Tiểu luận Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản với công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta

 

Mục lục

A- LỜI NÓI ĐẦU

B- NỘI DUNG

* CHƯƠNG I:

Quan Điểm Của Triết Học Mác Về Quy Luật Quan Hệ Sản Xuất

Phù Hợp Với Trình Độ PhátTriển Của Lực lượng Sản Xuất

1.1.Lực lượng sản xuất .

1.2. Quan hệ sản xuất.

1.3. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.

1.3.1.Trình độ lực lượng sản xuất và tính chất của nó.

1.3.2.Lựclưọng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.

1.3.3.Quan hệ sản xuất tác động qua lại với lực lượng sản xuất.

1.3.4. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

* CHƯƠNG II

Quan Hệ Sản Xuất Phù Hợp Với Tính Chất Trình độ Phát Triển Của Lực Lượng Sản Với Công Cuộc Đổi Mới Kinh Tế ở Nước Ta

2.1.Nhìn lại những sai lầm của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất , trình độ của lực lượng sản xuất trước đại hội VI

2.2.Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lương sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2.3.Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2.3.1.Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay.

2.3.2.Những giải pháp phát triển lực lượng sản xuất

2.4.Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tính chất khách quan để xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần .

C- Kết Luận

 

 

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản với công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A _ Lời nói Đầu Từ đại hội của đảng lần VI đề ra chính sách về phát triển kinh tế mới , giờ đây với đường nối đúng đắn đó, đất nước chúng ta đã và đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”đã định hướng phát triển nhằm mục tiêu xây dựng đất nước ta thành một nước có nền công nghiệp hiện đại, có một cơ cấu thích hợp với cơ cấu kinh tế và phù hợp với lực lượng sản xuất. Vậy đây không phải ngẫu nhiên việc nguyên cứu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới CNXH mà chúng ta đang tiến hành hôm nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là phương tiện để nước ta đi tới mục tiêu phát triển CNXH. Do vậy một đất nước phát triển là được đánh giá từ trình độ của lực lượng sản xuất , và sự kết hợp hài hoà giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất , trong thời đại ngày nay trình độ khoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh mẽ song quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất vẫn là cơ sở chính cho sự phát triển của nó . B_ Nội Dung ChươngI Quan Điểm Của Triết Học Mác Về Quy Luật Quan Hệ Sản Xuất Phù Hợp Với Trình Độ PhátTriển Của Lực lượng Sản Xuất Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất riêng, đó là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất vật chất là sự thống nhất biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 1.1.Lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất là sự biểu hiện giữa con người với tự nhiên. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục thiên nhiên của con người trong giai đoạn nhất định và lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất. Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất , thói quen lao động sử dụng tư liệu để sản xuất tạo ra của cải vật chất .Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong tư liệu lao động có công cụ lao động và những tư liệu lao động khác. Ngoài công cụ lao động trong tư liệu sản xuất còn có đối tượng lao động, phương tiện sản xuất như :đường, xá, cầu cống... là yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất. 1.2. Quan hệ sản xuất. Mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, cũng như lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất xã hội . Tính chất quan hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan độc lập ý thức con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội . Mỗi quan hệ sản xuất biểu hiện cho bản chất của một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất gồm những mặt cơ bản sau: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất Quan hệ tổ chức quản lý Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Ba quan hệ nói trên có quan hệ sở hữu với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định với tất cả các quan hệ khác. Quan hệ sản xuất mang tính chất ổn định tương đối trong bản chất xã hội và tính phong phú đa dạng của các hình thức. 1.3 Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà còn tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người. Quy luật về quan hệ sản xuất với trình độ lực lượng sản xuất vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. 1.3.1 Trình độ lực lượng sản xuất và tính chất của nó. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu stản xuất của lao động. Nó thể hiện tính chất tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và lao động riêng lẻ. Còn trình độ lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động , kỹ thuật, kinh nghiệm và những kỹ năng của người lao động , và trình độ phân công lao động . Trình độ lực lượng sản xuất càng cao thì sự phân công càng tỉ mỉ, khi đó trình độ của phân công lao động càng thể hiện rõ dàng trình độ của lực lượng sản xuất 1.3.2 Lựclưọng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Xu hướng sản xuất vật chất là không ngừng phát triển ,sự biến đổi bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất lực lượng sản xuất trở thành yếu tố, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung là phương thức còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Do vậy cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển cuả lực lượng sản xuất, sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nhưng lực lượng sản xuất thường phát triển, phát triển nhanh còn quan hệ sản xuất có xu hướng ổn định khi lực lượng sản xuất đã phát triển nên một trình độ mới , thì khi đó quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển . 1.3.3.Quan hệ sản xuất tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Sự hình thành, biến đổi phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất , có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh, còn nếu nó không phù hợp thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, song tác dụng kìm hãm đó chỉ tạm thời theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất ( thúc đẩy hoặc kìm hãm) vì ở đây chúng có quan hệ mật thiết , chặt chẽ với nhau, cùng hỗ trợ lẫn nhau. Tuy nhiên không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của quan hệ sản xuất chỉ là vai trò cuả những hình thức sở hữu, mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt: Quan hệ sở hữu , quan hệ quản lý và quan hệ phân phối . Chỉ trong chỉnh thể đó quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. 1.3.4. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Khi trình độ lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính chất cá nhân. Nó thể hiện ở chỗ chỉ là một người có thể sử dụng được nhiều công cụ khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo sản phẩm. Như vậy tính tất yếu sẽ dẫn đến quan hệ sản xuất mới. Khi sản xuất bằng máy ra đời trình độ sản xuất phát triển thì con người áp dụng nó vào nhiều chức năng khác nhau, như vậy quá trình sản xuất phải có nhiều người tham gia, và khi ấy sản phẩm lao động là thành quả của nhiều người, vì vậy ở đây lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá. Ăng ghen viết “ Giai cấp tư sản không thể biến tư liệu sản xuất có tính hạn chế ấy thành lực lượng sản xuất mạnh mẽ được nếu không biến những tư liệu sản xuất của cải thành tư liệu sản xuất có tính chất xã hội mà chỉ một số người cùng làm mới có thể sử dụng được. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển >Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắp đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ. Như vậy quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất(ổn định tương đối ), quan hệ sản xuất trở thành xiềng sích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất ( không phù hợp ), phù hợp và không phù hợp là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , tức là phù hợp trong mâu thuẫn và bao trùm mâu thuẫn. Khi phù hợp cũng như không phù hợp với lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập với lực lượng sản xuất , nó quy định mục đích xã hội của sản xuất , từ đó hình thành những yếu tố hoặc thúc đẩy , hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế cơ bản phù hợp và không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là khách quan và phổ biến của phương thức sản xuất , nó sẽ không đúng trong chủ nghĩa tư bản (CNTB) luôn luôn diễn ra “Không phù hợp “, còn trong chủ nghĩa xã hội (CNXH) “Phù hợp “ quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất . CHƯƠNG II Quan Hệ Sản Xuất Phù Hợp Với Tính Chất Trình độ Phát Triển Của Lực Lượng Sản Với Công Cuộc Đổi Mới Kinh Tế ở Nước Ta Trong công cuộc đổi mới đất nước đẩy mạnh phát triển sản xuất , cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất nhất thiết phải gắn liền với việc nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2.1.Nhìn lại những sai lầm của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất , trình độ của lực lượng sản xuất trước đại hội VI Do nhận thức chưa đúng đắn về quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong công cuộc cải tạo quan hệ cũ và xây dựng quan hệ mới chúng ta đã ra sức vận động hay cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, để mở rộng quy mô nông trường, nhà may, xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ lực lượng sản xuất đang trong thời kỳ thấp kém chúng ta đã tạo ra những quy mô và ngộ nhận là có “ Quan hệ sản xuất XHCN” và còn nói rằng mỗi bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất có khả năng “Vượt trước ‘... “Mở đường” cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng thực tế ở những năm qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm, ở đây sai lầm không phải chúng ta duy trì quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển cuả lực lượng sản xuất mà có những mặt của quan hệ sản xuất bị đẩy lên cao . Quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách dời với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất . Như vậy nhận định trong đại hội VI là có căn cứ đã làm phong phú thêm lý luận biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ , có những yếu tố đi quá xa với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy thực trạng kinh tế ở nước ta với nền nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phải cải tạo xã hội chủ nghĩa phát triển công nghiệp quốc doanh công nghiệp nặng chỉ nên coi đó là mục đích lâu dài phải tiến tới chứ không coi như một tất yếu trực tiếp phải cải tạo ngay. Song chúng ta đã bắt chấp thực tế khách quan mà chỉ tin vào vai trò tích cực của nhân tố chính trị tưởng rằng có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng thực tế chúng ta không thể rút ngắn được ‘Những cơn đau của thời kỳ sinh đẻ ‘ dẫu sao cũng không thể nhẩy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng các sác lệnh để xoá bỏ các giai đoạn đó . 2.2.Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lương sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi nên con đường XHCN. Đảng đã rút ra những kinh nghiệm và xác định rằng một trong những nguyên nhân làm cho sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là “ Không lắm vững quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuât “. Từ đó đảng ta đã rút ra những cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu ra những vấn đề gắn quan hệ sản xuất với cách mạng khoa học kỹ thuật, để từ đó xác định nhận thức và những bước đi thích hợp. Và Đảng ta đã nhận thức rằng : sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi . Sự phù hợp đó không bao giờ là sự hoà hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc điểm nhất định với trình độ nào của lực lượng sản xuất .Trong thời kỳ quá độ nên XHCN nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản , nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới , đại hội lần VI của ban chấp hành trung ương Đảng đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt , xây dựng chế độ sở hữu , quản lý và chế độ phân phối, ở đây không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua hai chế độ kia , không nên quá đề cao nó và chỉ coi đó là cái quy luật để xây dựng quan hệ sản xuất mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước phải tuân thủ quy luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ lực lượng sản xuất, để từ đó có thể có những bước đi thích hợp. Qui luật đó luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo quan hệ sản xuất cũ , xây dựng quan hệ sản xuất mới trên những điều kiện phát triển lực lượng sản xuất .Đại hội VI đã chỉ rõ “ Đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo quan hệ sản xuất với tổ chức sản xuất “ , không nên nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi cũng như việc lựa chọn các hình thức kinh tế cần phải cải tạo .Tóm lại việc xây dựng hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN nhất thiết phải đảm bảo sự thích ứng toàn bộ giữa ba yếu tố của quan hệ sản xuất cung như mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 2.3.Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất. Do vậy trong quá trình xây dựng CNXH việc phát triển lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất mới là nhiệm vụ cần thiết. 2.3.1.Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay. Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong điều kiện kinh tế nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn chiếm tỷ trọng nhỏ . Theo số liệu thống kê ở việt nam lao động hoạt động chiếm 45% dân số, trong đó nông nghiệp chiếm 75% , công nghiệp chỉ chiếm 11% còn lại là các nghành dịch vụ khác. Chiến lược ổn định phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 đã đưa ra các thông tin dự báo về nguồn lực lao động , bước vào thập kỷ 90 nước ta có 65 triệu dân với 35 triệu người trong độ tuổi lao động . Đến năm 2000 nước ta có khoảng 85 triệu dân với 45 triệu lao động , và tình hình giáo dục nước ta còn nhiêu điều đáng lo ngại , số lượng học sinh bỏ học ngày càng tăng và tỷ lệ tái mù chữ ở miền núi, vùng sâu vùng xa diễn ra ngày càng phổ biến , chất lượng giáo dục không còn đảm bảo . Nếu như tỷ lệ giáo dục đại học ở một số nước Đông Nam A là khoảng 60-80 sinh viên /1000 dân còn ở nước ta thì khoảng chừng 25 sv/1000 dân trong khi đó lượng lao động có kỹ thuật lại đang thiếu trầm trọng, dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ 2.3.2.Những giải pháp phát triển lực lượng sản xuất Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đi nên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện khó khăn không có nguồn vốn, khả năng khoa học còn hạn chế do đó thì chúng ta không thể đổi mới ngay lực lượng sản xuất , vì vậy những yếu tố lực lượng sản xuất truyền thống vẫn cần phải được duy trì và khai thác. Trong hoàn cảch hiện nay lực lượng sản xuất bổ sung quan trọng đối với giai đoạn chuyển tiếp của lực lượng sản xuất đi cần phải sàng lọc trong lực lượng sản xuất truyền thống, những yếu tố nào có giá trị bổ sung cho việc xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại cần phải kết hợp các yếu tố truyền thống với những yếu tố hiện đại. Do vậy để tạo điều kiện để cho con người chủ động nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , điều chỉnh quan hệ sản xuất để thông qua đó phát triển lực lượng sản xuất đồng thời muốn tạo ra những động lực tích cực kích thích năng lực sáng tạo của người lao động , thì đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý phù hợp .Do vậy muốn giải phóng và phát huy triệt để nhân tố con người trong sản xuất trước hết phải có chiến lược về con người nhằm tạo ra những biến đổi tích cực về cơ cấu chất lượng. 2.4. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính chất khách quan để xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần . Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn là yêu câù đặt ra đối mọi chế độ xã hội. Đối với nước ta đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định “ Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp. Đại hội VI của đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần là đúng. Bởi vì nó biểu hiện sự lựa chọn những hình thức bước đi giải pháp thích hợp với những trạng thái kinh tế hiện nay. Bởi vậy thực tế mấy năm qua cho thấy chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất đưa đến những thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy Đại hội đảng VII khẳng định ‘ Tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dài chính sách này khuyến khích mọi doanh nhgiệp và cá nhân trong nước khai thác tiềm năng ra sức đầu tư phát triển.. . Trong khi thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần một mặt cần phải thoát ra khỏi sự trói buộc của tư duy cũ những nhận thức chưa đúng trước đây đôí với các thành phần kinh tế , không thấy hết được các vai trò tích cực của các thành phần kinh tế cá thể tư bản tư nhân, tư bản nhà nước trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa từ đó chủ động tháo gỡ những vướng mắc hoặc thiếu sự quản lý hướng dẫn các thành phần kinh tế này phát triển đúng hướng C- Kết Luận Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đây là quy luật phổ biến của mọi hình thức kinh tế vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất và sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động lại lực lượng sản xuất. Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển ,sự biến đổi phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết là công cụ lao động, công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất và đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay bằng quan hệ sản xuất mới. Lịch sử phát triển của xã hội loài nguời là lịch sử thay đổi các phương thức sản xuất, sự thay đổi đó bắt đầu từ sự thay đổi lực lượng sản xuất. Xã hội loài người trải qua 5 phương thức sản xuất ‘Cộng sản nguyên thuỷ ,chiếm hữu lô lệ xã hội phong kiến ,TBCN,XHCN’. Lực lượng sản xuất là nội dung ,là quá trình sản xuất quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất , hình thức của sản xuất cũng ổn định hơn song sự ổn định đó cũng chỉ là tạm thời và sớm muộn cũng phải thay đổi cho phù hợp. Quan hệ sản xuất, xuất phát từ lực lượng sản xuất nhưng khi ra đời nó có vai trò tác động trở lại tích cực . Mối quan hệ sản xuất phù hợp với chất lượng và trình độ của lực lượng sản xuất nó thúc đẩy sản suất phát triển nhanh, ngược lại nó cũng kìm hãm sự phát triển của sản xuất .Khi ra đời , quan hệ sản xuất quy định mục đích đúng hướng phát triển của sản xuất , quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội , quy định phương thức phân phối ít hay nhiều mà người lao động được hưởng Việc tìm ra những sự điều chỉnh thích ứng của CNTB về quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thúc đẩy tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ hơn. Mục lục A- Lời nói Đầu Nội Dung * Chương I: Quan Điểm Của Triết Học Mác Về Quy Luật Quan Hệ Sản Xuất Phù Hợp Với Trình Độ PhátTriển Của Lực lượng Sản Xuất 1.1.Lực lượng sản xuất . 1.2. Quan hệ sản xuất. 1.3. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. 1.3.1.Trình độ lực lượng sản xuất và tính chất của nó. 1.3.2.Lựclưọng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. 1.3.3.Quan hệ sản xuất tác động qua lại với lực lượng sản xuất. 1.3.4. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. * CHƯƠNG II Quan Hệ Sản Xuất Phù Hợp Với Tính Chất Trình độ Phát Triển Của Lực Lượng Sản Với Công Cuộc Đổi Mới Kinh Tế ở Nước Ta 2.1.Nhìn lại những sai lầm của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất , trình độ của lực lượng sản xuất trước đại hội VI 2.2.Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lương sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.3.Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.3.1.Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay. 2.3.2.Những giải pháp phát triển lực lượng sản xuất 2.4.Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Tính chất khách quan để xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần . C- Kết Luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60742.doc
Tài liệu liên quan