MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề 1
B. Nội dung 3
1. Sự cần thiết phải xây dựng kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam 3
1.1. Lý thuyết chung về kinh tế thị trường 3
1.1.1. Khái niệm về kinh tế thị trường 3
1.1.2. Những đặc điểm của kinh tế thị trường 3
1.2. Đặc điểm và yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam 4
1.2.1. Đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam 5
1.2.2. Những yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa 5
2. Vai trò của kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa trong
công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 6
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hị trường, nó là nền kinh tế nhiều thành phần, vừa có quá trình tư nhân hoá vừa có quá trình quốc hữu hoá. Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở mức độ cao, nó không chỉ là công nghệ, phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội mà còn là những quan hệ kinh tế, xã hội, nó bao gồm cả các yếu tố của lực lượng sản xuất và một hệ thống sản xuất. Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất, nó là phương thức sở hữu kinh tế của sự phát triển.
Những đặc điểm của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, nó trải qua 3 giai đoạn phát triển là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường, giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do và giai đoạn phát triển kinh tế thị trường hiện đại.
Trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa người và người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua hoạt động trao đổi, mua bán bằng tiền, thông qua quan hệ hàng - tiền. Quan hệ hàng - tiền có ý nghĩa rất to lớn đối với người tiêu dùng, người sản xuất và ngày càng được mở rộng.
Kinh tế thị trường nảy sinh, hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, nó là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng chúng vào thực tiễn. Sự phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với sự phát triển của văn minh nhân loại, của khoa học kỹ thuật, của lực lượng sản xuất.
Kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối...
Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng có một số khuyết tật vốn có như : tính tự phát mù quáng, nạn thất nghiệp, khủng hoảng có chu kỳ, tính cạnh tranh tàn nhẫn dẫn đến phá sản, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội... Kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi để phát sinh, phát triển nhiều loại tệ nạn như trộm cắp, ma tuý...
Nền kinh tế thị trường có nhiều mặt phù hợp với mục tiêu Xã hội chủ nghĩa, thúc đâỷ kinh tế - xã hội phát triển nhưng cũng có những mặt không phù hợp với mục tiêu Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để Đảng ta thực hiện mục tiêu xây dựng Xã hội chủ nghĩa, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Do đó khi nói nước ta phát triển nền kinh tế thị trường thì phải xác định rõ đó là kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
1.2 Đặc điểm và yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức kinh tế dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội cần phải biết kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại, sử dụng văn minh của kinh tế thị trường, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng chủ nghĩa xã hội có hiệu quả, định hướng Xã hội chủ nghĩa là phải vì lợi ích nhân dân, tư tưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ công bằng xã hội. Vì vậy, kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa nhằm phục vụ lợi ích nhân dân và góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người. Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa thì mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, nền kinh tế lấy các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa - nghĩa là các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội, sở hữu tập thể làm nền tảng với mục tiêu là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Từ đó, ta có thể tổng kết một số đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.2.1 Đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
-Nền kinh tế mà nước ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại.
-Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
-Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
-Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự quản lý, điều tiết của Nhà nước.
-Hội nhập, mở cửa với kinh tế thế giới trên cơ sở đảm bảo độc lập, chủ quyền dân tộc.
-Đảm bảo công bằng xã hội.
-Thực hiện phân phối theo lao động và vốn là chủ yếu.
1.2.2 Những yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Qua những đặc điểm trên, ta thấy để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa thì phải biết phát huy mặt tốt và hạn chế những mặt xấu của kinh tế thị trường, do đó, yêu cầu đặt ra là:
-Phải giải quyết vấn đề công bằng xã hội cho phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế.
-Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước.
-Lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu.
-Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, làm cho kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
-Nâng cao vai trò làm chủ của người lao động trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
-Thực hiện phân phối công bằng tạo động lực cho sự phát triển.
1.3 Vai trò của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó góp phần to lớn trong việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên các nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội, cải thiện đời sống người dân. Phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ được nền kinh tế tự túc tự cấp, làm cho phân công lao động phát triển, đa dạng hoá các ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Nó còn tạo điều kiện cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất; từ đó năng suất, chất lượng, chủng loại hàng hoá tăng lên. Ngoài ra, kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa còn là động lực để phát huy tính năng động, sáng tạo ở mỗi người, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, siêu lạm phát kéo dài; đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao hơn; đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu; thực hiện một phần được mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đó chính là những thành tựu mà kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa mang lại cho chúng ta. Từ đó càng khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam -Thực trạng và giải pháp
Thực trạng quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1.1 Quan điểm của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Trong suốt một thời gian dài từ những năm 80 trở về trước, nước ta đã không nhận thức đúng về kinh tế thị trường, sản xuất hàng hoá; cho rằng sản xuất hàng hoá là hình thức tổ chức sản xuất của tư bản chủ nghĩa, coi nhẹ qui luật cạnh tranh, qui luật giá trị, qui luật cung cầu; chỉ thấy những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường và phủ nhận quan hệ thị trường. Kết quả là sản xuất đình trệ, lạc hậu, nền kinh tế rơi vào tình trạng chậm phát triển, khủng hoảng kéo dài.
Phải đến Đại hội Đảng VI (12/1986), Đảng mới đề ra chủ trương phát triển sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện hạch toán kinh doanh. Tuy nhiên, Đảng ta vẫn chưa dùng đến các khái niệm như “Cơ chế thị trường” hay “kinh tế thị trường” và vẫn còn dè dặt khi nói đến phát triển sản xuất hàng hoá, chưa bao quát hết nội dung của nó.
Tháng 3/ 1989, tại Hội nghị lần VI BCH TW Đảng khoá VI, trên cơ sở một số thành tựu bước đầu đạt được trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta mới nhấn mạnh: vấn đề phát triển kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần tiến lên Chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính qui luật, thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế... Các quyết định sau đó của Đảng, đặc biệt là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng và thực hiện. Đó chính là động lực thúc đẩy sự sáng tạo, lòng say mê nhiệt tình của người dân, làm cho các hoạt động kinh doanh ngày càng sôi nổi, làm thay đổi bộ mặt thị trường.
Sau những thành tựu đạt được, Đại hội ĐảngVII (6/1991) đã khẳng định mạnh mẽ về việc giải phóng và phát huy các tiềm năng sản xuất thì cần phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước. Quá trình đổi mới thực sự thực hiện bắt đầu từ Đại hội Đảng VII.
Tại Đại hội Đảng lần VIII, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định phải giải phóng sức sản xuất, động viên nguồn lực bên ngoài, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh. Chúng ta phải nâng cao hiệu quả của kinh tế Nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước yên tâm làm ăn, thực hiện liên kết giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. Đại hội Đảng VIII đã đề ra chủ trương xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Gần đây, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa bằng việc thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Đảng ta còn nhấn mạnh phải phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để cho chúng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tại Đại hội lần này, nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa có xuất hiện thêm một thành phần kinh tế đó là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự xuất hiện của thành phần kinh tế này là do khoa học kỹ thuật phát triển, đòi hỏi phải ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nên chúng ta phải tăng cường vốn đầu tư nước ngoài.
Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải là nền kinh tế thị trường bất kỳ mà là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa - đó là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong Chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống người dân. Theo quan điểm của Đảng ta thì kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
2.1.2 Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Từ các hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân đã hình thành nên các thành phần kinh tế, đó là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế đó chính là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về những tư liệu sản xuất chủ yếu, nó hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực then chốt. Trong kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước ngày càng hoạt động có hiệu quả và đi đầu trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật.
Kinh tế tập thể gồm nhiều hình thức hợp tác đa dạng với nòng cốt là hợp tác xã. Các hợp tác xã dựa trên hình thức sở hữu của tập thể của các thành viên, trong đó những người lao động, hộ sản xuất kinh doanh liên kết với nhau và không giới hạn qui mô, lĩnh vực, địa bàn.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân người sản xuất. Nó có vị trí quan trọng, có tiềm năng to lớn trong nhiều ngành nghề ở thành thị và nông thôn. Hình thức kinh tế này có thể làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do các nhà tư bản góp lại để sản xuất kinh doanh. Kinh tế tư bản tư nhân đang đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước và ngày càng được khuyến khích phát triển rộng rãi trong nhiều ngành sản xuất. Kinh tế tư bản tư nhân tập trung phần lớn trong các ngành dịch vụ, kinh doanh bất động sản và dịch vụ.
Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức liên kết, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc huy động tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lí ... của các nhà tư bản vì lợi ích của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta còn xuất hiện một thành phần kinh tế mới đó là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phần này gồm vốn đầu tư nước ngoài vào các cơ sở kinh doanh, sản xuất ở nước ta. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có khả năng thu hút được công nghệ hiện đại và tạo việc làm cho người lao động.
2.1.3 Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường tồn tại một cách khách quan, mỗi thành phần kinh tế có đặc trưng riêng về trình độ và tính chất xã hội hoá lao động. Quan hệ sở hữu chính là yếu tố quan trọng nhất, quyết định bản chất và xu hướng vận động của mỗi thành phần kinh tế. Trong hoạt động thực tiễn các thành phần kinh tế không biệt lập mà có mối quan hệ với nhau, tạo thành một hệ thống vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn.
Tính thống nhất biểu hiện ở chỗ mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân và đều nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Trong hoạt động thực tiễn các thành phần kinh tế không tách rời mà kết hợp đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các thành phần kinh tế đều chịu sự chi phối của các qui luật thị trường. Trong nền kinh tế thị trường thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chính là nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế biểu hiện ở mâu thuẫn giữa tư hữu và công hữu, giữa tư nhân với tập thể và Nhà nước, giữa xu hướng phát triển Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa... Mỗi thành phần kinh tế lại có bản chất riêng, chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế riêng, ví dụ như kinh tế tư bản tư nhân chịu sự chi phối của qui luật giá trị thặng dư nên nó mâu thuẫn với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Giữa các thành phần kinh tế luôn có sự cạnh tranh với nhau về lợi ích, về xu hướng chính trị...
Từ những mâu thuẫn của các thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước ta phải có những biện pháp thích hợp để sử dụng chúng có hiệu quả và đảm bảo đi đúng định hướng Xã hội chủ nghĩa.
2.1.4 Thành tựu đạt được và yếu kém cần khắc phục của Việt Nam trong những năm đổi mới
Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới cho thấy nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là phù hợp với qui luật khách quan, hợp lòng dân, đáp ứng yêu cầu cuộc sống. Công cuộc đổi mới giúp cho nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng xã hội nghiêm trọng, kéo dài và đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Tình trạng đình đốn trong sản xuất được khắc phục. Lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991 và 12,7% năm 1995.
Trong thời kỳ 1991-1995, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm đạt 8,2%, tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây dựng, dịch vụ trong GDP ngày càng tăng, có tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế, đầu tư toàn xã hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP năm 1990 là 15,8%, năm 1995 là 27,4%. Cho đến nay thì tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân là 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Nuôi trồng và khai thác thuỷ, hải sản được mở rộng. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 13,5%. Nhiều cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng và ngày càng phát triển; hệ thống cơ sở hạ tầng như: đường sá, cầu, cảng,... được tăng cường. Các ngành xuất nhập khẩu, dịch vụ đều phát triển. Năm 2000, chúng ta chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu hầu hết đã đạt được hoặc vượt mức kế hoạch.
Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Những nhu cầu thiết yếu của người dân như: ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục,... được đáp ứng tốt hơn. Phân công xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Hàng năm nước ta có hơn 1,2 triệu lao động có việc làm mới. Tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động được phát huy đã tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế.
Tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định, an ninh và quốc phòng được tăng cường. Việc kết hợp an ninh quốc phòng với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có tiến bộ. Hệ thống chính trị nước ta ngày càng được củng cố.
Về đối ngoại, quan hệ với các nước không ngừng được mở rộng. Hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Đất nước ta đã gia nhập ASEAN, tham gia AFTA, APEC và chuẩn bị gia nhập WTO. Việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1996 đã tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Ngoài những mặt tích cực, kinh tế thị trường còn biểu hiện những mặt hạn chế, những hiện tượng tiêu cực trong quá trình đổi mới. Đó là lối làm ăn chạy theo lợi nhuận dẫn tới lừa đảo, hối lộ, trốn thuế, thương mại hoá tràn lan, xâm nhập cả vào những lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục, làm cho giá trị tinh thần bị đảo lộn và xuống cấp nhanh, đồng thời chi phối nhiều quan hệ gia đình và xã hội, kỷ cương pháp luật không nghiêm, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có xu hướng tăng lên.
Nền kinh tế nước ta phát triển chưa thật vững chắc, năng suất lao động chưa cao, chất lượng sản phẩm chưa tốt trong khi giá thành lại cao. Năm năm qua, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của nước ta chậm dần, nhiều sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ; môi trường sinh thái bị phá hoại nghiêm trọng, đặc biệt là nạn phá rừng và khai thác tài nguyên bừa bãi; tình trạng buôn lậu, làm hàng giả ảnh hưởng xấu đến kinh tế -xã hội. Về quan hệ sản xuất, kinh tế nhà nước chưa phát huy hết vai trò chủ đạo của mình, kinh tế tập thể phát triển chưa mạnh.
Việc làm vẫn đang là một vấn đề gay gắt. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao trong khi ở nông thôn lại thiếu lao động. Khoa học công nghệ chưa đáp ứng tốt về yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Môi truờng ngày càng ô nhiểm nặng nề, đặc biệt ở những nơi tập trung công nghiệp. Mức sống của người dân ở một số vùng còn quá thấp. Sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng. Tệ nạn xã hội phát triển, đặc biệt là tệ nạn ma tuý và mại dâm. Trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp.
Cơ chế chính sách chưa tạo động lực cho nền kinh tế phát triển, còn thiếu những chính sách thúc đẩy giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Nạn tham nhũng chưa ngăn chặn được. Tình trạng lãng phí quan liêu còn phổ biến. Đạo đức lối sống của một số cán bộ, đảng viên đang bị suy thoái.
Ngoài ra còn có những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc với kinh tế thị trường như: sùng bái kinh tế thị trường, để cho kinh tế thị trường tự do phát triển mà không cần sự quản lý của Nhà nước, cho rằng chỉ có phát triển kinh tế tư bản tư nhân mới là phương thức duy nhất để phát triển kinh tế thị trường hiện nay. Có những người lại cho rằng nếu phát triển kinh tế thị trường là từ bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa. Đó là những nguy cơ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần khắc phục.
Nguyên nhân chính của những mặt yếu kém trên là do hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lí của Nhà nước chưa tốt, thêm vào đó là nạn tham nhũng rất nghiêm trọng. Vì vậy chúng ta phải có những biện pháp tích cực để đảm bảo phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, từ đó thực hiện tốt mục tiêu mà Đảng ta đề ra là thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Những giải pháp đảm bảo cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
Phát huy vai trò của các thành phần kinh tế
Giải pháp chung
Để sử dụng có hiệu quả các thành phần kinh tế, Nhà nước ta phải tiến hành đồng bộ những biện pháp vĩ mô để tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế, đó là:
Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để các thành phần kinh tế bình đẳng và tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế, tạo mối quan hệ tốt về lợi ích giữa người lao động, các doanh nghiệp và Nhà nước.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao, công nhân lành nghề đáp ứng tốt yêu cầu hiện nay.
Phát triển mạnh sản xuất hàng hoá, xây dựng và hoàn thiện thị trường đồng bộ, phát triển giao thông và thông tin liên lạc.
Chúng ta phải thúc đẩy sự hình thành và hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng chưa có hoặc mới phát triển như thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học và công nghệ.
Đổi mới các công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Chúng ta phải đổi mới công tác kế hoạch hoá, dự báo chính xác tình hình kinh tế bằng việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, đảm bảo công bằng trong chi ngân sách. Hệ thống thuế phải được cải cách cho phù hợp với tình hình hiện nay, đơn giản hoá các sắc thuế, áp dụng hệ thống thuế thống nhất, hiện đại hoá công tác quản lí thuế.
Giải pháp đối với từng thành phần kinh tế
-Kinh tế nhà nước :
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, phát triển kinh tế nhà nước là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Chúng ta phải tập trung đầu tư một cách có hiệu quả cho các doanh nghiệp nhà nước và phát triển thêm doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước hoặc Nhà nước có cổ phần chi phối ở một số lĩnh vực then chốt. Tích cực cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy động vốn và thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn hiệu quả.
Đổi mới cơ chế, chính sách đối với các doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xoá bỏ bao cấp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, làm ăn có lãi và nộp đủ thuế. Bên cạnh đó phải đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lí doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, vừa đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh vừa đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đôí với doanh nghiệp.
-Kinh tế tập thể
Phát triển kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã. Hợp tác xã có thể phát triển kinh doanh tổng hợp chuyên ngành hoặc đa ngành. Nhà nước giúp hợp tác xã mở rộng thị trường, giải quyết nợ tồn đọng, đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất... Kinh tế tập thể sẽ ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
-Kinh tế cá thể, tiểu chủ
Nhà nước tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp khác.
-Kinh tế tư bản tư nhân
Kinh tế tư bản tư nhân được Nhà nước khuyến khích phát triển trong nhiều ngành sản xuất. Nhà nước còn tạo điều kiện và môi trường pháp lý cho hoạt động cạnh tranh hợp pháp, cho sự hợp tác liên doanh một cách tự nguyện với kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước hoặc chuyển thành doanh nghiệp cổ phần.
-Tạo điều kiện phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước. Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lí để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.2 Phát triển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là trọng tâm của quá trình phát triển kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa thì kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hai thành phần kinh tế này chính là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Chúng ta phải phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, lấy sự phát triển của kinh tế nhà nước làm định hướng phát triển cho các thành phần kinh tế khác.
2.2.3 Những giải pháp kiên định định hướng Xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường, tránh nguy cơ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa.
-Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam thông qua đường lối, chính sách kiểm tra, kiểm soát. Phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
-Nâng cao hiệu lực quản lí của Nhà nước thông qua bộ máy Nhà nước trong sáng, trí tuệ.
-Có cơ chế quản lí kinh tế phù hợp, định hướng phát triển kinh tế-xã hội trong thời gian dài và trong từng thời kỳ nhất định.
-Cảnh giác, đề phòng các khuynh hướng chệch hướng Xã hội chủ nghĩa trong mọ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60174.DOC