Tiểu luận Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đan Mạch qua các thời kỳ

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 0

CHƯƠNG I 1

QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM - ĐAN MẠCH 1

TRƯỚC NĂM 1971 1

CHƯƠNG II 3

QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM ĐAN MẠCH 3

TRONG THỜI KỲ 1971 – 1980 3

CHƯƠNG III 5

QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ ĐAN MẠCH TỪ NĂM 1980 ĐẾN NAY 5

CHƯƠNG IV 7

TƯƠNG LAI TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA 7

VIỆT NAM - ĐAN MẠCH 7

KẾT LUẬN 9

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 10

MỤC LỤC 11

 

 

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2351 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đan Mạch qua các thời kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tuy là một quốc gia Bắc Âu nhưng vị thế của Đan Mạch trong Liên minh Châu Âu (EU- Eutopear Union) và trên trường quốc tế rất cao. Cùng với Thuỵ Điển và Phần Lan, Đan Mạch được coi là “mô hình xã hội dân chủ” của chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu và trên toàn thế giới. Điều đó xuất phát bởi bởi chính sách đối ngoại tích cự, độc lập; sự phát triển kinh tế-xã hội ổn định; đời sống của người ân ở mức cao (cả về vật chất lẫn tinh thần)… Đan Mạch là một trong số rất ít các quốc gia theo chế độ tư bản chủ nghĩa thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (năm 1973). Kể từ đó đến nay, quan hệ hợp tác giữa hai nước không ngừng được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực (Ngoại giao, kinh tế, văn hoá, giáo dục…). Đan Mạch có đóng góp rất nhiều cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong công cuộc tái thiết và phát triển đất nước sau năm 1975. Quan hệ mọi mặt tốt đẹp giữa hai nước trong thời gian qua chứng tỏ một điều: khoảng cách địa lý, sự khác biệt về chế độ chính trị không phải là vấn đề quá quan trọng trong quan hệ quốc tế. Trong mối quan hệ tốt đẹp này, đặc biệt nói lên là quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế, văn hoá, giáo dục… vẫn chưa xứng tầm. Hy vọng rằng, trên cơ sở quan hệ ngoại giao tốt đẹp, các mối quan hệ hợp tác về kinh tế, chính trị, văn hoá, chính trị sẽ không ngừng được cải thiện trong thời gian tới. CHƯƠNG I QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM - ĐAN MẠCH TRƯỚC NĂM 1971 Không phải người Đan Mạch mà những người Tây Ban Nha - Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan, Pháp mới là những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên mảnh đất châu Á. Họ nhìn châu Á với con mắt thèm thuồng và đã gây ra hàng loạt những cuộc chiến tranh để biến vùng đất màu mỡ này thành thuộc địa để khai thác, bóc lột. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Từ khi nổ tiếng súng đầu tiên ở Đà Nẵng (1858) đến Hiệp ước Patơrốt - Việt Nam đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Người Pháp đã “khai hoá” vùng đất An Nam này bằng rượu cần, thuốc phiện. Dưới “ánh sáng khai hoá” của thực dân Pháp, số người Việt Nam chết đói, chết bệnh và những tệ nạn xã hội không ngừng tăng lên hàng năm. Trong một thời gian dài, Việt Nam không có quan hệ ngoại giao với bất cứ quốc gia nào khác mà đơn thuần chỉ là một vùng đất thuộc địa của thực dân Pháp. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đặc biệt là sau chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, Việt Nam được biết đến nhiều hơn và thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều quốc gia. Đặc bệt là các lực lượng dân chủ, tiến bộ yêu chuộng hoà bình. Năm 1950, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Quốc (Quốc gia đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức Việt Nam). Sau đó là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đấu tranh trên mặt trận ngoại giao được chú ý đặc biệt trong việc thu hút sự ủng hộ mọi mặt của các quốc gia, các lực lượng dân chủ, tiến bộ yêu chuộng hoà bình. Trong thời gian này, nổ ra nhiều cuộc biểu tình ở các nước Châu Âu biểu thị sự ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Các cuộc biểu tình nổ ra ở Pháp (đặc biệt với vụ án Ray - Mông - Điêng), Thuỵ Điển, Hà Lan… Tuy nhiên, ở Đan Mạch trong thời gian này, hình ảnh về Việt Nam vẫn còn rất xa lạ. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước hoàn toàn chưa có dấu hiệu được thiết lập. Tuy nhiên, năm 1969, việc Việt Nam đã mở được “phòng thông tin” tại Thủ đô Co-pen-ha-ghen là một bước tiến lớn trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Thông qua “phòng thông tin” này, hình ảnh Việt Nam ngày càng trở lên gần gũi hơn đối với người dân Đan Mạch và nó cũng thể hiện sự ủng hộ của Đan Mạch đối với Việt Nam trong cuộc kháng chiến. Tuy nhiên quan hệ giữa hai nước vẫn chỉ dừng lại đó bởi lý do khác biệt về chế độ chính trị và đặc biệt là ảnh hưởng của Mỹ trong hệ thống các nước tư bản. Năm 1973, khi Hiệp định Pari được ký kết (28-1-1973), trên danh nghĩa Mỹ chính thức chấm dứt sự “dính líu” của mình vào Việt Nam. Một loạt các quốc gia tư bản chủ nghĩa tiến bộ thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam. Việc Đan Mạch chính thức thiêt lạp quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào năm 1971 đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác mọi mặt giữa hai nước. CHƯƠNG II QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM ĐAN MẠCH TRONG THỜI KỲ 1971 – 1980 ĐAn Mạch chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 25-11-1971(1) Nguồn: tang web: Mofa.gov.vn/vi/cn-vakv/euro/nr040819111225/nso6090715326 , có thể nói đây là một trong số ít các nước tư bản thiết lập quan hệ ngoại giao rất sớm với Việt Nam. Thời kỳ này quan hệ ngoại giao giữa hai nước chỉ dừng lại ở một chừng mực nhất định. Việt Nam cũng như Đan Mạch chưa đặt cơ quan ngoại giao chính thức (Đại sứ quán) trên lãnh thổ của nhau. Đại diện ngoại giao của Việt Nam trên lãnh thổ Đan Mạch là “phòng thông tin” ở Cô - pen-ha-ghen còn tại Hà Nội chưa có cơ quan ngoại giao nào của Đan Mạch. Trong thời gian này, do nguyên nhân chiến tranh nên hai bên chưa cử bất cứ đoàn ngoại giao nào cho các cuộc thăm viếng nhau. Chỉ sau khi chiến tranh kết thúc tại Miền Nam (1975), quan hệ ngoại giao giữa hai nước mới được đẩy mạnh. Tháng 3/1977, lần đầu tiên đoàn đại biểu của Bộ hợp tác phát triển Đan Mạch sang thăm Việt Nam. Chuyến thăm này có ý nghĩa rất quan trọng, đã mở ra một chương mới trong quan hệ hợp tác phát triển mọi mặt giữa hai nước. Để đáp lại, tháng 6 năm 1977, thủ tướng Phạm Văn Đồng có chuyến thăm hữu nghị chính thức Đan Mạch, qua chuyến thăm này, quan hệ giữa hai nước được thắt chặt hơn nữa. Trong khoảng thời gian từ năm 1971 đến 1986, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Đan Mạch mới chỉ dừng lại ở mức độ xã giao. Mặc dù đã có sự ủng hộ cả về vật chất lẫn tinh thần cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng do sự khác biệt về hệ tư tưởng và chế độ chính trị nên hầu như không có bước tiến đáng kể nào trong quan hệ ngoại giao hai nước. Khi chiến tranh kết thúc, song song với công cuộc tái thiết đất nước, Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ hợp tác phát triển với các quốc gia khác. Nhưng chủ yếu vẫn là Liên Xô, các nước Đông Âu và các nước xã hội chủ nghĩa khác trên thế giới. Ngoài ra, chúng ta không có sự hợp tác đáng kể nào trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá với các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là điều tất yếu trong cuộc đối đầu căng thẳng giữa hai khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong cuộc chiến tranh lạnh. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cuộc chiến tranh lạnh. Ngày 12-5-1980 đánh dấu một mốc quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước, Đan Mạch chính thức mở Đại sứ quan tại Hà Nội. Sau 9 năm kể từ khi chính thức quan hệ ngoại giao giữa hai nước được nâng lên tầm đại sứ. Thông qua cánh cửa Đan Mạch, chúng ta có cơ hội tiếp cận và hợp tác với Liên minh Châu Âu - đối tác chiến lược sau này của Việt Nam. CHƯƠNG III QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ ĐAN MẠCH TỪ NĂM 1980 ĐẾN NAY Mặc dù Đại sứ quán Đan Mạch đã được mở tại Hà Nội nhưng trong thời gian này, quan hệ hai nước vẫn bị “đóng băng”. Lý do là vấn đề Cam-pu-chia, cũng như nhiều quốc gia khác. ĐAn Mạch phản đối Việt Nam trong việc đưa quân vào Cam-pu-chia. Những bất đồng này đã dần được giải quyết khi Việt Nam rút quân khỏi Cam-pu-chia (9-1989). Để thắt chặt quan hệ giữa hai nước và giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng, tháng 7 năm 1972, Phó Thủ tướng Trần Đức Lương đã có chuyến thăm và làm việc tại Đan Mạch. Trong chuyến thăm này, chính phủ Đan Mạch tỏ rõ mong muốn tăng cường các mối quan hệ hợp tác về kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật… với Việt Nam: “Chuyến thăm đã được dư luận các nước hữu quan đánh giá là cần thiết, đúng lúc và đã đạt kết quả tốt” (1) Nguồn: Báo Nhân dân số 13703. 30/7/1992, tr 1 . Song tháng 8 năm 1973, đoàn đại biểu của Bộ Hợp tác phát triển Đan Mạch sang thăm Việt Nam, trong chuyến thăm này, họ đã tìm hiểu sâu hơn về cơ hộ đầu tư ở Việt Nam. Từ khi Luật đầu tư được thông qua (12-1987) Việt Nam đã dần trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư trên thế giới. Tuy nhiên, vì những khó khăn riêng mà đến tháng 3/1993, Đại sứ quán Đan Mạch tại Hà Nội đã bị đóng cửa. Quan hệ giữa hai nước bị gián đoạn trong thời gian hơn một năm. Đến ngày 1/4/1994, Đan đã mở lại Đại sứ quán ở Hà Nội và lập Tổng lãnh sự quán ại thành phố Hồ Chí Minh. Về phía mình, ngày 12/8/2000, Việt Nam đã mở Đại sứ quán tại thủ đô Co-pen-ha-ghen. Trong một thời gian dài có những trục rặc, quan hệ ngoại giao giữa hai nước đã được nối lại đằm thắm hơn. Hai bên liên tục có những chuyến thăm viếng lẫn nhau của các cơ quan, bộ ngành, nguyên thủ quốc gia. Trên cơ sở, quan hệ hợp tác mọi mặt mà nhất là về kinh tế được đẩy mạnh. Về phía Việt Nam là các chuyến thăm của thủ tướng Võ Văn Kiệt (3/1995), Thủ tướng Phan Văn Khải (từ 29/9 đên 1/10/1999), Bọ trường ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (11/2001), của chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu (10/2002)… về phía Đan Mạch, trong khoảng thời gian này, Bộ hợp tác phát triển đã 5 lần cửa các đoàn đại biểu sang thăm và tìm hiểu cơ hội đầu tư cũng như hợp tác với Việt Nam (8/1993; 5/1994; 3/1996; 1/1998; 11/1999); đoàn đại biểu của Bộ Tư pháp (1/2000), Bộ Ngoại giao (5/2002; 2/1999), Quốc hội (8/1993; 9/1995; 9/2003)… Thông qua các chuyến thăm này là hàng loạt các hiệp định hợp tác được ký kết: Hiệp định về những điều khoản và thủ tục chung cho sự hợp tác phát triển giữa Việt Nam - Đan Mạch (8/1993); Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (8/1993); Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và chống trốn lậu thuế (5/9995), Hiệp định hợp tác vận chuyển hàng không (9/1997). Hai bên đã tìm thấy lợi ích trong mối quan hệ tốt đẹp này, từ quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác mọi mặt đã và đang được đẩy mạnh. CHƯƠNG IV TƯƠNG LAI TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM - ĐAN MẠCH Kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (1973) đến nay, mặc dù đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng hai nước đã gạt bỏ những hiểu lầm để hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. vấn đề Cam-pu-chia dẫn đến việc nhiều nước phản đối dữ dội Việt Nam (trong đó có Đan Mạch) Đại sứ quán Đan Mạch tại Hà Nội và Tổng lãnh sự quán tại thành phố Hồ Chí Minh đều bị đóng cửa. Quan hệ giữa hai nước bị gián đoạn trong một thời gian dài, điều đó phản ánh sự thực tất yếu trong quan hệ quốc tế: giữa các quốc gia luôn tồn tại những quan điểm và những hành động khác nhau dẫn đến những sự hiểu lầm đáng tiếc. Trong thời gian này Việt Nam không có những hành động khôn khéo trong quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, hiểu lầm xuất phát phía Đan Mạch là tất yếu. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông vẫn còn hết sức nhạy cảm, liệu Việt Nam có để xảy ra sự kiện hiểu lầm đáng tiếc nào khong? Hơn nữa, có thể khẳng định tình hình trong nước vẫn còn tồn tại những vấn đề hết sức nhức nhối: tham nhũng (vụ PMU 18, vụ án về đất tại Đồ Sơn - Hải Phòng…), Thủ tục hành chính phức tạp, rườm rà gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư (trng đó có các nhà đầu tư đến từ Đan Mạch)… Quan hệ ngoại giao chính là chìa khoá cho quan hệ hợp tác, trao đổi về kinh tế, viện trợ, văn hoá… Nếu Việt Nam không nhanh chóng “làm sạch” chính mình, liệu những quan hệ tốt đẹp với các quốc gia khác có tồn lại mãi được không? Người Nhật Bản nghĩ gì sau vụ PMU 18? Người tiêu dùng châu Âu nghĩ gì sau hàng loạt những trường hợp phát hiện dư lượng kháng sinh quá lớn trên những con tôm xuất khẩu đến EU? Người Đan Mạch nghĩ gì khi những khoảng đầu tư vào Việt Nam không thu được lợi nhuận như mong muốn, họ sẽ tiếp tục viện trợ khi những khoản viện trợ của họ không được sử dụng hiệu quả? Nhiều câu hỏi được đặt ra để trả lời cho câu hỏ: tương lai? Không thể có tương lai tốt đẹp được nếu bản thân mỗi quốc gia không có sự cố gắng nhất định. Việc tổ chức thành công APEC 2006 tại Hà Nội cũng như hoàn tất việc gia nhập WTO khẳng định những nỗ lực của Việt Nam. Trong con mắt bạn bè quốc tế, uy tín của Việt Nam lên rất cao. Liên tục từ năm 2001 đến 2006, nền kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng từ 7 đến 8% (thường đứng thứ hai trên thế giới sau Trung Quốc). Đó là nững cơ sở vững chắc để khẳng định về tương lai tốt đẹp trong quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia. Tuy nhiên, mọi thứ đều là dự đoán, thế giới đang thay đổi từng ngày, từng giờ. Con đường trước măt luôn không bàng phảng. Trong quá khứ, hai nươc đã đi trên con đường đó và trong tương lai, có lẽ vẫn là con đường không hoàn toàn bằng phẳng đó. KẾT LUẬN Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề, các quốc gia nất là các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam) đều phải tăng cường quan hệ với các quốc gia khác trên mọi phạm vi, lĩnh vực nhằm mục đích cao nhất: vì sự phát triển mọi mặt của đất nước (về kinh tế, văn hoá, giáo dục…). Ngày nay, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, Mỹ cùng với Nhật Bản, EU đang là những đối tác quan trọng nhất của Việt Nam. Khi mà sự khác nhau về hệ tư tưởng và chế độ chính trị không còn là rào cản thì quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam với các quốc gia khác không ngừng được đẩy mạnh. Chính điều đó đã khiến Việt Nam có được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định trong một thời gian dài, đồng thời vì thế chính trị của Việt Nam trên rường quốc tế không ngừng được cải thiện. Với những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước” của Đảng và Nhà nước ta tỏ ra hết sức đúng đắn. Tin tưởng rằng, trên cơ sở vững chắc đó, chúng ta sẽ hướng tới một tương lai tốt đẹp đồng thời vượt qua những khó khăn đang tồn tại. Tất cả vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo Nhân dân Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu Báo Quốc tế Trang Web: MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQHT35t (5).doc