Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Mục lục : trang

Lời nói đầu 1

Nội dung 3

Phần I:KháI niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 3

1.Cơ sở hạ tầng 3

2.Kiến trúc thượng tầng 3

Phần II:Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc

thượng tầng 4

1.Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng 4

2.Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng

đối với cơ sở hạ tầng 5

Phần III: Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

ở Việt Nam 8

1.Trước thời kì đổi mới 8

2.Sau hơn 20 năm đổi mới 8

2.1.Những thành tựu đã đạt được 8

2.2.Bên cạnh đó,kiến trúc thượng tầng nước ta

còn bộc lộ nhiều bất cập 12

2.3.Do nhiều nguyên nhân,quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và

kiến trúc thượng tầng bị tác động theo nhiều xu hướng khác nhau 13

2.4.Những yêu cầu tiếp tục sự hoàn thiện sự lãnh đạo chính trị

với kinh tế ở nước ta 14

Kết luận 16

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7953 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n xuất thống trị.Từ đó,các quan hệ sản xuất này hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội.trên cơ sở kinh tế đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng của xã hội. 2.Kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, triết học, đạo đức, pháp luật, tôn giáo…với những thiết chế tương ứng như đảng phái, nhà nước, giáo hội…được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Kiến trúc thượng tầng bao gồm ba bộ phận hợp thành là:Hệ tư tưởng và thiết chế giai cấp thống trị,tàn dư của các quan điểm chính trị-xã hội của giai cấp trong xã hội cũ,các quan điểm và thiết chế của các giai cấp mới ra đời. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng,quy luật riêng và có quan hệ khác nhau với cơ sở hạ tầng nhưng giữa chúng có sự liên hệ,tác động,ảnh hưởng lẫn nhau trên cùng một cơ sở hạ tầng nhất định.Một số yếu tố như nhà nước,pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng.Còn tôn giáo,nghệ thuật,triết học chỉ có quan hệ gián tiếp với nó. Trong xã hội có giai cấp,kiến trúc thượng tầng có tính giai cấp.Tồn tại sự đấu tranh về chính trị-tư tưởng của các giai cấp nhưng giai cấp thống trị vẫn giữ vai trò thống trị vê chính trị tư tưởng.Nhà nước là một thiết chế có vai trò đặc biệt quan trọng-tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định và đảm bảo vai trò thống trị của giai cấp thống trị trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội.Ví dụ,trong xã hội tư bản chủ nghĩa,có sự đấu tranh về chính trị-tư tưởng giữa giai cấp vô sản,giai cấp tư sản nhưng sự thống trị về chính trị-tư tưởng thuộc về giai cấp tư sản.Nhà nước tư bản chủ nghĩa được lập ra chỉ nhằm mục đích là bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa,bảo đảm quyền lợi cho giai cấp tư sản và sự thống trị tuyệt đối của giai cấp tư sản trên tất cả mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội. Phần II:Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 1.Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết là: mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng.Tính chất của kiến trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quy định.Trong xã hội có giai cấp thì giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng thống trị về mặt chính trị-tư tưởng.Ví dụ,cơ sở hạ tầng phong kiến hình thành nên kiến trúc thượng tầng phong kiến chịu sự thống trị về chính trị-tư tưởng của giai cấp phong kiến-giai cấp nắm vai trò thống trị về kinh tế ;cơ sở hạ tầng tư bản chủ nghĩa hình thành nên kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,toàn xã hội chịu sự thống trị về chính trị-tư tưởng của giai cấp tư sản-giai cấp thống trị về kinh tế trong toàn xã hội. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ:cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.C.Mac viết’’cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng’’. Tuy sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.Sự phát triển của lực lượng sản xuất trực tiếp làm thay đổi quan hệ sản xuất,tức là trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp.Trong đó có nhiều yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị,pháp luật…Bên cạnh đó cũng có những yếu tố chậm thay đổi như tôn giáo,nghệ thuật…hoặc có yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới.Trong xã hội có giai cấp thì sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.Ví dụ,để hình thành chế độ tư bản chủ nghĩa với sự thống trị của giai cấp tư sản (kiến trúc thượng tầng) thì phải trải qua quá trình tích lũy tư bản nguyên thủy (tức là quá trình xây dựng một cơ sở hạ tầng mới tạo điều kiện cho sự ra đời của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa).Trong quá trình tích lũy tư bản nguyên thủy,có sự tích lũy lớn về vốn,hình thành giai cấp tư sản, từng bước thiết lập và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.Từ đó dần dần hình thành nên cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản.Giai cấp tư sản dần trở thành giai cấp thống trị về kinh tế.Giữa giai cấp tư sản và phong kiến có nhiều mâu thuẫn về lợi ích.Cơ sở hạ tầng biến đổi,mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt.Do đó.cách mạng tư sản-một cuộc cách mạng xã hội-nổ ra như một tất yếu xóa bỏ tàn dư của chế độ phong kiến,phá vỡ kiến trúc thượng tầng phong kiến và thay vào đó là hình thành nên kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.Lúc này,giai cấp tư sản không chỉ thống trị về kinh tế mà còn thống trị về chính trị-tư tưởng.Đây là quá trình biến đổi cơ sở hạ tầng phong kiến sang cơ sở hạ tầng tư bản chủ nghĩa kéo theo sự biến đổi về kiến trúc thượng tầng trong giai đoạn chuyển từ hình tháI kinh tế-xã hội phong kiến sang hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa. Cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng không chỉ xảy ra trong giai đoạn chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình tháI kinh tế-xã hội khác mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình tháI kinh tế-xã hội.Ví dụ,sự phát triển của hình thái kinh tế-xã xã hội chủ nghĩa trải qua hai thời kì là từ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chuyển sang cộng sản chủ nghĩa.Cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội thay đổi:quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố hơn nữa,lớn mạnh hơn và hoàn thiện hơn;quan hệ sản xuât xã hội chủ nghĩa ngay càng khẳng định được vai trò thống trị của mình,các quan hệ sản xuất tàn dư của chủ nghĩa tư bản và phong kiến dần dần bị xóa bỏ hoàn toàn.Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa biến đổi kéo theo sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa chuyển thành nhà nước cộng sản chủ nghĩa. Vai trò của kinh tế với chính trị: xét đến cùng kinh tế là nhân tố quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống chính trị, tương ứng với một trình độ kinh tế nhất định thì có một trình độ chính trị tương ứng;kinh tế thay đổi tất yếu chính trị thay đổi; từ một vấn đề kinh tế không lớn có thể dẫn đến một vấn đề chính trị phức tạp làm đảo lộn đời sống chính trị;lực lượng nào nắm kinh tế thì lực lượng đó nắm quyền lực chính trị.Vì vậy khi giải quyết các vấn đề chính trị, phải xuất phát từ kinh tế .Để giải quyết tốt các vấn đề chính trị thì cũng phải xuất phát từ việc giải quyết căn cốt của kinh tế;kinh tế là gốc của chính trị.Kinh tế xét đến cùng "là nhân tố quyết định nhất đối với sự thắng lơị của trật tự xã hội".Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, điều đó có nghĩa là, xét đến cùng kinh tế là cái quyết định,kinh tế mang tính thứ nhất, chính trị chỉ là cái phản ánh của kinh tế. 2.Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng: Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng nhưng đó không phải là sự phù hợp giản đơn,máy móc.Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng.Tuy nhiên mỗi yếu tố khác nhau lại có vai trò khác nhau,có cách thức tác động khác nhau.Trong xã hội có giai cấp,Nhà nước là yếu tố tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Ví dụ,Nhà nước Xã hội chủ nghĩa tác động lên cơ sở hạ tầng thiết lập nên sự thống trị của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;dần xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bóc lột kiệt quệ về sức lao động và giá trị thặng dư của người lao động;đồng thời từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa.Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học,tôn giáo,đạo đức,nghệ thuật…cũng có những tác động đến cơ sở hạ tầng nhưng chúng chịu sự chi phối của nhà nước và pháp luật.Bởi Nhà nước là một thiết chế có vai trò đặc biệt quan trọng-tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định và đảm bảo vai trò thống trị của giai cấp thống trị trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội.Pháp luật là công cụ mà Nhà nước sử dụng để điều hành và quản lý mọi lĩnh vực của đời sống kinh tê-xã hội. Trong mỗi chế độ xã hội,sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng.Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dung,bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó,chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó.Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị-tư tưởng.Khi một cuộc cách mạng xã hội thành công nó sẽ thay thế giai cấp thống trị xã hội.Giai cấp thống trị mới thiết lập nên sự thống trị của hệ chính trị-tư tưởng của giai cấp đó.Từ đó,giai cấp thống trị nắm quyền điều hành và quản lý tất cả mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội,trở thành giai cấp thống trị cả về kinh tế. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng theo hai chiều.Một là,nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.Hai là,nếu kiến trúc thượng tầng tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó làm kìm hãm sự phát triểnkinh tế,kìm hãm sự phát triển xã hội.Ví dụ,sau khi Liên bang Xô Viết được thành lập,nhà nước Xô Viết phải đối mặt với nạn thù trong giặc ngoài trong khi đất nước đang chịu những tổn thất nặng nề sau cuộc nội chiến.Tình hình vô cùng khó khăn như “ngàn cân treo sợi tóc’’.Trước tình hình đó,Đảng Cộng sản Liên Xô đã họp và đưa ra “chính sách kinh tế cộng sản thời chiến”.Khi hòa bình lặp lại,Đảng Cộng sản Liên Xô thay “chính sách kinh tế cộng sản thời chiến” bằng “chính sách kinh tế mới” và đề ra một loạt các kế hoạch ngắn hạn,trung hạn,dài hạn nhằm phục hồi và phát triển nền kinh tế.Kết quả cho thấy nhờ có sự đánh giá đúng đắn tình hình khách quan và các quy luật kinh tế khách quan mà nền kinh tế Liên Xô không những phục hồi nhanh chóng mà còn phát triển mạnh mẽ vượt bậc đưa Liên Xô trở thành một cường quốc kinh tế trên thế giới.Nhưng cuối những năm 80 của thế kỉ XX,Đảng Cộng sản Liên Xô đã bộc lộ ngày càng nhiều sự chủ quan,quan liêu,chậm sửa chữa sai lầm và chậm đưa ra những chính sách đổi mới nền kinh tế cho phù hợp với những quy luật kinh tế khách quan trong thời kì mới.Mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ngày càng gay gắt và được đẩy lên cao.Chính điều đó đã kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội của Liên Xô,làm cho Liên Xô ngày càng lún sâu vào khủng hoảng và cuối cùng Liên bang Xô Viết tan rã năm 1991. Vai trò của chính trị với kinh tế thể hiện trong luận điểm của Lênin về "chính trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế" thể hiện: Một là, hệ thống các quan hệ kinh tế cũng như những quan hệ kinh tế cơ bản do chính trị thiết lập ra là cơ sở cho sự tồn tại ổn định, bền vững của chính trị. Hai là,thông qua tổ chức, chức năng và những năng lượng vật chất, tinh thần,chính trị nói chung và đặc biệt là nhà nước nói riêng có thể nhận thức vượt trước so với kinh tế. Ba là,chính trị có thể tạo ra những nhân tố, những hình thức, những điều kiện tác động vào kinh tế, định hướng phát triển kinh tế theo mục tiêu nhất định. Tác động ngược lại của chính trị, của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế là tuỳ thuộc vào sự nhận thức chủ quan và khả năng huy động các nguồn lực của chtrị trong quan hệ với yêu cầu phát triển kinh tế nếu tác động cùng chiều, đồng thuận thì sẽ làm cho kinh tế phát triển nhanh; nếu tác động đi ngược lại tất yếu phát triển kinh tế, thì chế độ chtrị có thể bị tan vỡ hoặc làm cản trở một vài xu hướng phát triển nào đó của nền ktế. Muốn cho kinh tế phát triển chính trị phải quán xuyến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó phản ánh, định hướng sự ptriển kinh tế vì thế Lênin khẳng định: nếu không có một đường lối chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ được sự thống trị chtrị của mình và do đó cũng không hoàn thành được nhiệm vụ kinh tế. Giai cấp công nhân không giành giữ được quyền lực khi không muốn xây dựng chế độ kinh tế vì nhân dân lao động; Bốn là,ưu tiên chính trị là vấn đề đặc biệt trong những thời kỳ đặc biệt, giai đoạn chiến tranh và cách mạng, những giai đoạn mà vấn đề giành, giữ chính quyền trở thành vấn đề cơ bản, hàng đầu. Tuy nhiên chủ nghĩa Mác-Lênin cũng nhấn mạnh, cho dù ở thời kỳ chiến tranh và cách mạng, vấn đề giành hay giữ chính quyền được đặt lên hàng đầu, thì cũng phải thấy rằng chính trị cũng chỉ là phương tiện đi đến mục tiêu kinh tế. Xét đến cùng: chính trị có vai trò bảo vệ, lãnh đạo kinh tế, là một nguồn lực của sự phát triển kinh tế, "bạo lực- nghĩa là quyền lực nhà nước-cũng là tiềm lực kinh tế". Vai trò của chính trị với kinh tế là vô cùng to lớn, chính trị nếu không vạch đường cho kinh tế-xã hội phát triển thì trước sau chính trị cũng sẽ sụp đổ. Mối quan hệ chính trị-kinh tế là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại, nhân quả và cần phải được xem xét, giải quyết phù hợp trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể.Xong cần khắc phục hai khuynh hướng: tuyệt đối hoá kinh tế hoặc tuyệt đối hoá chính trị sẽ dẫn đến khuynh hướng nền kinh tế phát triển tự do, tự phát vô chính phủ hoặc làm cho nền kinh tế phát triển theo hướng chủ quan, duy ý trí, đi ngược quy luật khách quan. Cả hai khuynh hướng đó đều là sự cản trở phát triển kinh tế-xã hội. Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.Xét đến cùng nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn,bằng cách này hay cách khác,kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ hơn để thúc đẩykinh tế tiếp tục phát triển. Phần III:Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam 1.Trước thời kỳ đổi mới: Chính trị hướng tới nền kinh tế duy nhất một thành phần dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, tiếp cận tới một hình thức sở hữu toàn dân, tiến tới không còn giai cấp dẫn đến hệ quả nhà nước toàn dân, Đảng toàn dân được đẩy lên rất nhanh, đốt cháy giai đoạn, bỏ qua các quy luật,xã hội chỉ có một quan hệ sản xuất là mục tiêu; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tách rời sự phát triển của lự lượng sản xuất.Không thừa nhận kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội, cho rằng kinh tế thị trường đối lập với kinh tế kế hoạch. Phương thức tác động của chính trị nặng về áp đặt, cưỡng chế, quân sự hoá. Ba đặc trưng này biểu hiện mối quan hệ chính trị-kinh tế trong thời kỳ chủ nghĩa xã hội thời chiến, nó phù hợp với một giai đoạn lịch sử cụ thể đặc biệt- kinh tế thị trường cho chính trị, nó không tạo ra động lực kinh tế. Sự lãnh đạo chính trị với kinh tế trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1954 dến nay qua 3 thời kỳ: Từ 1954 đến tháng 4/1975 nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước với hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước với khẩu hiệu " tất cả cho tiền tuyến lớn vì độc lập, thống nhất tổ quốc". Từ tháng 5/1975 đến trước Đại hội toàn quốc lần thứ VI (1986): Đất nước thống nhất, cả nước tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, Đảng nhà nước chủ trương đẩy nhanh tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội song do chủ quan, rập khuôn nên quá trình thực hiện dẫn đến nền kinh tế ngày một khó khăn, chính trị xã hội trở nên phức tạp, lòng tin của nhân dân bị giảm sút mặc dù có cải cách nhưng chưa đúng hướng. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay: Về đường lối lãnh đạo chính trị với kinh tế Đảng khẳng định: Một là, giữ vững ổn định là tiển đề, điều kiện của đổi mới ktế; Hai là,hát triển Ktế thị trường nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; Ba là, kết hợp đổi mới chtrị với đổi mới kinh tế làm trọng tâm. 2.Sau hơn 20 năm đổi mới: 2.1.Những thành tựu đã đạt được: Hơn 20 năm kiên trì đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta đã đạt được những thành tựu chtrị, kinh tế, xã hội to lớn và rất quan trọng, nền kinh tế tập thể hình thành và phát triển, tổng sản phẩm trong nước tăng gấp đôi so với năm 1990; năm 1995-2000 kinh tế tăng trưởng khá, GDP tăng 7%, Công nghiệp tăng 13,5%, nông nghiêp 4%, lương thực bình quân đầu người 350kg/người; mở rộng quan hệ đối ngoại, giao lưu chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới; vai trò uy tín chính trị của nước ta ngày một tăng trên trường quốc tế;nước ta đã tham gia tổ chức ASEM 1/1996,tham gia tổ chức APEC năm 1998 và ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO ngày 7/11/2006…;phát triển quan hệ ngoại giao với 169 quốc gia,quan hệ với 217 đảng phái chính trị trên thế giới,quan hệ thương mại với 165 quốc gia và vùng lãnh thổ,có 76 quốc gia đầu tư FDI và 51 quốc gia viện trợ vốn ODA với tổng số tiền 32,6 tỷ USD vào Việt Nam. Những bài học rút ra trong sự lãnh đạo chính trị thời kỳ đổi mới qua các Đại hội VI,VII,VIII vẫn còn giá trị, được Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn và phải luôn sáng tạo; phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới. ảnh: một cơ sở lắp ráp ô tô ở Việt Nam ảnh: Công trình xây dựng một nhà máy thủy điện ảnh:Khu đô thị mới Thủ Thiêm ảnh: Công trình xây dựng nhà máy thủy điện Đại Ninh ảnh: Cái bắt tay hữu nghị của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết với tổng thống Mỹ G.Bush thắt chặt thêm quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam-Hoa Kỳ. ảnh: Cuộc gặp thượng đỉnh Việt Nam-Nhật Bản đẩy mạnh quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước 2.2.Bên cạnh đó,kiến trúc thượng tầng nước ta còn bộc lộ nhiều bất cập: Một là,tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh,quan liêu lãng phí nghiêm trọng,tham nhũng là quốc nạn,cán bộ và công chức chưa ngang tầm với nhiệm vụ,một bộ phận cán bộ tha hóa biến chất hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và thực hiện chưa nghiêm.Từ năm 1990 đến 2004 xảy ra 9960 vụ tham nhũng,làm thiệt hại 7558 tỷ đồng;1 bộ trưởng,5 thứ trưởng,14 chủ tịch và phó chủ tịch,hàng trăm vụ trưởng và tổng giám đốc bị xử lý về tội tham nhũng.Ví dụ như vụ tham nhũng PMU 18 liên quan đến nhiều cán bộ cao cấp của Nhà nước,trong đó có cả bộ trưởng và thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải.Vụ tham nhũng của Mạc Kim Tôn-giám đốc Sở Giáo dục-Đào tạo tỉnh Thái Bình…và rất nhiều vụ tham nhũng khác. Hai là,sự lãnh đạo của Đảng chưa được tăng cường đúng mức. Ba là,ý thức chính trị giảm sút do tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường dẫn đến thiếu niềm tin vào sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,ý chí phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa giảm sút ở một bộ phận quần chúng nhân dân. Mâu thuẫn đó tạo điều kiện cho kẻ thù có cơ hội chống phá chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.Chúng đòi đa nguyên chính trị để giải quyết mâu thuẫn.Thực chất là muốn phá vỡ hệ thống chính trị và vai trò của Đảng.Chúng cho rằng tăng trưởng kinh tế dẫn đến phân hóa giàu nghèo,gây mâu thuẫn cho việc thực hiện công bằng xã hội.Chúng khẳng định rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội không thể là một,tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội không thể gắn liền.Thực chất chúng muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội và giữ lại kinh tế thị trtường tư bản chủ nghĩa. Tóm lại,mọi sự phát triển xã hội đều bắt nguồn từ kinh tế nhưng chính trị là yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế và bảo vệ kinh tế.Để phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta cần có lập trường chính trị vững vàng. 2.3.Do nhiều nguyên nhân,quan hệ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng bị tác động theo nhiều xu hướng khác nhau: Một là, kiến trúc thượng tầng sẽ từng bước phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng,đồng thời tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.Từ đó làm chp cơ sở hạ tầng phát triển mạnh mẽ đúng hướng.Đây là xu hướng tốt nhất. Hai là, kiến trúc thượng tầng biến đổi quá chậm so với cơ sở hạ tầng,làm cho cơ sở hạ tầng bị cản trở,phát triển khó khăn. Ba là, kiến trúc thượng tầng phát triển chệch hướng dẫn đến định hướng xã hội chủ nghĩa mờ nhạt dần và bị chuyển hóa. Nhiệm vụ đặt ra là phải tìm cách đổi mới kiến trúc thượng tầng chính trị cho phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần;làm cho chính trị vừa phản ánh được nhu cầu phát triển kinh tế,vừa định hướng cho sự phát triển kinh tế.Ăngghen chỉ rõ:’’Sau khi bạo lực chính trị đã trở thành độc lập,sau khi đã từ đầy tớ mà trở thành người chủ rồi thì nó có thể tác động theo hai chiều hướng.Hoặc nó tác động theo ý nghĩa và chiều hướng của sự phát triển kinh tế có tính chất quy luật.Như thế thì giữa bạo lực chính trị và phát triển kinh tế không có một sự xung đột nào và sự phát triển kinh tế được đẩy nhanh hơn.Hoặc nó chống lại sự phát triển kinh tế và khi đó trừ một vài ngoại lệ ra,thường thường nó chịu sức ép của sự phát triển kinh tế”.(Mac-Ăngghen tuyển tập,Tập 5,NXB Sự thật,HN 1983,trang 260).Trường hợp thứ hai,quyền lực chính trị gây lãng phí lớn về sức lực,vật liệu.Do đó củng cố kiến trúc thượng tầng chính trị là nhiệm vụ chiến lược.Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước,xây dựng một Nhà nước thực sự của dân,do dân,vì dân,có khả năng điều hành toàn bộ xã hội là nhiệm vụ cơ bản hiện nay. 2.4.Những yêu cầu tiếp tục sự hoàn thiện sự lãnh đạo chính trị với kinh tế ở nước ta: Một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong qúa trình phát triển kinh tế , sự lãnh đạo chính trị với kinh tế đòi hỏi phải quy định sự thống nhất lợi ích của công nhân với lợi ích của dân tộc, nhân dân. Phát triển kinh tế tập thể nhưng không được chệch hướng xã hội chủ nghĩa; Hai là, quán triệt quan điểm hiệu quả, phát triển, chính trị chỉ có thể thực hiện được những mục tiêu lợi ích của giai cấp, dân tộc, nhân dân trên cơ sở sự tác động chính trị phải làm tăng hiệu quả của tất cả các hoạt động kinh tế-xã hội; thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa, tăng trưởng kinh tế phát triển các yếu tố nuôi dưỡng tăng trưởng kinh tế; Ba là, tôn trọng yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan: kinh tế có những quy luật vận động khách quan. Nhưng các quy luật khách quan đó lại thông qua con người phụ thuộc vào con người mà phát huy tác dụng. Bí quyết thành công hay thất bại trong sự tác động của chính trị vào kinh tế, làm tăng hiệu quả kinh tế do đó lại tuỳ thuộc ở chỗ nhân tố chủ quan chính trị có đáp ứng được yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan hay không, có 2 khuynh hướng cản trở kinh tế phát triển: Thứ nhất là chính trị chủ quan duy ý trí lấy chính trị thay thế các quy luật khách quan (diễn ra ở mô hình xã hội chủ nghĩa cũ); Thứ hai là chính trị đứng ngoài kinh tế để mặc cho kinh tế tự vận động. Bốn là, chính trị phải phát huy được các nguồn lực, các động lực phát triển kinh tế. Để phát huy hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan chính trị cần huy động, phát huy các nguồn lực, nội lực và ngoại lực giải phóng lực lượng sản xuất. Năm là, chính trị phải kiểm soát những vấn đề then chốt của kinh tế như quản lý tài chính , ngân sách , xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng và các chính sách kinh tế. Cần phối hợp hoạt động giữa các nhà hoạt động chính trị với các nhà kinh doanh. Hiệu quả chính trị tuỳ thuộc vào tính nhạy bén của chính trị cũng như mối quan hệ qua lại như thế nào giữa những nhà hoạt động chính trị với các nhà kinh doanh, giữa việc hoạch định đường lối csách với hiệu lực hiệu quả của đường lối chính sách trong thực tiễn. Sáu là,quyền lực chính trị ở mỗi cấp lãnh đạo cần phải được tập trung, thống nhất, yêu cầu này nhằm đảm bảo tính nhất quán trong việc xây dựng đường lối, chính sách và các quyết định của chính trị với kinh tế. Nếu quyền lực bị phân tán người lãnh đạo dễ rơi vào tình trạng xem nhẹ lợi ích chung và chỉ lo duy trì củng cố địa vị quyền lực của mình, dẫn đến việc thực thi đường lối chính sách không triệt để, không nhất quán.Quyền lực lãnh đạo chính trị phải tập trung thống nhất là điều kiện cần thiết giúp người lãnh đạo toàn tâm toàn lực vào công việc chính trị của mình. Chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng với sự phát triển kinh tế. Song phát huy vai trò của chính trị với kinh tế để vừa đảm bảo các mục tiêu của chính trị, vừa phát triển được kinh tế thị trường lại là vấn đề vô cùng phức tạp. Tính phức tạp thể hiện ở chỗ luôn có sự đòi hỏi chính trị phải đáp ứng các yêu cầu của sự vận động kinh tế khách quan trong khi kinh tế luôn vận động biến đổi, đồng thời chínhtrị lại chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan.Mặt khác trong khi chính trị coi hướng tới mục tiêu lợi ích kinh tế nhất định là cái căn bản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35951.doc
Tài liệu liên quan