẽ giảm đáng kể trong giai đoạn đầu nhưng phải xử lý thâm hụt cán cân thanh toán, giải quyết việc làm, nâng cao trình độ cho người lao động và cải cách doanh nghiệp là những công việc đòi hỏi có nguồn vốn lớn, trình độ kỹ thuật và năng lực con người rất cao. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, những nỗ lực của lãnh đạo Nhà nước để đẩy nhanh tiến độ xây dựng và ban hành pháp luật đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Với việc thông qua hầu hết những bộ luật cần thiết trong năm 2005, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước đầu tiên xây dựng khá hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trước khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, hệ thống này vẫn còn nhiều tồn tại do thiếu tính cụ thể và đồng bộ, thường giới hạn ở những chế định mang tính nguyên tắc, tính minh bạch và ổn định còn hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả và hiệu lực thực thi. Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập. 2.2.6.1. Cạnh tranh gay găt đối với các doanh nghiệp và Nhà nước Đại bộ phận các doanh nghiệp Việt Nam nhỏ về quy mô, ít vốn, dàn trải và còn trồng chéo về quản lý, năng suất lao động không cao, trình độ công nghệ và năng lực kỹ thuật thấp đang là rào cản lớn nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh. Do hiểu biết thị trường hạn chế, doanh nghiệp trong nước chưa sẵn sàng tận dụng cơ hội tiếp cận thị trường, thường vấp phải những tranh chấp thương mại quốc tế và ở thế yếu. Cùng với xu thế toàn cầu, cạnh tranh thị trường nội địa sẽ gia tăng mạnh khi gỡ bỏ các hàng rào thương mại. Dưới tác động giảm thuế và mở cửa thị trường, những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh kém có nguy cơ giảm lợi nhuận, thiếu việc làm hoặc phá sản có thể dẫn tới những gánh nặng cho xã hội sau này. Khi vào WTO, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, nhiều “ đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường nước ta. Do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp, cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không , có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không..v.v… Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia. 2.2.6.2. Hạn chế từ những hiệp định liên quan đến đầu tư và sở hữu trí tuệ Thực hiện cam kết của hiệp định TRIMs, nhìn chung sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn trong duy trì mục tiêu khuyến khích sử dụng nguồn lực trong nước (tỷ lệ nội địa hóa), tăng cường xuất khẩu (tỷ lệ xuất khẩu) và thúc đẩy phát triển một số ngành công nghiệp, đây cũng là vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đã được vạch ra. Quyền sở hữu trí tuệ trong hiệp định TRIPs nhằm bảo vệ quyền lợi của những chủ sử hữu tạo ra sáng chế, phát minh có xu hướng bất lợi cho các nước đang phát triển. Bảo vệ sở hữu trí tuệ ngày nay chủ yếu sẽ là bảo vệ lợi ích của các nước phát triển. Theo cam kết TRIPs, bất cứ ở đâu, người sử dụng phát minh, sáng chế đều phải trả tiền. Trên thực tế hầu hết các phát minh sáng chế thế giới đều thuộc quyền sở hữu của những nước phát triển và theo ước tính 85% chi phí R&D thực hiện trong năm 2005 là của các nước công nghiệp phát triển. Trong tầm ngắn và trung hạn; ở các nước đang phát triển , việc tiếp cận công nghệ gặp nhiều khó khăn có thể dẫn đến giá sản phẩm tăng và việc làm trong một số khu vực giảm. Đây cũng chính là thách thức không nhỏ khi vào WTO. 2.2.6.3. Về những ảnh hưởng xã hội Nhiều nước đang phát triển khi vào WTO, tiền lương của lao động lành nghề đã gia tăng nhanh cùng với nguy cơ mất việc làm và mức độ cải thiện thấp của lao động không có kỹ năng. Tự do hóa thương mại toàn cầu có tác động mạnh đến thu nhập của người lao động và có thể làm trầm trọng thêm khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Sự khác biệt trong thu nhập của lao động nước ta còn có thể cao hơn khi giá cả lao động trên thị trường nội địa và ở nước ngoài có khoảng cách xa. Việc cắt giảm trợ cấp các mặt hàng nông sản và dỡ bỏ hàng rào thuế quan sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của nông dân. Do năng suất lao động và trình độ kỹ thuật có nhiều cách biệt trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện cam kết WTO, khoảng cách thu nhập của lao động công nghiệp và nông nghiệp ngày càng lớn. Nông nghiệp và nông dân là đại diện lớn nhất của khu vực nông thôn, còn thành thị đang là khu vực mở mang nhanh công nghiệp và dịch vụ, thực trạng này khiến chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn là một thực tế khách quan, nếu không xử lý tốt có thể dẫn tới những mối quan hệ không bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ xã hội và tầng lớp nghèo ở nông thôn có thể là người chịu nhiều thua thiệt. Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hóa là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong mỗi quốc gia, sự phân phối lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hóa; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, sự phân hóa giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng : “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển ”. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của đan tộc, chống lại lối sống thực dụng, chay theo đồng tiền. Chương 3: giải pháp khắc phục những khó khăn sau khi nước ta gia nhập WTO Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã thảo luận và thông qua một số chủ trương, chính sách lớn để phát triển nhanh và bền vững sau khi nước ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới: Thứ nhất, tiếp tuc hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý, nhằm hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết. Trước hết tập trung vào việc soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực thi các luật mới an hành, bảo đảm cụ thể, công khai, minh bạch phù hợp với nội dung của luật; xóa bỏ mọi hành thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị trường cho mọi loại hàng hóa và dịch vụ. Đối với những mặt hàng hiện còn áp dụng cơ chế Nhà nước định giá, phải xác định lộ trình thực hiện nhanh giá thị trường để các doanh nghiệp tính toán lại phương án sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo đảm cho các ngân hàng thương mại thực sự là các đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các khoản vay và cho vay trên cơ sở hiệu quả, không có sự phân biệt đối xử về hình thức sở hữu các thành phần kinh tế. Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường đất đai và bất động sản, tạo bước đột phá trong hoạt động của thị trường này. Cải cách chế độ kiểm toán và tài chính doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế. Xây dựng các biện pháp hỗ trợ đối với một số lĩnh vực, sản phẩm đi đôi với việc loại bỏ các hình thức trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp gắn với tỷ lệ nội địa hóa phù hợp với các cam kết của ta trong Tổ chức thương mại thế giới. Hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh , an toàn thực phẩm để bảo vệ thị trường nội địa và người tiêu dùng. Kết hợp chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ, sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng, tỷ giá… để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nâng cao chất lượng của công tác thông tin, dự báo về thị trường, giá cả, quan hệ cung cầu để xác định những cân đối lớn. Đẩy mạnh cải cách tiền lương, chế độ bảo hiểm; sớm nghiên cứu hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp và các chính sách an sinh xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý các cơ quan khoa học – công nghệ theo hướng tăng cường tính tự chủ, tính hạch toán. gắn kết chặt chẽ các cơ quan nay với danh nghiệp, nhằm phát triển thị trường khoa học, công nghệ. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào đầu tư, kinh doanh đi đôi với việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thứ hai, thực hiện một cách mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không thực sự cần thiết nhằm rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp và tham gia thị trường, đưa nhanh hàng hóa và dịch vụ vào kinh doanh. Việc quản lý xuất nhập khẩu các mặt hàng quản lý chuyên ngành chỉ căn cứ vào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, điều kiện hành nghề, không dùng giấy phép làm công cụ để hạn chế thương mại. Công bố công khai quy trình tác nghiệp, thời gian giải quyết công việc, người chịu trách nhiệm ở tất cả các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước và các đơn vị cung ứng dịch vụ công để mọi công dân, mọi doanh nghiệp biết, thực hiện và giám sát viện thực hiện. Công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý là một trong những tiêu chí của xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh” và là yêu cầu cấp bách hiện nay. Điều này không những là tiền đề của chống tham nhũng mà còn là điều kiện để tạo ra thị trường cạnh tranh, giảm chi phí cho doanh nghiệp và công dân, là điều kiện bảo đảm hiệu quả tăng trưởng. Phải làm việc này một cách đồng bộ và kiên quyết. Loại bỏ khỏi bộ máy nhà nước những công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân và doanh nghiệp, những người thiếu trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ. Thứ ba, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước, theo yêu cầu quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Làm việc này nhằm tạo ra tiền đề tổ chức để đảm bảo sự đồng bộ, tầm nhìn liên ngành, khắc phục sự chồng chéo, kém hiệu quả trong việc xây dựng và thực ti các thiết chế quản lý. Trên cơ sở sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước và cải cách thủ tục hành chính để xây dựng lại hệ thống phân cấp theo những tiêu chí khoa học, bảo đảm tính tương thích, sự đồng bộ và tính mục tiê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35976.doc
Tài liệu liên quan