MỤC LỤC.
I/ PHẦN MỞ ĐẦU.
Lời mở đầu .3
Phạm vi nghiên cứu .4
II/ PHẦN NỘI DUNG.
Chương 1: Những vấn đề chung về thương mại quốc tế và tổng quan về hiệp
định thương mại Việt - Mỹ.
1.Những vấn đề chung về thương mại quốc tế .5
1.1.Khái niệm .5
1.2.Quá trình hình thành, phát triển và lợi ích của thương mại quốc tế 5
2.Tổng quan về hiệp định thương mại Việt – Mỹ .6
2.1.Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới .6
2.2.Lợi ích mà Việt Nam thu được trong quan hệ thương mại với Mỹ .7
2.3Lợi ích mà Mỹ thu được trong quan hệ thương mại với Việt Nam .8
2.4.Những nội dung chủ yếu của hiệp định thương mại Việt – Mỹ 9
2.4.1.Thương mại hàng hóa .11
2.4.2.Quyền sở hữu trí tuệ .12
2.4.3.Thương mại dịch vụ .13
2.4.4.Quan hệ đầu tư .16
Chương 2:Quan hệ thương mại Việt– Mỹ theo hiệp định thương mại Việt– Mỹ.
1.Quan hệ Việt – Mỹ trước khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam .17
2.Quan hệ Việt – Mỹ sau khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt – Nam .18
3.Quan hệ thương mại Việt – Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ 19
3.1.Đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa .18
3.2.Đối với lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ .23
3.3.Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ .24
3.4.Đối với lĩnh vực quan hệ đầu tư .26
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại Việt – Mỹ.
1.Các giải pháp từ phía nhà nước .28
2.Các giải pháp từ phía doanh nghiệp .31
Kết luận .36
Danh mục tài liệu tham khảo 37
Mục lục .38
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8121 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan hệ thương mại Việt – Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong chương 3 của Hiệp định. Chương này áp dụng cho các biện pháp của các bên có ảnh hưởng tới dịch vụ thương mại. Các cam kết chung bao gồm: Các quy định của khuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ (GATS) bao gồm Tối huệ quốc, Đãi ngộ quốc gia và Pháp luật quốc gia.Về các lĩnh vực và ngành cụ thể:
Các dịch vụ pháp lý: Các nhà dịch vụ Mỹ có thể cung cấp dịch vụ dưới hình thức chi nhánh, công ty 100% vốn Mỹ; các chi nhánh này nhận được giấy phép hoạt động là 5 năm và có thể được gia hạn mỗi lần không quá 5 năm. Các dịch vụ kế toán, kiểm toán: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ được hoạt động trong lĩnh vực này. Giấy phép được cấp trên cơ sở từng trường hợp, có hiệu lực trong 3 năm, không có giới hạn sau đó. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, không giới hạn sau đó.
Các dịch vụ kiến trúc: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ được phép kinh doanh. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó không hạn chế.
Các dịch vụ kỹ thuật: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó không giới hạn.
Các dịch vụ về vi tính và các dịch vụ liên quan: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ. Có thể cung cấp dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó không hạn chế.
Các dịch vụ quảng cáo: Chỉ các liên doanh với các đối tác Việt Nam mới được phép kinh doanh một cách hợp pháp các dịch vụ quảng cáo. Phần góp vốn của phía Mỹ không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này là 51% và 7 năm sau sẽ không hạn chế về tỷ lệ góp vốn từ phía Mỹ trong các liên doanh.
Các dịch vụ tư vấn quản lý: Chỉ thông qua các công ty liên doanh 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực được phép lập các công ty 100% vốn Mỹ.
Các dịch vụ viễn thông:
- Các dịch vụ viễn thông có giá trị gia tăng: liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 2 năm (3 năm đối với dịch vụ Internet), vốn của Mỹ không quá 50% vốn pháp định của liên doanh.
- Các dịch vụ viễn thông cơ bản (bao gồm mobile,cellular và vệ tinh): liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 4 năm, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
- Dịch vụ điện thoại cố định: liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 6 năm, vốn đóng góp của phía Mỹ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Phía Việt Nam có thể xem xét những yêu cầu tăng vốn đóng góp từ phía Mỹ khi Hiệp định này được xem xét lại sau 3 năm.
Các dịch vụ nghe nhìn: Bao gồm các dịch vụ sản xuất và phân phối phim, các dịch vụ chiếu phim. Liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ nghe nhìn, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49% và sau 5 năm hạn chế về vốn này sẽ là 51%.
Các dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 3 năm đầu tiên, sau đó không hạn chế.
Các dịch vụ phân phối ( bán buôn và bán lẻ): Được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49%. Sau 6 năm Hiệp định có hiệu lực hạn chế về vốn này sẽ được bãi bỏ.
Các dịch vụ giáo dục: Chỉ dưới các hình thức liên doanh, 7 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực sẽ được phép lập trường học với 100% vốn Mỹ.
Các dịch vụ tài chính:
- Các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và các bảo hiểm không bắt buộc: được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 50%. Sau 5 năm được phép 100% vốn Mỹ.
- Các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trong xây dựng...): được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, không giới hạn vốn đóng góp của phía Mỹ, sau 6 năm được phép 100% vốn Mỹ.
Các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính liên quan khác:
- Các nhà cung cấp, công ty thuê mua tài chính và ngoài ngân hàng: được phép thành lập công ty liên doanh trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, cho phép 100% vốn Mỹ.
- Ngân hàng: sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Mỹ được phép thành lập ngân hàng chi nhánh 100% vốn Mỹ tại Việt Nam .Trong thời gian 9 năm đó các ngân hàng Mỹ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần góp vốn của đối tác Mỹ không dưới 30% và không quá 49%.
- Các dịch vụ chứng khoán: các nhà kinh doanh chứng khoán Mỹ chỉ được lập văn phòng đại diện tại Việt Nam .
Các dịch vụ y tế: Được phép thành lập các cơ sở chữa bệnh 100% vốn Mỹ. Vốn đầu tư tối thiểu cho bệnh viện là 20 triệu USD, phòng khám đa khoa là 2 triệu và phòng khám chuyên khoa là 1 triệu USD.
Các dịch vụ du lịch và dịch vụ lữ hành liên quan:
- Các dịch vụ khách sạn và nhà hàng: các công ty cung cấp dịch vụ Mỹ cùng với việc đầu tư xây dựng khách sạn nhà hàng được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn Mỹ.
- Các dịch vụ đại lý và điều phối du lịch lữ hành: được phép lập liên doanh, phần góp vốn phía Mỹ không quá 49% và 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này là 51% và 5 năm sau hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
2.4.4. Quan hệ đầu tư.
Các cam kết chung bao gồm: Các hoạt động đầu tư của mỗi nước đều được nước đối tác cam kết bảo hộ, Việt Nam đảm bảo việc bảo hộ các công ty Mỹ không bị sung công các khoản đầu tư của họ tại Việt Nam.
Các chuyển khoản tài chính: Cho phép đối tác Mỹ được đem về nước các khoản lợi nhuận và các chuyển khoản tài chính khác trên cơ sở đãi ngộ quốc gia.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs): Phía Mỹ cam kết thực hiện ngay từ đầu, Việt Nam sẽ huỷ bỏ dần các TRIMs không phù hợp với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong 5 năm như những quy định về tỷ lệ số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước.
Đối xử quốc gia: Việt Nam cam kết thực hiện chế độ Đối xử quốc gia với một số ngoại lệ. Việc thẩm tra giám sát đầu tư sẽ được dần huỷ bỏ hoàn toàn đối với hầu hết các khu vực trong giai đoạn 2, 6 hoặc 9 năm (tuỳ thuộc vào loại khu vực đầu tư, ví dụ, đầu tư trong các Khu Công nghiệp hay trong khu vực sản xuất), tuy nhiên Việt Nam duy trì quyền áp dụng thẩm tra giám sát trong những khu vực ngoại lệ nhất định.
Loại bỏ việc giới hạn đóng góp vốn trong các liên doanh: Quy định hiện nay đối với phần góp vốn phía Mỹ trong các công ty liên doanh ít nhất phải 30% vốn pháp định; loại bỏ những quy định bán cổ phần phía Mỹ trong liên doanh cho đối tác Việt Nam. Phía Mỹ chưa được thành lập công ty cổ phần và chưa được phát hành cổ phiếu ra công chúng, chưa được mua quá 30% vốn của một công ty cổ phần. Những ràng buộc này sẽ duy trì trong vòng 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực.
Bộ máy nhân sự của liên doanh: Trong vòng 3 năm huỷ bỏ quy định về số thành viên nhất định người Việt Nam trong Ban giám đốc; giới hạn mạnh mẽ các vấn đề trong đó “sự nhất trí” của ban giám đốc phải đạt được (ví dụ, trong vấn đề đó các thành viên Việt Nam có quyền phủ quyết); cho phép các nhà đầu tư Mỹ được phép tuyển chọn nhân sự quản lý không phụ thuộc vào quốc tịch. Phía Việt Nam cũng cam kết ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực sẽ loại bỏ dần tất cả các đối xử không công bằng về giá đối với các công ty và các cá nhân Mỹ như phí lắp đặt điện thoại và các dịch vụ viễn thông khác, các phí vận tải, thuê mướn nhà xưởng, trang thiết bị, giá nước và dịch vụ du lịch. Trong vòng 2 năm sẽ bỏ chế độ hai giá đối với đăng ký ô tô, giá dịch vụ cảng và giá đăng ký điện thoại. Trong vòng 4 năm sẽ bỏ hẳn chế độ hai giá đối với mọi hàng hoá và dịch vụ kể cả giá điện hay vé máy bay.
Chương II: Quan hệ thương mại Việt – Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
1.Quan hệ Việt – Mỹ trước khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam.
Nhìn từ góc độ lịch sử, quan hệ thương mại Việt – Mỹ đã bắt đầu cách đây hơn 150 năm , với những thương vụ lẻ tẻ . Thậm chí ngay trong thời kì Hoa kì đơn phương áp đặt lệnh cấm vận đối với việt nam (Từ 5/ 64 – 2/94 ) thông qua con đường gián tiếp , Việt nam có thể xuất khẩu sang Mỹ tuy rằng không đáng kể. Thời kỳ 1986 – 1989 xuất khẩu của Việt nam sang Hoa kì gần như bằng không. Nhưng đến năm 1990, Việt nam xuất sang Hoa kì một lượng hàng trị giá khoảng 5000USD, năm 1991 tăng lên 9000USD, năm 1992 tăng lên 11000USD và năm 1993 là 58000USD.
2.Quan hệ Việt – Mỹ sau khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam.
- Ngày 3/2/1994 Tổng thống Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với việt nam. Tiếp đó Bộ thương mại Mỹ chuyển Việt nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Cuba) lên nhóm Y – là nhóm ít hạn chế về thương mại hơn (gồm Mông Cổ, Lào, Campuchia, Việt Nam, cùng một số nước Đông Âu và Liên Xô cũ). Bộ vân tải và Thương mại Mỹ cũng bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam được nhập cảnh Mỹ. Trong năm này thì Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ lượng hàng hoá trị giá 50,5 triệuUSD (Trong đó hàng nông nghiệp chiếm 38,3 triệu USD tức 76% giá trị suất khẩu sang hoa kỳ) và hàng phi nông nghiệp chiếm 12,15 triệu USD (24%).
- Ngày 11/7/1995 Hoa kỳ tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Năm 1995, Việt nam xuất khẩu sang hoa kỳ 200 triệu USD ( gấp 4 lần năm 1994 ) trong đó hàng nông nghiệp là 152USD ( chiềm 76% giá trị xuất khẩu sang Hoa kỳ ) hàng phi nông nghiệp chiếm 48 triệu USD(24%).
- Năm 1996 là năm hai nước bắt đầu quá trình đàm phán Hiệp định thương mại song phương. Xuất khẩu đạt 306 triệu USD trong năm này.
- Năm 1997, Đại sứ Mỹ và Đại sứ Việt Nam nhậm chức tại Thủ Đô mỗi nước, đồng thời hai nước thoả thuận thiết lập quan hệ song phương về bản quyền để tạo điều kiện cho sản phẩm trí tuệ có mặt tại thị trường Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam trong năm này sang Mỹ đạt 372 triệu USD. Hàng nông nghiệp chiếm 46% (106,5 triệu USD) hàng phi nông nghiệp đạt 54% (126,203triệu USD).
Năm 1998 và 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ tiếp tục tăng đạt 519,5 triệu USD và 601,9 triệu USD.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 827,4 triệu USD, tăng 37,4% so với năm 1999.
Riêng quý I năm 2001xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 74,4 triệu USD (so với 46,4 triệu USD cùng kỳ năm 2000).
3.Quan hệ thương mại Việt – Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
3.1.Trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.
Mỹ là nước lớn với dân số 271,8 triệu người và là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất. Thế giới xem Mỹ là thị trường khổng lồ vì có sức mua lớn khoảng 7.000 tỷ USD/năm. GDP năm 1999 của Mỹ là 9.256 tỷ USD (gấp 300 lần Việt Nam ).Trên thế giới có 100 tập đoàn kinh tế làm ăn có hiệu quả nhất thì có 61 tập đoàn là của Mỹ. Theo số liệu của Bộ Thương mại thì năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của Mỹ là 960 tỷ USD nhưng kim ngạch nhập khẩu của họ lên tới 1.230 tỷ USD, trong đó hàng dệt may khoảng 40 tỷ USD, hải sản 7,431 tỷ USD, cà phê 2,820 tỷ USD, dầu thô 35,192 tỷ USD và giày dép 13-14 tỷ USD. Mấy năm qua hàng Việt Nam vào Mỹ phần lớn phải chịu mức thuế cao tới 40% nhưng kim ngạch xuất khẩu của ta sang Mỹ vẫn tăng đáng kể. Theo số liệu của Hải quan Hoa Kỳ, năm 1994 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ ở mức 50,4 triệu USD nhưng đến 1996 đã lên đến 308 triệu USD và trong năm 1999 là 601,9 triệu USD, tăng gấp 12 lần, bình quân một năm tăng 64,2%, cao gấp gần 3 lần tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Có một số mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ đã đạt kim ngạch khá và tăng qua các năm như cà phê, giày dép, đồ thêu ren, rau quả, cao su...Việt Nam cũng xuất sang Mỹ dầu thô, hàng may mặc. thịt cá, hải sản tươi sống, sành sứ, gốm, đồ da, đồ bọc da, đồ gỗ gia dụng...Riêng mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, trong 6 tháng đầu năm 2000 đã đạt gần 123 triệu USD, gấp 2,1 lần cùng kỳ năm 1999 và chiếm 22% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của nước ta. Ngân hàng thế giới (WB) nhận định khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực thì kim ngạch xuất khẩu và nhóm hàng hoá như gạo, dệt may, cà phê, hải sản... xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ có thể tăng từ 600 triệu USD hiện nay lên 800 triệu USD/năm.
Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam đã tranh thủ xuất khẩu sang thị trường Mỹ những mặt hàng có thuế suất nhập khẩu bằng “0” như cà phê, tôm đông lạnh, quế và cao su tự nhiên ngày càng nhiều (trung bình tăng 10%). Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng này đạt gần 300 triệu USD. Những mặt hàng đang chịu mức thuế cao cũng được đưa nhanh vào thị trường Mỹ như giày dép năm 1995 mới xuất sang Mỹ được 7 triệu USD, đến năm 1996 lên đến 39 triệu USD, năm 1998: 111 triệu USD và hiện nay đã trở thành nước đứng thứ 12 trong số các nước xuất khẩu giày dép vào thị trường Mỹ; hàng dệt may xuất sang Mỹ cũng tăng khoảng 3- 4 lần, năm 1995 là 2,7 triệu USD, năm 1997 là 7 triệu USD và năm 1999 là 70 triệu USD...chắc chắn, khi Hiệp định thương mại có hiệu lực mức thuế các mặt hàng này sẽ giảm từ 1,5 đến 2 lần, hàng dệt may giảm từ 2,5 đến 10 lần, dầu mỏ giảm 4 lần, gạo giảm 3 lần. Các mặt hàng như dứa, mật ong của Việt Nam trước đây nhập vào Mỹ mức thuế thường cao gấp 10 lần so với các nước khác. Nhưng khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cũng như những Hiệp định liên quan khác có hiệu lực, tất cả các mặt hàng có thuế suất cao sẽ giảm xuống ngang bằng mức thuế suất các nước khác có quan hệ tối huệ quốc, sẽ thực sự là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá của mình sang Mỹ vì khi đó hàng Việt Nam vào Mỹ thuế trung bình sẽ giảm từ 40% xuống 3%. Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt- Mỹ tạo cơ hội cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ, đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, từ đó góp phần nâng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân xuất nhập khẩu trong quan hệ thương mại với Mỹ.
* Hàng nông sản:
Khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, ta sẽ thuận lợi hơn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. Mặt hàng rau tươi xuất sang Mỹ chênh lệch giữa có MFN và phi MFN là 10% và 50% nên khi có MFN, nước ta có thể xuất khẩu hàng chục triệu USD rau quả tươi sang Mỹ, nếu đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt của Mỹ (Thuế suất của rau quả giảm từ 22 cent/kg xuống còn 1cent/kg và quả tươi giảm từ 10cent/kg xuống 0,4cent/kg, chè xanh từ 20% xuống 7%). Hiện nay mỗi năm Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ 30 triệu USD hạt điều. Các chuyên gia Bộ Thương mại dự đoán kim ngạch xuất khẩu hạt điều có thể tăng lên gấp đôi (60 triệu USD) nếu các doanh nghiệp sản xuất và chế biến mặt hàng này đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng. Nước ta mỗi năm xuất sang Mỹ trên 100 triệu USD cà phê. Các nhà xuất khẩu cà phê Việt Nam đã có kinh nghiệm trụ ở thị trường Mỹ nên khả năng xuất khẩu mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.
* Hàng dệt may:
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ vừa được ký kết đã mở ra nhiều triển vọng mới cho ngành dệt may trong thời gian tới bởi Mỹ luôn đứng đầu các nước trên thế giới về nhập khẩu hàng dệt may. Theo tình hình hiện nay, sau khi Việt Nam được hưởng Quan hệ Thương mại bình thường, Việt Nam có thể xuất khẩu vào Mỹ với kim ngạch xấp xỉ 1 tỷ USD ngay từ năm đầu tiên nếu chuẩn bị tốt các điều kiện. Khả năng gia tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào Mỹ có nhiều triển vọng do giá lao động thấp, các công ty Mỹ sẽ tìm kiếm nguồn hàng giá thành rẻ với số lượng lớn tiêu thụ ở Mỹ. Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam với chất lượng cao và chủng loại phong phú đã được các thị trường khó tính Nhật và EU chấp nhận sẽ dễ dàng chinh phục khách hàng Mỹ nhất là khi thuế quan bị cắt giảm bởi quy chế TNTR. Tuy nhiên, theo Bộ Thương mại, hàng dệt may là mặt hàng được bảo hộ cao bằng hàng rào thuế quan và hạn ngạch, trong quan hệ song phương sẽ là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất. Nếu mở được thị trường này, hàng dệt may của Việt Nam theo khả năng sản xuất có thể thu hút được các nước khác đầu tư vào Việt Nam làm hàng xuất khẩu đi Mỹ.
* Hàng giày dép:
Mức tiêu thụ giày dép của Mỹ rất lớn, chỉ cần giành được 10% thị trường này cũng có thể đạt kim ngạch trên 1,5 tỷ USD, lớn hơn tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép mà Việt Nam có thể đạt được trong năm nay. Bà Châu Huệ Cẩm, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhận định với thị trường Mỹ, hàng da giày của Việt Nam có thể tham gia vào thị trường “thượng lưu” nếu đi kèm với mác của các hãng nổi tiếng như Adidas, Reebok. Còn với phân khúc thị trường “hạ lưu” thì phải cạnh tranh với hàng của Trung Quốc. Tuy vậy, thị trường Mỹ cũng không khó tính, nếu đã vào được thì khả năng trụ lại là không quá khó khăn. Nhận xét về khả năng tăng tốc của ngành Da Giày Việt Nam , một chuyên gia của Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Thương mại) khẳng định, với Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, thuế suất thuế nhập khẩu từ mức 35% trước đây sẽ chỉ còn 20% đối với mặt hàng giày dép của Việt Nam sang Mỹ.
Trước thời điểm Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, sản phẩm giày dép Việt Nam xuất khẩu tới hơn 40 nước, trong đó thị trường chủ yếu là các nuớc EU, Mỹ, Nhật. Việt Nam được đánh giá là một trong 5 nước có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở EU, do lợi thế giá rẻ, chất lượng và mẫu mã chấp nhận được với loại sản phẩm chủ yếu là giày thể thao.
* Hàng thuỷ - hải sản:
Mỹ là nước nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản Các loại thuỷ sản nhập khẩu nhiều là: Tôm, tôm hùm, sò, cua , trong đó tôm có giá trị lớn nhất (trên 2 tỷ USD/năm ).Năm 1992 Mỹ nhập 4,8 tỷ USD thuỷ sản các loại. Năm 1998 con số này đã tăng lên 6,7 tỷ USD tăng 40% so với năm 1992. Năm 1999 nhập khẩu thuỷ sản vào Mỹ tăng lên mức kỷ lục 9,3 tỷ USD. Việt Nam bắt đầu xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ năm1994, nhưng với kim ngạch rất nhỏ bé là 6 triệu USD. Tuy nhiên, đây là mặt hàng có tốc độ xuất khẩu tăng nhanh nhất trong các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ bởi vì Việt Nam chưa được hưởng chế độ MFN của Mỹ nhưng mức chênh lệch giữa mức thuế phi MFN và mức MFN là không lớn lắm. Nếu giá trị xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản sang Mỹ năm 1995 mới là 16,8 triệu USD thì năm 1996 đã tăng lên 28,5 triệu USD vào năm 1997 là 46,3 triệu USD. Giá trị xuất khẩu năm 1998 là 80,6 triệu USD tăng 89% so với năm 1997. Trong giai đoạn 1995-1999 kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Mỹ tăng 6,5lần , từ 16,8 triệu USD lên 108,1 triệu USD. Năm 2000 mặt hàng này vẫn dữ vị trí hàng đầu trong danh sách hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ với kim ngạch 242,9 triệu USD chiếm 29,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ .
Trong các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ thì tôm và cua vẫn là các mặt hàng chủ lực đặc biệt là tôm. Năm 1997 Việt Nam xuất khẩu được 3074 tấn tôm trị giá 31,32 triệu USD chiếm 73,69% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ. Năm 1998 trị giá này lên tới 66,89 triệu USD tương đương 6125,7 tấn, nâng tỷ trọng tôm lên 83% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ trong năm.
Năm 1999 tỷ trọng trên vẫn được giữ vững với 9100 tấn tôm, trị giá 96,5 triệu USD.
Như vậy tuy đến với thị truờng Mỹ hơi muộn nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản không ngừng tăng trong mấy năm qua. Theo FAO: Năm 1998 Việt Nam đứng thứ 10 trong 130 nước xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ và tới tháng 4 năm 2000 Việt Nam đứng ở vị trí thứ 8.
3.2.Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Hai bên cam kết bảo hộ quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, mạch tích hợp, kiểu dáng công nghiệp... kèm theo chế tài. Các cam kết dựa trên 3 nguyên tắc:
- Một là: không vượt quá quy định của WTO
- Hai là: không vượt quá phổ biến của các nước khác trong hiệp định song phương mà Hoa kỳ đã ký với các nước đó;
- Ba là: thể hiện được điều kiện cụ thể của các bên ký kết.
Tuy nhiên lĩnh vực này còn mới mẻ đối với VN nên HĐ cho phép VN chuẩn bị các điều kiện thực hiện với thời hạn ngắn nhất là 12 tháng và dài nhất là 30 tháng kể từ khi HĐ có hiệu lực.
Vì vậy, "Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một yếu tố then chốt với tư cách thành viên WTO và là lĩnh vực quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp Mỹ", đối với Việt Nam đây có thể là một thách thức nhưng nếu thành công trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thì sẽ rất có lợi trong mối quan hệ kinh tế song phương Việt Mỹ.
Sở hữu trí tuệ là một trong ba vấn đề trụ cột của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bên cạnh thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ, được điều chỉnh bởi Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT (TRIPS). Các quy định của TRIPS về cơ bản giống với các quy định của hiệp định song phương giữa VIệt Nam và Hoa Kỳ được ký và tháng 12.2001 (HĐTM Việt - Mỹ).
Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định song phương liên quan đến quyền tác giả như: Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả Việt Nam – Hoa Kỳ năm 1997); Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (năm 2000). Theo cam kết tại các Hiệp định song phương với Hoa Kỳ, và một số tổ chức khác, Việt Nam đã gia nhập Công ước Giơ-ne-vơ, Công ước Brúc-xen và tuân thủ các quy định của Hiệp định TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ).
Hiện nay, về vấn đề sở hữu trí tuệ, đã xảy ra một số bất cập như nạn sao chép tác phẩm, vi phạm nhãn hiệu hang hóa gây ra nhiều thiệt hại. các bản ghi âm ghi hình, chương trình máy tính có giá trị chung bị sao chép lậu, các nhãn hiệu nổi tiếng bị làm nhái, làm giả . môi trường kĩ thuật số nói chung, môi trường kĩ thuật số nói riêng đã bị khai thác với động cơ vụ lợi xâm phạm quyền tác giả nghiêm trọng đối với các loại hình văn học nghệ thuật và khoa học. Một số vụ đã được các tổ chức quốc tế, các quốc gia và doanh nghiệp xử lý chặt chẽ. Vì thế, Việt Nam đã có những sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu trí tuệ để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp ở Mỹ có thể tiếp cận được hệ thống pháp luật hoàn thiện, hiện đại, phù hợp với thực tiễn. từ đó thúc đẩy mối quan hệ song phương giữa Mỹ và Việt Nam.
3.3.Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
- lĩnh vực pháp lý: Xét ở góc độ kinh tế thì dịch vụ pháp lý cũng có thể được xem như một ngành dịch vụ thương mại đặc biệt. Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ cũng xếp đây là một loại hình dịch vụ thương mại mà Việt Nam sẽ mở cửa theo lộ trình cho các nhà đầu tư Mỹ. Thật dễ hiểu khi một loạt các hãng luật nước ngoài đã có mặt ở Việt Nam từ rất sớm kể từ sau chính sách mở cửa như Baker & McKenzie (Mỹ), PricewaterhouseCoopers Legal (Mỹ), Vovan & Associés (Pháp), Russin & Vecchi (Mỹ), Lucy Wayne & Associates (Anh), Clifford Chance (Anh)… Song song đó, số lượng các văn phòng luật sư và các hãng luật trong nước cũng vùn vụt tăng. Một số công ty luật Việt Nam như VILAF-Hồng Đức, YKVN, Investconsult, Thang & Associates, Vision & Associates… đã bắt đầu được mời tham gia tư vấn trong các dự án kinh tế lớn, các hợp đồng trị giá hàng chục, hàng trăm triệu đô la Mỹ hoặc được thuê tham gia tư vấn, giải quyết trong các vụ tranh chấp thương mại quốc tế mà điển hình là các vụ kiện chống bán phá giá gần đây ở Mỹ. Điều quan trọng nữa là các luật sư không chỉ cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng mà thông qua dịch vụ ấy còn góp phần quảng bá chính sách pháp luật và nhờ vậy một cách gián tiếp họ đã góp phần vào việc thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. So với nhiều ngành nghề khác, chi phí đầu tư cho dịch vụ pháp lý hầu như không tốn kém. Thậm chí, cơ sở vật chất của nhiều văn phòng luật sư hiện nay không bằng một thẩm mỹ viện. Vì vậy, với những lợi ích to lớn do dịch vụ này mang lại thì rõ ràng đây là một ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao.
- Lĩnh vực tài chính: Mới đây ngân hàng Welsfago của Mỹ, có trụ sở chính ở San Francisco, đã hợp tác với Ngân hàng Công Thương Việt Nam (IncomBank) để cung cấp dịch vụ chuyển tiền giữa Mỹ và Việt Nam. Ông D.Elar, Phó Giám đốc đặc trách chuyển tiền toàn cầu của Ngân hàng Welsfago, cho biết mức lệ phí chuyển tiền giữa Welsfago và Ngân hàng Công Thương Việt Nam dự kiến là 8 USD/1.000 USD tiền chuyển. Về thủ tục đối với khách hàng ở Mỹ, người muốn gửi tiền có thể đến 1 trong 3.000 địa điểm giao dịch của Welsfago trên khắp nước Mỹ để mở một tài khoản chuyển tiền quốc tế về Việt Nam. Một khi khách hàng đã ký thác một số tiền vào tài khoản này thì trong vòng 24 giờ đồng hồ, người nhận tiền bên Việt Nam có thể đến Ngân hàng Công Thương để nhận tiền bằng đồng USD. Theo thống kê, trong năm 2006, cộng đồng người Mỹ gốc châu Á gửi về quê hương khoảng 80 tỷ USD để sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Trong số tiền này, người Mỹ gốc Trung Quốc, Philippines và Việt Nam chiếm khoảng 30%.
- Lĩnh vực giáo dục: Về giáo dục, hiện Chính phủ Việt Nam đang chủ trương nâng cấp các trường đại học Việt Nam cả về tổ chức và chất lượng. Việt Nam đã hợp tác hết sức chặt chẽ với Mỹ trong lĩnh vực này và Mỹ cũng sẵn sàng hỗ trợ để xây dựng các trường đại học của Mỹ ở Việt Nam hoặc các trường đại học Việt-Mỹ trên đất Việt Nam.
- Ngoài ra các lĩnh vực dịch vụ khác như du lịch, quảng cáo, truyền thông,… giữa hai nước cũng đang phát triển khá mạnh mẽ và đạt được những thành tựu đáng kể trong thời gian gần đây điều này hứa hẹn tiềm năng cho một sự phát triển lên một tầm cao mới cho quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong thời gian xắp tới.
- Về phương hướng phát triển của quan hệ Việt-Mỹ trong năm 2010, Đại sứ Lê Công Phụng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quan hệ thương mại việt – mỹ theo hiệp định thương mại việt – mỹ.doc