Tiểu luận Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta

Cần ý thức rằng định hướng XHCN đã chọn là một tất yếu,vì sự lựa chọn phù hợp với nội dung thời đại- “thời đại quá độ từ chủ nnghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.Đảng ta nhận định : “XHCNtrên thế giới,từ những bài học thành công thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnhcủa các dân tộc,có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử. Loài người sẽ nhất định tiến tới XHCN.”( Văn kiện Đại Hội Đảng IX ). Định hướng XHCN không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, nếu chúng ta đặt những tiền đề cho việc xây dựng CNXH ở nước ta theo tư duy mới, mở cửa về kinh tế với tất cả các nước trên thế giới, và nếu chúng ta xem xét các tiền đề kinh tế không dừng lại ở điểm xuất phát ban đầu mà xem xét những thành tịu đã đạt được sau hơn 15 năm đôỉ mới nền kinh tế

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2222 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a kết luận rằng: khi giải quyết các vấn đề riêng trong thực tế, cần phải đặt nền tảng trên những nguyên tắc chung. Nói cách khác không được lẩn tránhcác vấn đề chung khi bắt tay giải quyết các vấn đề riêng. Nừu không sẽ rơi vào tình trạng dò dẫm và vô nguyên tắc. 3.3/ Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hoá giữa cái riêng ( đơn nhất ) và cái chung. Việc tạo điều kiện cần thiết để nhanh chóng phổ biến những hiện tượng hợp quy luật, hoặc triệt tiêu những đièu kiện làm kéo dài những nhân tố không phù hợp, trì trệ có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Phần II: bước chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế thị trường 1/ kinh tế thị trường ( kttt ) Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển đồng nghĩa với phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ, phạm vi thị trường được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra mà còn bao gồm yếu tố đầu vào. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường ( KTTT ). 2/ điều kiện hình thành kimh tế thị trường Điều kiện cơ bản để hình thành KTTT là phải có một nền kinh tế hàng hoá phát triển cùng với sự xuất hiện của một số điều kiện sau: Một là, sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Hàng hoá sức lao động là loịa hàng hoá đặc biệt, khác hẳn so với hàng hoá thông thường bởi ngoài thời gian lao động cần thiết còn có thời gian lao động thặng dư. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng suất xã hội nâng cao thì sức lao động trở thành đối tượng của quan hệ mua bán, kéo theo sự ra đời thị trường sức lao động, và thị trường yếu tố sản xuất. Hai là, phải tích luỹ được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận. Ba là, phải có hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng tương đối phát triển đấp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh. Bốn là, phải có hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, đảm bảo cho lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, tăng phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi. Năm là, tăng cường vai trò kinh tế nhà nước nhằm tạo ra môi trường và hành lang pháp lí cho thị trường phát triển lành mạnh, mở rộng hình thức kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh, thực hiện chính sách phân phối và điều tiết trên cơ sở kết hợp nguyên tắc công bằng xã hội và hieẹu quả kinh tế, phát huy ưu thế và hạn chế những mặt tiêu cực của nền KTTT. Phần III: thị trường và cơ chế thị trường 1/ thị trường Có nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường tuy nhiên có thể hiểu theo nghĩa đầy đủ thì nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới, tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng lưu thông trên thị trường, hình thành các quan hệ hàng hoá-tiền tệ, cung-cầu, và giá cả hàng hoá. 2/ cơ chế thị trường Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền KTTT. Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế thị trường. Có thể xem xét một vài khái niệm sau: “Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ môi trường, động lực và quan hệ chi phối sự vận động của thị trường.” “Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chi phối ý chí và hành động của người sản xuất và người tiêu dùng,người bán và người mua thông qua thị trường và giá cả.” Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện: Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của hàng hoá, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thị trường.Ngoài giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của qui luật hàng hoá. Tính qui luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện: Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường và nghược lại.quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa người bán và người mua cũng như quan hệ của người sản xuất và người tiêu dùng.Trên cơ sở giá trị thị trường,giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua và bán.Giá cả thị trường điều hoà được quan hệ giữa người mua và người bán. Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, qui luật giá trị có tác dụng điều tiết sản suát và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Điều này tạo ra động lực kinh tế thúc đẩy người sản xuất hàng hoá khai thác ngững khả năng tiềm tàng,tranh thủ giá cao,mở rộng quan hệ sản xuất và ngược lại. Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mác, những nhà kinh doanh dưới CNTB “ Ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì thế giới tự nhiên chân không.” 2.1/ Ưu điểm của cơ chế thị trường: Một là, KTTT lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Động lực hoạt động. Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hoưn lao động chi phí xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kĩ thuạt công nghệ. Hai là, cơ chế thị trường có tinh năng động do trong kinh tế thị trường tôn tại môt nguyên tắc ai đưa ra thịo trương một loại hang hoá mới và đưa ra sơm nhất sẽ thu đươc nhiêu lợi nhuân nhất. Ba là :trong nền kinh tế thị trưòng,hàng hoá rất phong phú và đa dạng.Do vậy,nó có thể đáp ứng mọi nhu cầu ngưòi tiêu dùng. 2.2/ Những khuyết tật mà bản thân cơ chế thị trường không tự giải quyết được. Căn bệnh nổi bật gắn liền với sự hoạ động của cơ chế thị trường:khủngt hoảng kinh tees thất nghiệp,lạm phát,phân hoá giàu nghèo và ô nhiễm môi trường. Khủng hoảng”thừa là căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường phát triển.Do mức cung hàng hoá vượt quá sưc cầu nên dẫn tới tình trạng”dư thừa hàng hoá”.Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn độ mâu thuẫn với sức mua có hạn.Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Một khuyết tật khác của cơ chế thị truờng là gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn do chạy theo mục đích lợi nhuận. Tóm lại, cơ chế thị trường có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, chi phối sự vận động của KTTT nhưng các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình, cho nên sự vận động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột. Cạnh tranh khó tránh khỏi lừa gạt, phá sản và thất nghiệp…Vì vậy, cần có sự kiểm tra của xã hội, đó là lí do cần thiết lập vai trò quản lí của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế của nước ta là hướng tới sự ổn địnhvề kinh tế xã hội, sự công bằng và làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, phát triển với tốc độ cao. Phần IV: những đặc trưng chung của nền KTTT và tính định hướng XHCN của KTTT ở việt nam 1/ những đặc trưng chung của nền ktnh tế thị trường Do KTTT là sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá và mọi yếu tố của sản xuất đều được thị trường hoá nên KTTT có những đặc trưng chủ yếu sau: Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình, được tự do liên kết, tự do liên doanh theo luật định. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ năng động. Hai là, hàng hoá trên thị trường rất phong phú, phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, Sự phát triển của sản xuất và thị trường. Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Bốn là, cạnh tranh là một tất yếu của KTTT, có nhiều hình thức phong phú vì mục tiêu lợi nhuận. Năm là, kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. 2/ tính định hướnh xhcn của kinh tế thị trường ở việt nam 2.1/ Bản chất và nguyên tắc hình thành Để hiểu sâu hơn khái niệm KTTT định hướng XHCN, cần làm rõ bản chất và nguyên tắc hình thành Phương pháp luận tiếp cận bản chất và nguyên tắ hình thành KTTT định hướng XHCN ở nước ta đòi hỏi phải đặt nó trong sự kết hợp giữa cái chung( KTTT ) với cái đặc thù ( định hướng XHCN ). Xoay quanh phương pháp luận này, có ý kiến cho rằng KTTT với định hướng XHCN như “ nước với lửa” làm sao có thể kết hợp được với nhau? Thực tế KTTT không phải là cái riêng có của CNTB, mà là thành quả chung của văn minh nhân loại tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất xã hội khác nhau. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là thành tịu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng.”( Văn kiện Đại Hội VIII ) Bên cạnh những phạm trù kinh tế và quy luật kinh tế chung, KTTT còn có những đặc điểm riêng gắn với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, gắn với bản chất của chế độ xã hội trong đó nó tồn tại qua mỗi giai đoạn lịch sử. Đúng là KTTT đã đạt tới đỉnh cao dưới CNTB nhưng không vì thế mà đồng nhất KTTT là kinh tế TBCN. Hơn nữa xét về bản chất KTTT không chỉ hoàn toàn là tiêu cực như người ta lầm tưởng trước đây mà nó có những yếu tố tích cực không thể phủ nhận. KTTT tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, đẩy nhanh quá trình hoá sản xuất,làm thay đổi cung cầu theo hướng có lợi cho sản xuất và cải thiện đời sống.Cần ý thức rằng chỉ có KTTTtư bản chủ nghĩa và KTTTđịnh hướng xã hội chủ nghĩa mới khác nhau về mục đích,chế độ sở hữu,tính chất phân phối và tính chất của nhà nước trong quản lý KTTT.nếu giai cấp tư sản có thể lợi dụng được KTTT để phát triển chủ nghĩa tư bản,thì không có lý do gì lại cho rằng giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đang cộng sản không thể vận dụng được KTTT.Vì vậy ý kiến coi KTTT và đinh hướng XHCN ‘như nước với lửa’chỉ có giá trị như lời nhắc nhở,phải quan tâm giữ vững định hướng XHCNkhi phát triển KTTT,nó không có nghĩa coi chúnh hoàn toàn đôí lập với nhau…Trên tinh thần đó có thể thấy ‘phát triển KTTT định hướng XHCN,thực chất là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa phát huy đươc nhân tố động lực thúc đẩy sản xuất xã hội,vừa phát huy được nhân tố mơ đường,hướng dẫn và chế định sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu XHCN đã chọn’’ 2.2/ Định nghĩa về KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Từ phương pháp luận nêu trên có thể hiểu bản chất của KTTT định hướng XHCN là:Kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết hợp giữa cái chung là KTTT với cái đặc thù là định hướng XHCN,dựa trên nguyên tắc lấy cái đặc thù-định hướng XHCN-làm chủ đạo. 2.3/ Ba khía cạnh chủ yếu về bản chất của KTTT định hướng XHCN. Thứ nhất:với tư cách là cái chung-KTTT-đòi hỏi trong quá trình kết hợp phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố:a)Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế để nền kinh tế có thể có “tự do hoá kinh tế’’(tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ).b)các phạm trù kinh tế vốn có của KTTT như hàng hoá,tiền tệ thị trường cạnh tranh,cung cầu,giá trị thị trườngvà lợi nhuận.c)các quy luật kinh tế của KTTT (Quy luật giá trị,quy luật lưu thông tiền tệ,quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu).d)Cơ chế vận hành nền KTTT-cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thứ hai :với tư cách là cái đặc thù-định hướngXHCN-trong quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu,nguyên tắc và nhiệm vụ kinh tế cơ bảnhướngđến mục tiêu và các đặc trưng của CNXH mà nước ta cần xây dựng.Định hướngXHCN ở nước ta là một sự lựa chọn tất yếu một khái niệm khoa học.tuy vậy, vẫn còn một số cách hiểu khác nhauthậm chí không phải không có tư tưởng hoài nghivề tính hiện thực của định hướng XHCN mà Đảng,Nhà nướcvà nhân dân ta đã chọn. Cần ý thức rằng định hướng XHCN đã chọn là một tất yếu,vì sự lựa chọn phù hợp với nội dung thời đại- “thời đại quá độ từ chủ nnghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới’’.Đảng ta nhận định : “XHCNtrên thế giới,từ những bài học thành công thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnhcủa các dân tộc,có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử. Loài người sẽ nhất định tiến tới XHCN.”( Văn kiện Đại Hội Đảng IX ). Định hướng XHCN không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, nếu chúng ta đặt những tiền đề cho việc xây dựng CNXH ở nước ta theo tư duy mới, mở cửa về kinh tế với tất cả các nước trên thế giới, và nếu chúng ta xem xét các tiền đề kinh tế không dừng lại ở điểm xuất phát ban đầu mà xem xét những thành tịu đã đạt được sau hơn 15 năm đôỉ mới nền kinh tế. Thứ ba: Trong mối quan hệ giữa cái chung-KTTT với cái đặc thù- định hướng XHCN, không thể lấy KTTT làm chủ đạo. Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ kết hợp giữa cáo chung và cái đặc thù, vì chúng ta không chủ trương xây dựng mô hình KTTT bất kì, trừu tượng, càng không chủ trương xây dựng mô hình KTTT tư bản chủ nghĩa, mà chủ trương xây dựng KTTT định hướng XHCN, tất yếu phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Hơn nữa KTTT có nhiều yếu tố tích cực, song vẫn có một số tiêu cực nhất định, muốn phát huy yếu tố tích cực và hạn chế tiêu cực không thể không định hướng XHCN trong quá trình xây dựng và phát triển KTTT. Xa rời nguyên tắc này sẽ làm cho việc xây dựng KTTT dễ đi chệch hướng XHCN. Vì vậy lấy định hướng XHCN làm chủ đạo trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối lương tâm, trách nhiệm đối vớ các ngành, các cấp và các chủ doanh nghiệp trong việc ban hành và thực hiện các chủ trương, quyết định về sản xuất kinh doanh trong tiến trình xây dựng KTTT ở nước ta. 3/ các đăc điểm chủ yếu của KTTT định hướng xhcn Các đặc điểm chủ yếu của KTTT định hướng XHCN có quan hệ mật thiết với nhau được tiếp cận đi từ lực lượng sản xuất đến cơ sở kinh tế, chế độ phân phối, cơ chế vận hành, văn hoá và mở cửa. Thứ nhất: Lấy sự phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại làm cơ sở vật chất-kĩ thuật nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ hai: Lấy nền kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế làm cơ sơ kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước làm chủ đạo. Thứ ba: Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc phân phối theo kiểu CNXH với phân phối theo kiểu KTTT. Trong đó, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua phúc lợi tập thể và xã hội làm chủ đạo. Thứ tư: Lấy cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước làm cơ chế vận hành, nhưng không phải là Nhà nước tư sản mà Nhà nước XHCN-Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thứ năm: Kết hợp hài hoà văn hoá dân tộc truyền thống với văn hoá hiện đại có chọn lọc. Trong đó, lấy văn hoá dân tộc làm gốc. Thứ sáu: Không dựa trên cơ cấu kinh tế khép kín, mà dựa trên cơ cấu kinh tế mở cửa, chủ đọng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, song phải đảm bảo độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Cần nhận thức các đặc điểm nói trên ở trạng thái động và đang trong quá trình hình thành; đang phát triển đi từ thấp đến cao, từ chỗ chưa định hình đến định hình, gắn liền với giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá và sẽ định hình vào năm 2020 ở nước ta. 4/ nội dung định hướng xhcn 4.1/ Mục đích Mục đích của KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. 4.2/ Các nội dung định hướng chính Ngoài nhũng giá trị đặc trung chunh của nền KTTT, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta còn mang những đặc trưng riêng dựa trên nguyên tắc của bản chất của CNXH, dựa trên tính đặc thù về tình hình kinh tế- chính trị-xã hội Việt Nam. Tính đặc thù ấy thể hiện ở chỗ sự phát triển KTTT nước ta diễn ra với hai bước chuyển cơ bản: từ mô hình kinh tế chỉ huy sang nè KTTT và từ nền kinh tế tự nhiên của người tiểu nông sang KTTT. Từ thực tiễn hơn 15 năm xây dựng và phát triển KTTT, có thể rút ra nội dung định hướng XHCN đối với nền KTTT nước ta là: Thứ nhất, nền KTTT địnhnhướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế kết hợp hai mặt kinhtế- xã hội ngay trong từng bước phát triển. Trong nhiều đặc tính có thể làm tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền KTTT khác, phải nói đến mục tiêu kinh tế-xã hội mà Nhà nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động, phát triển của nền KTTT. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã quy định tính tất yếu khách quan phải định hướng XHCN cho nền KTTT ở nước ta.Đó chính là sự khác biệt rõ nét nhất giữa KTTT nước ta với các nước khác. Cái khác cơ bản của thị trường XHCN là thu hẹp dần sự phân biệt giàu nghèo. Công bằng về phân phối thu nhập đã tạo ra và là nguồn gốc của mọi công bằng khác như công bằng về chăm sóc về y tế, về học hành…Muốn vậy phải vận dụng các quy luật thị trường đẻ kiên trì thực hiện công bằng xã hội chứ không phải là những mệnh lệnh hành chính thay cho thị trường hay dùng một bộ máy phân phối thay cho thị trường, phải dùng luật pháp để cho quy luật phân phối theo lao động dần dần phát huy tác dụng ngày càng cao hơn kiểu tư bản. Để đạt tới công bằng trong phân phối thu nhập, chúng ta thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, hiệu suất công tác, phân phối theo mức góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó, hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đi dôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lí nhằm thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, vừa khuýen khích lao động vừa đảm bảo những phúc lợi xã hội cơ bản. Để phát triển trong công bằng, cần có nhìn nhận mới hơn đối với phạm trù lợi ích với tư cách là động lực cho phát triển, về mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và xã hội. Sự thiên lệch về một lợi ích nào đó cũng triệ tiêu động lực của sự phát triển. Cần có chính sáh tôn vinh những người tổ chúc sản xuất kinh doanh theo luạt pháp, tạo đưoực nhiều viẹc làm cho xã hội, dù ở thành phần kinhtế nào. Thứ hai, nền KTTT đinh hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nền KTTT định hướng XHCN nước ta lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch đinhj cơ cấu thành phàn kinh tế, hình thức sở hữu. Trong nền KTTT nước ta tồn tại ba laọi hình sở hữu cơ bản: sở hữ toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữ tư nhân. Từ ba loại hình sở hữ cơ babr đó hình thành nhiều thành phần kinhtế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế của chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinhtế thộc sở hữutư nhân để hình thành nền KTTT rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thuức hợp tácliên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng. Thứ ba, Nhà nước quản lý nền KTTT ở nước ta là nhà nước của dân do dân vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong nền KTTT hiện đại, nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế là xu hướn khách quan.Nhưng khác với bản chất của nhà nước tư sản, nhà nước ta là nhà nước của dân,do dân vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.Chính điều này làm cho mô hình kinh tế thị trườngcủa nước ta khác về bản chất với mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.Neenf kinh tế ấy đặt dưới sự lãnh đạo của Đảngr cộng sản,dưowis sự quản lý của nhà nước XHCNViệt Nam nhằm hạn chế,khắc phụcnhững thất bại của thị trường,thực hiện các mục tiêu xã hội,nhân đạo mà bản thân thị trường không làm được.Đảng cộng sản và nhà nước XHCNVNđã tìm ra mô hình kinh tế thị trường của riêng mình.Đây là một nội dung quan trọngkhông thể thiếu trong định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường. Thứ tư,sự vận hành của nền KTTT định hướng XHCN là sự kết hợp chặt chẽ giữa thị trường và kế hoạch. Trong nền KTTT định hướng XHCN,chúng ta sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất,phát huy tính năng động sáng tạo của người lao động,giải phóng sức sản xuất của mọi thành phàn kinh tế,thúc đẩy công nghiệp hoá,hiện đại hoá.Đồng thời chúng ta lãnh đạo,quản lý nền kinh tế phát triển đúng hướng đi lên CNXH để khắc phục thất bại của thị trường,thự hiện các mục tiêu xã hội,nhân đạo mà bản thân thị trường khong làm được. Trong quá trình phát triển KTTT bất cứ sự thiên lệch về cơ chế nào đều biểu hiện sự chệch hướng.Với sự song hành của hai cơ chế,mọi hoạt độnh của sản xuất kinh doanh phải được thông qua thị trường,chịu sự chi phối của các quy luật thị trường,song phải đặt dưới sự điều tiết của nhà nướcbằng kế hoạch và các công cụ quản lý vĩ mô khác.sức phá hoại dễ gây thương tổn của cạnh tranh va bất lực của cơ ché thị trường phải được bổ sung bằng kế hoạch và hoạt đọng kiểm soát,điềug khiển cân bằng kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Phần V: kinh tế thị trường theo định hướng xhcn ở việt nam 1/ thực trạng nền kinh tế việt nam khi chuyển sang kttt theo định hướng xhcn 1.1/ Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém. Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất xã hộichưa đủ để phát triển kinh tế trong nước và chưa có khả năng giao lưu với thị trường quốc tế. Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối kém hiệu quả. Từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế nhỏ nên đặc trưng nước ta là kinh tế nông nghiệp. Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Nền kinh tế hàng hoá nhièu thành phần ở nước ta đang được hình thành và phát triển. Chúng ta đã từng bước có thị trường hàng hoá nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường. Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động. Trong khu vực kinh té nhà nước vẫn còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế, chưa có thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Năng suất lao động xã hội còn thấp và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. 1.2/ ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế quan liêu bao cấp Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế XHCN cho nên trong nhiều thập kỉ qua ở nước ta đã tồn tại mmô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế quan liêu tập trung bao cấp. Thực tiễn hoạt đông kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm. Về quan hệ tổ chức hành chính, đó là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng lại được điều hành bởi nhiều đầu mối khác nhau. Kiểu quản lí như vậy mang tính chất phân tán. Về quan hệ kinhtế, cơ chế tập trung quan liêu thể hiện quan hệ giao nộp, thu mua, cấp phát. Hởu quả của nó hét sức nặng nề: + Làm mất sức mạnh của tổ chức kinh tế Nhà nước. + suy yếu tính sáng tạo, lãng phí gây thất thoát tài sản quốc gia. + Cản trở mục tiêu ổn định, cải thiện đời sống phát triển sản xuất. 2/ các biện pháp để thực hoá mô hình KTTT định hướng xhcn 2.1/ Tạo lập, duy trì và pháp triển tự do hoá kinh tế Đây là một điều kiện có tầm quan trọng đến sự hình thành, tồn tại và phát triển KTTT ở nước ta. Tự do hoá kinh tế là một điều kiện tất yếu để sản sinh và nuôi dưỡng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ, rất cần thiết cho các chủ doanh nghiệp với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ. Tương ứng với điều kiện này, các giải pháp cần có là: Tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nền kinhtế đa dạng hoá về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Có chính sách và cơ chế đủ sức xoá bỏ nhanh chóng sự kì thị và phân biệt đối xử, thực hiện khuyến khích đầu tư và tôn vinh vai trò của các doanh nhân trong tất cả các thành phần kinh tế. Trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao đông xã hội trong nước và quốc tế , tiếp tục xây dựng phát triển đồng bộ các loại thị trường. Cụ thể : + Phát triển đồng bộ giữa thị trương đầu ra ( thị trường hoá, dịch vụ ) với thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất. Chú trọng sự đồng bộ về chất lượng trong nội bộ của từng thị trường đầu ra và đầu vào của sản xuất, trong đó, lấy thị trường đầu ra để quyết điịnh thị trưưòng đầu vào. + Thực hiện đồng bộ giữa thị trường trong nước với thị trường ngoài nước, trong đó lấy thị trường trong nước làm cơ sở, thị trường ngoài nước là quan trọng. Coi trọng việc phát triển thị trường nông thôn ở nước ta, một thị trường rộng lớn với gần 80% dân cư sinh sống, nhưng sức mua hiện tại còn rất thấp, một cản trở đối với ngành công nghiệp và các ngành khác. Trong thời gian tới cần thông qua việc phát triển KTTT và đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn để tăng sức mua của thị trường này. Tạo dựng môi trường chính trị kinhtế, xã hội tương đối ổn định và thông thoáng để các chủ thể kinh tế trong nước và ngoài nước yên tâm, phấn khởi các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh. Môi trường chính trị tương đối ổn định bao gồm: a ) Đường lối chính trị đúng đắn và ổn định; b)Đất nước yên bình; c) Bộ máy chính phủ có uy tín đối với các chủ doanh nghiệp và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60101.doc
Tài liệu liên quan