Sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đòi hỏi ngày càng bức thiết phải làm công tác thủy lợi, khai khẩn đất đai, mở rộng diện tích canh tác, cư dân lúc bấy giờ đã biết sử dụng biện pháp tưới tiêu “theo nước thủy triều lên xuống”. Với những công cụ bằng kim khí, cư dân Đông Sơn đã mở rộng địa bàn cư trú, khai khẩn đất đai, trồng lúa trên các loại ruộng nước, bãi và các nương rẫy với những hình thức canh tác phù hợp. Ngoài ra, người đương thời còn phát triển nghề làm vườn, cây ăn quả để làm phong phú cho nguồn lương thực. Điều đó chứng tỏ sự phổ biến và phát triển mạnh mẽ của nghề nông trồng lúa nước thời Hùng Vương.
10 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4492 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm triết học Mác-Lênin về quá trình hình thành nhà nước ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------
TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ NGUỒN GỐC NHà NƯỚC
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa có nhà nước. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền lực của người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ không có và không cần một công cụ đặc biệt nào.
Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Do đó nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến nhà nước tư sản.
Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Đúng như V.I.Lênin nhận định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: Sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể dcdiều hòa được”. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất khi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
Nhà nước là một phạm trù lịch sử xã hội có giai cấp. Điều kiện quan trọng số một để nhà nước có thể ra dời được là trên cơ sở sức sản xuất phát triển dẫn đến tình trạng phân hóa xã hội. Nhà nước ra đời là sản phẩm tất yếu của một xã hội mà mâu thuẫn giai cấp đã phát triển đến mức không thể điều hòa được. Đây là quy luật chung của tất cả các nhà nước trên thế giới, không loại trừ bất cứ một kiểu nhà nước nào dù có là nhà nước Aten, Hy Lạp, Giecmanh hay nhà nước mang tính đặc thù phương Đông.
Riêng đối với loại hình nhà nước phương Đông. Ph.Erghen đã nêu rõ luận điểm mâu thuẫn, giải thích về quá trình ra đời của nhà nước ở đây như sau: “Trên cơ sở phân hóa xã hội là tiền đề vật chất không thể thiếu được, yêu cầu tổ chức công trình tưới nước và yêu cầu đấu tranh tự vệ làm cho Nhà nước lúc ban đầu vốn là “chức năng xã hội” tiêu biểu cho lợi ích chung của cộng đồng, rồi chuyển sang địa vị độc lập với xã hội” và cuối cùng “vươn lên thành thống trị đối với xã hội”. Như vậy, nghiên cứu sự ra đời của nhà nước phương Đông, ngoài đi sâu nghiên cứu sự phân hóa xã hội, chúng ta không thể không quan tâm đúng mức đến sự tác động của hai nhân tố khác là thủy lợi và tự vệ. Nhà nước Văn Lang ra đời cũng không nằm ngoài quy luật này.
II. SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC ĐẦU TIÊN Ở VIỆT NAM - NHÀ NƯỚC VĂN LANG
Qua hàng chục vạn năm gian khổ lao động và sáng tạo, từ những công cụ bằng đá cũ thô sơ đến sự phát minh ra kĩ thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước dùng cày có sức kéo là trâu bò, đời sống vật chất và tinh thần của người nguyên thủy Việt Nam ngày càng được nâng cao, từng bước làm thay đổi bộ mặt xã hội, đưa đến hình thành một lãnh thổ chung, một nền văn hóa, văn minh chung và một tổ chức chính trị, xã hội chung, đó là quốc gia và nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản tropng lịch sử xã hội Việt Nam, mở ra một thời đại mới - thời đại dựng nước. Thời đại lịch sử quan trọng này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu, đã có nhiều tài liệu đề cập tới.
Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, trong một số tác phẩm đã có đề cập đến thời đại này dưới dạng truyền thuyết, lịch sử hay địa lí. Đó là các tác phẩm Việt Nam thế chí, Việt sử lược, Việt diện u linh, Lĩnh Nam chích quái. Đại việt sử kí toàn thư, Dư địa chí, Việt sử thông giám, Lịch chiều hiến chương loại chí… Tuy vậy, nhiều nhà sử học của nước ta thời bấy giờ còn tỏ ra hoài nghi về sự tồn tại của thời kì lịch sử này mà ngun của sự hoài nghi đó là bởi thiếu các cứ liệu đáng tin cậy.
Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là từ năm 1954, sau khi thực dân Pháp bại trận ở Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, ngành sử học và khảo cổ học Việt Nam chính thức ra đời và ngày càng phát triển. Việc nghiên cứu một cách toàn diện về thời đại Hùng Vương - Dan Dương Vương được chú trọng và đẩy mạnh, do đó đạt được các thành tựu to lớn với các công trình nghiên cứu có giá trị như: văn hóa Đông Sơn hay văn hóa Lạc Việt, Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt của Đào Duy Anh, Lịch sử chế độ cộng sản ở Việt Nam, xã hội nước Văn Lang và Âu Lạc, Hùng Vương dựng nước. Trên cơ sở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn được khai quật ở nhiều địa phương như di tích Núi Nấp, Quỳ Chữ, Đồng Ngầm ,Đồng Vừng, Bái Tê, Côn Cầu (Thanh Hóa), Làng Vạc (Nghệ An), Làng Cả (Phú Thọ), Đình Chông (Hà Nội).
Dựa vào các nguồn tư liệu mới phát hiện và kết quả nghiên cứu, nhiều nhà khảo cổ học và sử học cho rằng thời kì dựng nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam - thời Hùng Vương đã trải qua 4 giai đoạn phát triển nối tiếp nhau liên tục và ngày càng cao trên cơ sở kế thừa thành quả giai đoạn trước. 4 giai đoạn đó phản ánh quá trình hình thành và phát triển của nhà nước và quốc gia Văn Lang - Âu Lạc.
- Giai đoạn Phùng Nguyên tồn tại vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ II TCN, thuộc sơ kì thời đại đồng thau. Giai đoạn này chưa có công cụ bằng đồng.
- Giai đoạn Đồng Đậu ở vào khoảng nửa sau thiên niên kỷ II TCN, thuộc trung kì thời đại đồng thau. Thời kì này kỹ thuật làm gốm và luyện kim phát triển hơn.
- Giai đoạn Gò Mun tồn tại vào nửa đầu thiên niên kỉ I TCN. Thời kì này đồ đã giảm sút rõ rệt. Đây là giai đoạn hậu kì thời đại đồng thau.
- Giai đoạn Đông Sơn: tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỉ VII TCN đến thế kỉ I sau công nguyên. Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ sự phát triển rực rỡ của đồ đồng sang sơ kì đồ sắt của người Việt cổ thời Hùng Vương.
* Địa bàn cu trú: Căn cứ vào các di tích khảo cổ học thuộc văn hóa Đông Sơn đã phát hiện được, có thể xác định địa bàn cư trú của người Việt cổ ở nước Văn Lang ứng với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung bộ của nước ta ngày nay, mà chủ yếu tập trung trong các đồng bằng thuộc lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả, một số ít sống rải rác dọc miền núi theo các thung lũng của miền Bắc, miền Trung nước ta.
* Những chuyển biến về kinh tế - xã hội thời Hùng Vương.
- Thời kì này do kĩ thuật luyện kim ngày càng phát triển, nên công cụ lao động bằng đồng thau ngày càng chiếm ưu thế và thay thế dần công cụ bằng đá. Ở giai đoạn đầu (giai đoạn Phùng Nguyên), công cụ bằng đá còn chiếm ưu thế, nền kinh tế còn mang tính chất nguyên thủy. Sang đến giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, và nhất là Đông Sơn nhiều loại hình công cụ bằng đồng ra đời và ngày càng phong phú như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi xẻng, lưỡi rìu… Ngoài ra còn có lưỡi liềm đồng và công cụ lao động bằng sắt. Sự tiến bộ của công cụ sản xuất đã thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển, đạt đến trình độ khá coa. Nền kinh tế bao gồm nhiều ngành, nghề, trong đó nông nghiệp trồng lúa nước chiếm địa vị chủ đọa, phổ biến rộng rãi khắp lãnh thổ từ trung du đến đồng bằng ven biển.
Với việc chế tạo ra lưỡi cày và nông nghiệp dùng cày đã thay thế cho nền nông nghiệp dùng cuốc, đánh dấu bước phát triển mới, mạnh mẽ trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Nông nghiệp dùng cày lànguồn cung cấp lương thực chính nuôi sống xã hội, trở thành cơ sở chủ yếu của mọi hoạt động khác.
Sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đòi hỏi ngày càng bức thiết phải làm công tác thủy lợi, khai khẩn đất đai, mở rộng diện tích canh tác, cư dân lúc bấy giờ đã biết sử dụng biện pháp tưới tiêu “theo nước thủy triều lên xuống”. Với những công cụ bằng kim khí, cư dân Đông Sơn đã mở rộng địa bàn cư trú, khai khẩn đất đai, trồng lúa trên các loại ruộng nước, bãi và các nương rẫy với những hình thức canh tác phù hợp. Ngoài ra, người đương thời còn phát triển nghề làm vườn, cây ăn quả để làm phong phú cho nguồn lương thực. Điều đó chứng tỏ sự phổ biến và phát triển mạnh mẽ của nghề nông trồng lúa nước thời Hùng Vương.
Cùng với trồng trọt còn có chăn nuôi, đánh cá và thủ công nghiệp cũng rất phát triển.
Sự phát triển của nghề thủ công từ khi cư dân Phùng Nguyên phát minh ra nghề luyện kim, đúc đồng, tiến lên nghề luyện sắt ở giai đoạn Đông Sơn. Việt phát hiện được những khuôn đúc đồng và xỉ đồng đã khẳng định nghề luyện kim do cư dân Hùng Vương sáng tạo ra. Kĩ thuật luyện đồng đạt đến trình độ điêu luyện khiến cho các học giả nước ngoài kinh ngạc và phủ nhận tính bản địa của nó. Trống đồng và thạp đồng là những hiện vật tiêu biểu cho trí tuệ và tài năng, thẩm mĩ của người thợ thủ công đúc đồng.
Với kĩ thuật luyện đồng, cư dân bấy giờ đã tạo nên bước ngoặt, loại trừ hẳn đồ đá.
Sự phát triển của trình độ kĩ thuật luyện kim nói riêng và nghề luyện kim nói chung thời Hùng Vương không những đã làm thay đổi về vật chất và nâng cao hiệu quả của công cụ lao động sản xuất, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế mà còn tạo nên bước chuyển biến quan trọng trong quan hệ sản xuất - xã hội, đưa đến sự phân công lao động trong xã hội. Một số thợ thủ công tách khỏi nông nghiệp.
Nghề làm gốm cũng phát triển lên một bước, nghệ thuật nặn gốm được cải tiến, tạo hình bằng cách đổ khuôn và nung trong lò kín chuyên dụng. Chất lượng gốm ngày càng cứng và ít thấm nước hơn, độ mịn ngày càng tăng.
Các nghề thủ công khác như mộc, đan lát, kéo tơ, dệt vải, lụa, đóng tàu thuyền vẫn tiếp tục phát triển. Nghề sơn đã phát triển và đạt đến trình độ kĩ thuật khá cao vào thời Đông sơn.
Sự phát triển kinh tế về nhiều mặt là cơ sở cho sự mở rộng trao đổi hàng hóa với nước ngoài.
* Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, sự phân công lao động xã hội giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, sự trao đổi sản phẩm và các nguyên liệu giữa các địa phương ngày càng mở rộng dưới thời Hùng Vương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng thêm nguồn của cải xã hội. Sản phẩm thừa xuất hiện ngày càng nhiều hơn, đã tạo nên cơ sở cho sự phân hóa xã hội. Những của cải chung của xã hội dần dần bị một số người tìm cách chiếm đoạt biến thành của riêng. Chế độ tư hữu tài sản ra đời và ngày càng phát triển theo sự phát triển của kinh tế - xã hội. Đồng thời cũng dẫn đến một chuyển biễnã hội quan trọng là xã hội phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo.
Từ sự phân hóa các hiện vật trong các khu mộ táng thời Hùng Vương cho thấy xã hội bấy giờ đã có hiện tượng phân hóa thành các tầng lớp giàu nghèo khác nhau. Sự phân hóa đó diễn ra từ từ, ngày càng rõ nét trải qua một quá trình lâu dài từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Tuy nhiên sự phân hóa xã hội thành hai cực bấy giờ chưa sâu sắc. Sự phân hóa tài sản là biểu hiện của sự phân hóa xã hội. Gắn liền với hiện tượng này là sự ra đời của nô lệ gia tươngr, dẫn tới hình thành các tầng lớp xã hội khác nhau. quy tắc, Nô tì, tầng lớp dân tự do của công xã nông thôn. Tầng lớp trên của xã hội ngày càng giàu có và nắm giữ các cương vị quản lý công việc công cộng của chiềng chạ.
* Nhân tố thủy lợi, trị thủy và tự vệ chống ngoại xâm cũng đóng vai trò rất quan trọng đưa đến sự hình thành lãnh thổ chung và tổ chức nhà nước đầu tiên vào thời Đông Sơn.
Về nhu cầu thủy lợi và trị thủy: từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên. Khi con người tiến xuống khai phá vùng đồng bằng sông Hồng và chọn nghề trồng lúa nước là nghề sống chính là họ phải trực tiếp đối mặt với vùng đồng bằng sông nước. Sông Hồng chảy vào nước ta qua địa hình phức tạp nên có độ dốc cao, nên nó là con người “nguy hiểm” với con người. Để chinh phục được vùng đồng bằng này người Việt phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách. Và khó khăn hơn cà là đảm bảo được nguồn nước cho nông nghiệp. Từ trong cuộc đấu tranh để khắc phục những trở ngại của thiên nhiên (mưa nguồn, nước lũ, bão tố, phong ba, hạn hán) đòi hỏi mọi thành viên không phải chỉ có trong từng công xã mà nhiều công xã phải liên kết với nhau để tiến hành các công trình tưới, tiêu nước, đảm bảo cho sự phát triển một nền kinh tế mà nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo.
Về nhu cầu tự vệ chống ngoại xâm: Nước ta có vị trí chiến lược, là cầu nối từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Đây là nơi giao lưu kinh tế, văn hóa thuận lợi và vì vậy nước ta sớm bị nhóm ngõ, đứng trước các mối đe dọa của giặc ngoại xâm. Vậy nên yêu cầu liên kết, thống nhất Lục Lâm để tự vệ cũng không kẽm phần cấp thiết.
Sự tăng nhanh về tỉ lệ vũ khí so với hiện vật trong các di tích từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn đã chứng tỏ một hiện tượng nổi lên ở cuối thời Hùng Vương là xã hội có nhiều mối đe dọa và xung đột. Trong hoàn cảnh như vậy, những yêu cầu nói trên đã có tác động đẩy mạnh sự quần tụ, thống nhất cư dân sống trong các địa vực khác nhau cỏ cùng tiếng nói và phong tục thành mộng cộng đồng cư dân thống nhất. Từ thực trạng lịch sử đó, trải qua các thế hệ nối tiếp, ý thức xây dựng và củng cố mối quan hệ gắn bó họ hàng, làng nước được tăng cường. Điều đó đã đưa đến sự liên minh giữa nhiều bộ lạc với nhau mà sử cũ gọi là 15 bộ thành một lãnh thổ chung do bộ lạc Văn Lang làm trung tâm liên minh bộ lạc Văn Lang là ngưỡng cửa của một quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Căn cứ vào phạm vi phân bố của nền văn hóa Đông Sơn, chúng ta thấy trùng khớp với cương vực của nước Văn Lang thời Hùng Vương. Cương vực đó gồm có 15 bộ lạc lớn. Bên cạnh những bộ lạc nhỏ khác sinh sống, có mối quan hệ láng giềng chặt chẽ do có quá trình chung sống bên nhau, có cùng chung một số phận lịch sử, một nhu cầu để tồn tại và phát triển, đã dần dần tạo nên cho cả cộng đồng cư dân một lối sống chung, văn hóa chung. Và như vậy, từ các đơn vị cộng cư của một xã hội nguyên thủy đã hình thành các đơn vị hành chính của một quốc gia cùng với sự hình thành lãnh thổ chung và một tổ chức chung để quản lý và điều hành xã hội, đó là nhà nước Văn Lang.
Nhà nước Văn Lang tồn tại từ thế kỷ VII TCN đến năm 208 TCN. Nhà nước Văn Lang tổ chức bộ máy cai trị sơ lược, mang đậm tính chất thời kì quá độ có Nhà nước. Hệ thống của bô máy cai trị chia thành 3 cấp: Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối. Hcg đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 bộ, vốn là 15 bộ lạc trước đó. Lạc tướng cũng thế lập cha truyền con nối, còn gọi là phụ dạo bộ tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ còn có tên là kẻ, chiềng, chạ). Đứng đầu kẻ, chạ chiềng là các từ chính (tức già làng). Mỗi công xã nông thôn có một nơi để hội họp, sinh hoạt cộng đồng.
Sự ra đời sớm của nhà nước Văn Lang, dù còn sở khai, đã đánh dấu một bước phát triển lớn lao có ý nghĩa thời đại trong lịch sử Việt Nam - mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc ta.
Bên cạnh chức năng thống trị, bóc lột, nhà nước Văn Lang thực hiện sự đoàn kết cộng đồng để chinh phục thiên nhiên, xây dựng các công trình thủy lợi và để chống lại các nguy cơ xâm lược từ bên ngoài.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TrietHoc1043.doc