Tiểu luận Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

Trang

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

- Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay

- Lý do chọn đề tàI

B. NỘI DUNG

I. Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa

1. Xã hội chủ nghĩa là gì?

2. Khái niệm về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần

3. Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa

II. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa

2.1. Tính tất yếu khách quan dẫn đến việc tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam

2.2. Vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế

2.3. Mỗi liên hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế

2.4. Những thành quả đạt được, những khó khăn, hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần

III. Những nhân tố và giải pháp bảo đảm việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa

3.1. Giải pháp khắc phục khó khăn

3.2. Các nhân tố bảo đảm phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa

3.3. Tránh nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa

3.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước

C. KẾT LUẬN

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1891 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó. Đây là việc làm thiết thực và rất cần thiết đối với vận mệnh đất nước vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài: "Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay" để nghiên cứu. Hơn nữa, đây là đề tài mang giá trị thực tiễn và giá trị khoa học lớn góp phần làm sáng tỏ quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó sự tồn tại quá lâu của cơ chế kinh tế cũ đã ăn sâu bám dễ duy nhận thức, vào quan điểm và cách thức điều hành, quản lý kinh tế của chính phủ nên việc chuyển từ nền kinh tế nhỏ sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đòi hỏi phải có sự xem xét một cách toàn diện, cụ thể những điều kiện của nước ta. Đây là lần đầu tôi làm bài tiểu luận nên không thể tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như hình thức, kính mong thầy giáo cùng bạn độc tận tình sửa chữa và góp ý cho tôi để tôi có thể hoàn thành bài luận tốt hơn. b. nội dung I. lý luận chung về quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói đến quan điểm toàn diện với vấn đề trước hết ta phải hiểu được nền kinh tế hàng hoá là gì? xã hội chủ nghĩa là gì? thế nào là thành phần kinh tế và tại sao phải phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà không theo một hướng khác. 1.1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa (XHCN) Vào tháng 6 - 1996 tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định. Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chủ yếu có nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, mọi người có quyền làm chủ bản thân mình và làm theo năng lực hưởng theo lao động. Là xã hội mà người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, tự do trong khuôn khổ pháp luật, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Theo Mác, XHCN đáng lẽ phải ra đời từ các nước tư bản văn minh có nền kinh tế phát triển cao song do lịch sử Việt Nam đã chịu ách thống trị của phong kiến và thực dân, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Việt Nam - một nước kinh tế chưa phát triển còn nghèo nàn, lạc hậu đã đi theo con đường XHCN, định hướng XHCN ở nước ta ngày càng được giữ vững và không ngừng phát triển đặc biệt là định hướng về chính trị, xã hội và kinh tế. 1.2. Thế nào là nền kinh tế hàng hoá? Nền kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà sản phẩm sản xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường. Trong kiểu tổ chức mà toàn bộ quá trình sản xuất - phân phối, trao đổi - tiêu dùng sản xuất ra cái gì, cho ai đều thông qua mua bán và hệ thống thị trường và do thị trường quyết định. (Trích Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nhà XB Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 1996 tr.79 ). Do nền kinh tế Nhà nước giữ vai trò định hướng kém hiệu quả, chưa làm tốt vai trò chủ đạo. Kinh tế hợp tác chậm đổi mới, số tổ chức hợp tác trước kia chỉ còn tồn taij 10%. Nhiều hình thức hợp tác mới ra đời nhưng chưa được tổng kết, đánh giá, Nhà nước lại chưa có sự giúp đỡ nên phương hướng hoạt động còn nhiều vướng mắc lúng túng. Để kinh tế hợp tác hoạt động đúng hướng Nhà nước phải sớm hoàn thiện luật kinh tế hợp tác để tạo hành lang pháp lý cho quá trình hoạt động của thành phàn kinh tế này. Không có sự định hướng của Nhà nước, nó sữ không liên kết hợp tác với kinh tế Nhà nước, xa rời Nhà nước và xa dần định hướng mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Do việc quản lý các doanh nghiệp còn rất nhiều sơ hở. Phần lớn kinh tế tư bản Nhà nước chỉ tập trung vào lĩnh vực dịch vụ và kinh doanh bất động sản. Sự liên doanh của Nhà nước với tư bản tư nhân rất ít. Việc quản lý các liên doanh có vốn đầu tư của nước ngoài còn nhiều sơ hở nghiêm trọng dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như: Giao thông công nghệ lạc hậu, khai man giá thiết bị máy móc, trốn lậu thuế trở thành phổ biến. Những thành phần kinh tế tiêu biẻu cho lực lượng quyết định định hướng xã hội chủ nghĩa còn non kém. Chúng chưa phát huy được tính ưu việt so với sản xuất nhỏ. Sự non kém đó cùng với năng lực quản lý điều hành yếu kém là nguy cơ dẫn đễn chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế - xã hội cần nhận thức tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là một tất yếu khách quan từ đó có thái độ đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng theo định hướng XHCN. 1.3. Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đi đến mục tiêu không còn áp bức, bóc lột, đi tới chế độ công hữu các tư liệu sản xuất thực hiện được công bằng xã hội và xã hội có mức sống cao. Về mặt kinh tế công bằng không có nghĩa là bình quân. Đó là một mặt kinh tế công bằng không có nghĩa là bình quân. Đó là một quá trình tiệm tiến dần dần thông qua các biện pháp kinh tế - xã hội tổng hợp. Điểm khác nhau cơ bản của cơ chế kinh tế của xã hội chủ nghĩa so với cơ chế kinh tế tư bản chủ nghĩa là là khả năng từng bước rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản có thể dẫn đến phân cực. Trong thời kỳ quá độ chúng ta thừa nhận còn có bóc lột, đây là hiện tượng không hợp lý cần xoá bỏ. Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ, phải giải quyết bằng nhiều biện pháp không làm tổn hại đến lợi óch hợp pháp của công dân. Bước đầu chìa khoá để giải quyết nhiệm vụ đó là xã hội hoá XHCN trong thực tế nền sản xuất xã hội. Định hướng XHCN trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới. Phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Vừa hình thành được cơ cấu đặc trưng cho xã hội mới. Quá trình chuyển hướng và đổi mới nền kinh tế theo định hướng XHCN là một nguyên tắc, một vấn đề chiến lược quan trọng nhất, cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của Đảng ta. II. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 2.1. Tính tất yếu khách quan dẫn đến việc tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành chính quyền tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Thực tế có hai loại tư hữu: tư hữu lớn bao gồm nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp của các chủ tư bản trong và ngoài nước. Đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa, tư hữu nhỏ gồm những người nông dân cá thể, những người buôn bán nhỏ. Đó là sản xuất nhỏ cá thể. Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới Nhà nước ta xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế mới. Đối với tư hữu lớn. Kinh tế tư bản tư nhân chỉ có phương pháp duy nhất là quốc hữu hoá. Lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định không nền quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải tiến hành từ từ theo từng giai đoạn và bằng hình thức, phương pháp nào là tuỳ điều kiện cụ thể cho nên doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa còn tồn tại như một tất yếu kinh tế đồng thời hướng chủ nghĩa tư bản và con đường Nhà nước hình thành thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thông qua con đường hợp tác hoá theo các nguyên tắc mà Lênin đã vạch ra là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi đồng thời tuân theo các quy luật khách quan. Do đó trong thời kỳ quá độ còn tồn tại thành phần kinh tế cá thể, tiếu chú. Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có vai trò đối với sản xuất và đời sống bởi vậy không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay được. Trong xu thể quốc tế hoá đời sống kinh tế cần phải thu hút các nguồn lực từ bên ngoài Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể liên doanh hợp tác với tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài làm hình thành kinh tế tư bản Nhà nước. Mặt khác sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các doanh nghiệp chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết hình thức, qui mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các cơ sở kinh tế khác nhau. Sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn. Trên đây là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam còn có cơ sở khách quan của sự tồn taị và phát triển kinh tế hàng hoá là do: phần công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi trái lại ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền có tiềm năng lớn trứơc đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai mọt nay được khôi phục và phát triển. Sản phẩm đưa ra trên thị trường phong phú, đa dạng chất lượng cao, mẫu mã đẹp hơn. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi thế giới. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế nhưng trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế, phân phối và trao đổi sản phẩm tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế đảm bảo lợi ích giữa các tổ chức trong các thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau. Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan hay cản trở quá trình tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng những hình thức khác nhau sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Qua đó ta thấy sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là một tất yếu khách quan rất cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Để thấy được tính quan trọng bức thiết của vấn đề đó ta đi sâu nghiên cứu từng thành phần kinh tế. 2.2. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế nước ta có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở hữu, về cách thức thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế và xã hội ta vì vậy mỗi thành phần kinh tế đều là mộ bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Chúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lý của Nhà nước. 2.2.1. Kinh tế Nhà nước. Thành phần kinh tế Nhà nước là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc phần của toàn Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các nguồn dự trữ, ngân hàng kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định rằng: Kinh tế Nhà nước cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như: Kết cấu hạ tầng kinh tế - x, hệ thống tài chính ngân hàng bảo hiểm, những cơ sở sản xuất thương mại. Như vậy, vị trú của kinh tế Nhà nước là rất quan trọng và to lớn. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó giữa hữu cơ với các thành phần kinh tế khác, thể hiện trên các mặt sau: Kinh tế Nhà nước tạo lực lượng về kinh tế để Nhà nước có thể thực hiện hữu hiệu chức năng định hướng, đòn bẩy hỗ trọ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nó còn cung ứng những hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan trọng như: Giao thông, thông tin liên lạc, quốc phòng, an ninh... Đồng thời kinh tế Nhà nước đảm bảo vai trò can thiệp vào điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện một số chính sách xã hội. Sở dĩ kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo so với các thành phần kinh tế khác là do: Kinh tế Nhà nước là thành phần dựa trên trình độ xã hội hoá cao nhất, nó không chỉ có ưu thế về học vấn, trình độ, kỹ thuật mà còn có vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển của nền kinh tế nước ta. Qua đó ta thấy coi nhẹ kinh tế Nhà nước cho rằng chuyển sang cơ chế thị trường phải tư hữu hoá tất cả tư liệu sản xuất là sai lầm, nhưng nến duy trì và phát triển kinh tế Nhà nước thiếu cân nhắc kỹ hiệu quả kinh tế xã hội của nó thì cũng không đúng. Mấy nam qua khu vực kinh tế Nhà nước có chuyển biến tích cực biểu hiện ở: tỷ trọng tổng sản phẩm trong nước tăng lên từ 36% năm 1991 lên đến 43,6% năm 1994. Hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp thua lỗ giảm bớt. Tuy nhiên, nó cũng chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân, những tiến bộ đạt được chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với năng lực sẵn có. Doanh nghiệp Nhà nước chiếm 85% tài sản cố định trong công nghiệp, 100% mỏ khoáng sản lớn, hơn 90% lao động được đào tạo nhưng hiệu quả điều kiện còn thấp, một bộ phận đáng kể còn thua lỗ hoặc không có lãi. Do đó vấn đề cấp thiết đặt ra cho khu vực kinh tế Nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực tiếp cho người lao động để họ thực hiện quyền làm chủ, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh. Việc đổi mới kinh tế Nhà nước phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra các bài học kinh nghiệm, bổ xung những tri thức "cập nhật" nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế này. 2.2.2. Thành phần kinh tế hợp tác. Là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống. Nòng cốt của kinh tế hợp tác xã. Hiện nay một thực tế đặt ra là nếu không củng cố và phát triển kinh doanh hợp tác xã để nó cùng với kinh tế Nhà nước tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất khó khăn. Vì vậy, Đại hội toàn quốc lần VIII đã nêu lên nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao. Phong trào hợp táchoá ở nước ta xuất hiện từ những năm 50. Nó có nhiều đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vừa qua việc chuyển đổi từ hợp tác cũ sang hình thưc hợp tác xã kiểu mới. Việc xác lập hộ tư chủ trong sản xuất kinh doanh và xuất hiện những hình thức hợp tác đa dạng trong nông nghiệp như tiểu thủ công nghiệp là một biến tiến quan trọng trong kinh tế hợp tác. Thực tiễn cho thấy: Hợp tác xã phải được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, hưởng lợi quá theo cổ phần và kết quả lao động. Mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang nhau đối với công việc chung. Kinh tế hợp tác có nhiều dạng, có những hợp tác xã trở thành lĩnh vực hoạt động chính của các thành viên, có những hợp tác xã chỉ nhằm đáp ứng chung về một hay một số dịch vụ trong quá trình sản xuất. Thành viên tham gia chỉ đóng một phàn vốn và lao động, hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có thể là kết quả liên kết theo chiều dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn bởi địa giới và lĩnh vực kinh doanh. Mỗi người kinh doanh, mỗi hộ gia đình có thể tham gia đồng thời vào nhiều loại hình kinh tế hợp tác. Hợp tác xã có thể huy động vốn cả trong lẫn ngoài. Những hợp tác xã với mô hình cũ khi chuyển qua nền kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Để đảm đương vai trò và nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó, thành phần kinh tế tập thể phải được đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sỡ hữu, quản lý và quan hệ phân phố, áp dụng tiến bộ và công nghệ khoa học mới vào sản xuất, hoạt động phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân lời ăn lỗ chịu. Những hợp tác cổ phàn sẽ ra những thực thể cấu tạo thành phần kinh tế tập thể ở tất cả các ngành của nền kinh tế. Đây là giải pháp xuất phát điểm để đổi mới các hợp tác xã. Song đó không phải là giải pháp duy nhất có phép thần tiên màu nhiệm chữa được mọi căn bệnh hiện nay của thành phần kinh tế tập thể. Sự tồn tại, phát triển của kinh tế hợp tác là một tất yếu kinh tế phù hợp với con đường tiến hoá tự nhiên của nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế hợp tác xã nông nghiệp. 2.2.3. Kinh tế tư bản Nhà nước. Kinh tế tư bản Nhà nước là phẩm của sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác liên doanh sản xuất giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia đặt dưới sự kiểm soát giúp đỡ của Nhà nước. Kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung trong ngành dịch vụ 64%. Tổng giá trị sản phẩm khu vực này tạo ra là 9% GDP. Nó đã đóng vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Lênin đã chỉ rõ: "Trong một nước tiểu nông phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước tiến lên xã hội chủ nghĩa". Vận dụng tư tưởng đó Đảng ta đã chỉ rõ là phải áp dụng một cách rộng rãi các hình thức tư bản Nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy còn nhiều khó khăn, trở ngại trong việc phát triển các liên doanh nhưng triển vọng của nó rõ ràng to lớn. Có xu hướng ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng của đầu tư nước ngoài vào nước ta, ý nghĩa của sự phát triển thành phần kinh tế này là việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới, khu vực nhằm từng bước góp phần cấu trúc lại nền kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Không có sự đầu tư của nước ngoài nền kinh tế Việt Nam không thể nhanh chóng cất cánh và rút ngắn được quá trình đạt tới trình độ của nền kinh tế thị trường. Do đó để thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam cần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn bằng cách đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xây dựng đội ngũ cán bộ trình độ đủ khả năng đảm đương được công việc, nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng và xây dựng hệ thống pháp luật ổn định. Tạo lòng tin và giữ vững chữ tín với các đầu tư nước ngoài. 2.2.4. kinh tế cá thể, tiểu chủ. Kinh tế cá thể, tiểu chủ là thành phần kinh tế hoạt động của bản thân sản xuất kinh doanh giữa vốn và sức lao động của bản thân là chính. Kinh tế cá thể, tiểu chủ của nông dân thợ thủ công những người buôn bán, dịch vụ cá thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán, mục đích kinh doanh chủ yếu nuôi sống mình. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề. Vì vậy kinh tế cá thể tiểu chủ có vị trí, vai trò quan trọng và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đảng và Nhà nước chủ trương giúp đỡ thành phần kinh tế tiểu chủ về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Song nó còn có những hạn chế không phù hợp với chủ nghĩa xã hội. Do đó cần hướng dẫn nó đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã. Đó là cách tốt để nó hoà nhập với các thành phần kinh tế khác và đóng góp nhiều hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế phát triển đất nước. 2.2.5. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số Nhà nước tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đây là thành phần dựa trên sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động thường đầu tư vào những ngành vốn ít lãi cao. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các hình thưc như: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ năm 1991, sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản Nhà nước phát triển khá mạnh và sẽ trở thành một lực lượng đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước. Hiện nay có 12.109 doanh nghiệp tư nhân với số vốn đăng ký 2.234 tỷ đồng. Công ty trách nhiệm hữu hạn có 5.583 công ty với tổng số vốn 3 tỷ đồng. Nền kinh tế nước ta phát triển có năng động với tốc độ cao hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Mặt khác việc tư nhân hoá các doanh nghiệp Nhà nước chỉ có thể mở rộng và có hiệu quả dựa trên cơ sở một khu vực kinh tế tư nhân được phát triển đủ lớn làm tiền đề. Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay sự phát triển mạnh mẽ và năng động của kinh tế tư bản tư nhân có ý nghĩa rất lớn và đòi hỏi phải được đặt trong chương trình nghị sự hàng ngày của Chính phủ. Kinh tế tư nhân kinh doanh hợp pháp cần được Chính phủ khuyến khích tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn ra kinh doanh, cần được bảo vệ bằng luật pháp và chính sách, những nhà đầu tư tư nhân phải được thực sự bình đẳng trong kinh doanh trước pháp luật, được tôn trong xã hội bởi hiện nay nhiều nhà doanh nghiệp tư nhân vẫn bị coi là kẻ bóc lột so với các doanh nghiệp Nhà nước họ còn bị thua kém nhiều bề. Chính sách của Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân phát triển trong những ngành và lĩnh vực pháp luật cho phép. Nhà nước góp phần vốn đầu tư cùng tư nhân trên cơ sở thoả thuận nhằm tạo thế kinh doanh tạo lực phát triển xây dựng tình đoàn kết, hợp tác giữa chủ và thợ phát triển kinh doanh có hiệu quả. Tất cả các thành phần kinh tế trên tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ. 2.3. Mối liên hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Nền kinh tế hàng hoá quá độ trong đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất vừa thống nhất vừa mẫu thuẫn với nhau. Tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể hiện ở: Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập nhau mà gắn bó đan xen xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế vì chúng đều là các nbộ phận của hệ thống phân công lao động xã hội thống nhất. Mỗi thành phần kinh tế có vai trò, chức năng của nó trong đời sống kinh tế xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn vì yếu tố điều tiết thống nhất của hệ thống các quy luật kinh tế tác động trong thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất. Tất cả các thành phần kinh tế đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta. Vì vậy các thành phần này đều phát huy mọi tiềm lực hiện có để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các thành phần kinh tế đều khác nhau về nhiều mặt cho nên sự thống nhất này bao hàm những mặt khác biệt nhau và đối lập nhau. Chúng tồn tại trong mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xu hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có sự mâu thuẫn là do đặc điểm sỡ hữu của các thành phần kinh tế là khác nhau nên lợi ích kinh tế giữa các thành phần là khác nhau, trái ngược nhau nên mâu thuẫn lẫn nhau vì chúng đều là các chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trường. Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển trong hệ thống thống nhất của nền kinh tế quá độ chứa đựng những sự đối lập, một mặt bài trừ, như định lẫnh nhau, cạnh tranh với nhau. Mặt khác chúng thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển thông qua hợp tác và cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá để vươn lên tự khẳng định mình và phát triển theo quỹ đạo chung chịu sản xuất quản lý của nhà nước. Tuỳ vào khả năng và trình độ xã hội hoá của từng thành phần và sự hợp tác giữa chúng mà giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tạo công ăn việc làm nâng cao đời sống người dân. 2.4. Những thành quả đạt được, những mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. 2.4.1. Những thành quả đạt được. Qua hơn mười năm đổi mới nền kinh tế nước ta bước đầu được cấu trúc lại đi dần vào thế ổn định và tăng trưởng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hàng năm nền kinh tế đều có tăng trưởng: tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng bình quân hàng năm là 8,2%, giảm tỷ lệ lạm phát từ 14,7% năm 1986 xuống 12,7% năm 1995 và khoảng 5% năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (1991 - 1995) đạt tỷ đô la và năm 1996 đạt trên 7 tỷ đô la. Mở rộng được quan hệ kinh tế hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển kinh tế trong nước. Đến cuối năm 1996 có trên 700 công ty lớn, nhỏ đầu tư vào nước ta với 22 tỷ đô la nằm trong 1.800 dự án phát triển kinh tế thuộc nhiều thành phần khác nhau như: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, ngân hàng tài chính chúng ta đã thiết lập quan hệ buôn ngoại thương với

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60396.DOC
Tài liệu liên quan