Tiểu luận Quản lý hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa

TT Tên đề mục Trang

1 Lời nói đầu 1

2 Phần thứ nhất - Mở đầu 3

3 I/Lý do chọn đề tài. 3

4 II/ Mục đích, yêu cầu của đề tài. 4

5 III/ Khách thể, đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đối tượng khảo sát. 5

6 IV/ Nhiệm vụ, phạm vi và thời gian thực hiện của đề tài 5

7 V/ Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài 6

8 Phần thứ hai - Nội dung đề tài 6

9 Chương I – Cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của đề tài 6

10 A. Cơ sở khoa học 6

11 I/ Kinh nghiệm là gì? 6

12 II/ Quản lý và quản lý giáo dục là gì? 7

13 III/ Khái niệm về hoạt động dạy- học 7

14 B. Cơ sở thực tiễn 9

15 I/ Các bộ môn văn hoá cung cấp gì 9

16 II/ Đặc điểm các loại bài học 10

17 Chương II – Thực trạng dạy và học ở trường THCS Phong Khê thành phố Bắc Ninh giai đoạn 1997-2003 11

18 I/ Chất lượng đội ngũ 11

19 II/ Chất lượng học sinh 13

20 Chương III- Kinh nghiệm quản lý hoạt động dạy - học các bộ môn văn hoá 14

21 I/ Quản lý nội dung, chương trình 14

22 II/ Những biện pháp, giải pháp, kinh nghiệm thực hiện nội dung chương trình 15

23 III/ Quản lý thời khoá biểu 16

24 IV/ Quản lý các điều kiện cho dạy và học 16

25 V/ Một số kết quả giai đoạn 2003 -2008 18

26 Phần thứ ba - Kết luận 20

27 I/ Kết luận 20

28 II/ Hiệu quả kinh tế - xã hội 20

28 III/ Những khuyến nghị 21

30 Tài liệu tham khảo 24

31 Mục lục 25

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5492 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quản lý hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luật của đối tượng nghiên cứu. c. Đề xuất giải pháp, ứng dụng cải tạo. 2. Phạm vi và thời gian thực hiện của đề tài - Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là lĩnh vực quản lý giáo dục. - Về thời gian nghiên cứu từ năm học 1997-1998 đến năm học 2007-2008. - Về không gian nghiên cứu hoạt động của trường thcs Phong Khê. - Những mặt nghiên cứu chủ yếu hoạt động dạy và học nói chung, quản lý dạy và học ở trường thcs Phong Khê nói riêng. - Những chỉ số cần điều tra nghiên cứu và phát hiện của 10 năm học. V- đóNG GóP MớI Về MặT KHOA HọC CủA Đề TàI: 1. Nêu được cơ sở lý luận của hoạt động dạy và học. 2. Nhận xét đánh giá hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa trong giai đoạn đề cập. 3. Nêu được những kinh nghiệm quản lý trong hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa. Phần thứ hai Nội dung đề tài Chương I CƠ Sở KHOA HọC, CƠ Sở THựC TIễN CủA Đề TàI A. Cơ sở khoa học (Xây dựng cơ sở lý thuyết, một số khái niệm liên quan đến kinh nghiệm quản lý “Hoạt động dạy và học các bộ môn văn hoá”) I/ kinh nghiệm là gì? Kinh nghiệm là những điều đúc kết được, rút ra từ quá trình thực hiện nhiệm vụ, quản lý, chỉ đạo thực hiện mục tiêu giáo dục. Kinh nghiệm được sử dụng làm cơ sở và điều kiện để cán bộ quản lý quan tâm, vận dụng, rút ra bài học cần thiết phù hợp, khái quát nâng dần thành lý luận. Tuy nhiên kinh nghiệm chỉ đúng trong một thời gian, không gian, điều kiện nhất định, hoàn cảnh nhất định không mang tính vĩnh hằng, cố định, bất biến. Mà tới một thời gian không gian khác, điều kiện hoàn cảnh khác thì kinh nghiệm đó ít, hoặc không có giá trị, vận dụng liên hệ. II/ Quản lý và quản lý giáo dục là gì? 1- Quản lý: Khái niệm quản lý đã được rất nhiều nhà quản lý và thực hành quản lý nêu ra, cho tới nay đã có trên trăm định nghĩa về quản lý khác nhau. Còn trong lĩnh vực giáo dục ta có thể hiểu phạm trù quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng như sau: Quản lý là một quá trình có hướng đích, có tổ chức, có sự lựa chọn dựa trên các thông tin của hệ và môi trường của hệ, để điều chỉnh các quá trình và hành vi của đối tượng quản lý, nhằm làm cho hệ vận hành phát triển tới mục tiêu xác định.(theo định nghĩa được học ở trường quản lý) 2- Quản lý giáo dục: Quản lý giáo dục nói chung và quản lý nhà trường nói riêng là: Quản lý một hệ, phân hệ quản lý hành chính Nhà nước, là hệ thống những nội dung có mục tiêu, có kế hoạch, hợp quy luật và đúng ý trí của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống giáo dục, cho nhà trường vận hành theo đúng đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng nhằm thực hiện tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà điểm hội tụ là quá trình GD&ĐT thế hệ trẻ đạt tới mục tiêu đã xác định.(điều học ở trường quản lý) III/ Khái niệm về hoạt động dạy- học: 1-Khái niệm: Hoạt động dạy - học là hoạt động cơ bản trọng tâm trong nhà trường được diễn ra giữa thầy và trò nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học phát huy năng lực trí tuệ và xây dựng được thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn trong sáng. Hoạt động dạy - học thực chất là thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa hai hoạt động: dạy của thầy, học của trò. Có nhiều nhà nghiên cứu khoa học đã đưa ra khái niệm khác nhau. Song nói chung thì hoạt động dạy học là một bộ phận của quá trình hình thành nhân cách toàn vẹn. Nó chính là hoạt động của thầy và trò trong đó thầy giữ vai trò chủ đạo, trò giữ vai trò chủ động, tích cực nhằm đạt được mục đích dạy học. Nói một cách khác đó là quá trình qua lại giữa thầy giáo và học sinh, nhằm truyền thụ lĩnh hội kiến thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo thực hành và hoạt động nhận thức cho người học. Trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và phát triển năng lực xây dựng phẩm chất, nhân cách cho người học theo mục đích giáo dục. Như vậy kết quả trực tiếp cho người học là nâng cao trình độ học vấn và phương pháp khoa học. 2- Qua trình dạy - học: Là quá trình hoạt động xã hội gắn liền với con người, nhằm tới mục đích nhất định. Trên cơ sở hoàn thành những nhiệm vụ, nội dung với những phương pháp, phương tiện để đạt kết quả mong muốn. Mục đích, nhiệm vụ, nội dung, thầy, trò, phương pháp, phương tiện, kết quả là những nhân tố cấu trúc quá trình dạy học, tồn tại trong mối quan hệ qua lại thống nhất, biện chứng với nhau. Mặt khác môi trường kinh tế - xã hội, môi trường cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá có tác động, ảnh hưởng lớn đến quá trình dạy - học. Từ đó nhà trường THCS phải trang bị cho học sinh những kỹ năng, kỹ xảo, tri thức khoa học cơ bản phù hợp với thực tế. Đồng thời trang bị cho học sinh tham gia hoạt động xã hội, tiếp thu học vấn nghề nghiệp giúp cho các em có thể tiếp tục học lên theo nhiều luồng khác nhau, hay hình dung bức tranh sinh động về thế giới quan. 3- Bản chất của quá trình dạy học: Là nhằm trang bị cho người học hệ thống những tri thức kỹ năng, kỹ xảo phát triển năng lực hoạt động trí tuệ và hình thành thế giới quan khoa học giáo dục, phẩm chất tốt đẹp của họ. Do vậy dạy và học phải thực hiện đồng thời với cùng nội dung và hướng tới cùng một mục đích. Nếu hai “nhân vật” này bị tách rời thì lập tức phá vỡ quá trình dạy – học. Học tập không có giáo viên sẽ trở thành tự học. Giảng dạy mà không có học sinh sẽ trở thành độc thoại ( trường hợp này không còn tồn tại, không tồn tại dạy – học, phá hủy quá trình dạy – học). Quá trình dạy – học là vì học sinh mọi sự cố gắng, mọi cải tiến để đổi mới nội dung, phương pháp, mọi tìm tòi về cách tổ chức, về khơi dạy tiềm năng trí tuệ... đều vì học sinh, nên học sinh là trọng tâm hay “ Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”. Vậy muốn nâng cao chất lượng dạy và học phải năng cao chất lượng các thành tố nói trên, đồng thời nâng cao chất lượng toàn bộ hệ thống. 4- Quản lý quá trình dạy- học Thực chất là hình thành và tự hình thành nhân cách học sinh bằng hoạt động đồng hợp tác liên nhân cách. Quản lý hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa trên lớp trước hết là chức năng của giáo viên, quản lý con người để nhân tố này thực hiện hoạt động dạy – học đó chính là nhân tố giáo viên, một nhân tố mang tính quyết định đến chất lượng và hiệu quả giảng dạy. Quản lý giáo viên về mặt chuyên môn, năng lực sư phạm nó thể hiện ở khả năng tổ chức, khả năng quản lý lớp, khả năng hướng dẫn hình thành kiến thức, rèn kỹ năng: Kỹ năng tổ chức các hoạt động trong và ngoài giờ. Khả năng giao tiếp của giáo viên đối với học sinh và phụ huynh học sinh. Để quản lý thuận lợi và đạt kết quả thì người cán bộ quản lý cần xem xét phân loại đội ngũ để quyết định phân công bố trí sắp xếp công việc phù hợp với từng giáo viên, để mỗi thành viên trong nhà trường phát huy được hết khả năng của họ. Quản lý quá trình dạy – học chính là quản lý việc thực hiện nội dung chương trình, kế hoạch giảng dạy. Phải xác định chương trình dạy – học là mang tính pháp lệnh, mục tiêu là chiến lược con người. Quản lý nội dung chương trình được thể hiện cụ thể hóa bằng SGK. Muốn quản lý tốt vấn đề này người quản lý phải là người nắm được những thay đổi của chương trình, thường xuyên kiểm tra, dự giờ, khảo sát chất lượng sau giờ dự , thống kê kết quả định kỳ. Quản lý kế hoạch giảng dạy chính là kế hoạch lên lớp của từng giáo viên nhằm thực hiện đầy đủ chương trình và nội dung thể hiện qua kiến thức SGK, tùy trình độ khả năng học tập của từng khối lớp mà có kế hoạch giảng dạy thích ứng, phù hợp. Quản lý xây dựng kế hoạch chuyên môn, kế hoạch giảng dạy của tổ, cá nhân. Xây dựng thời khóa biểu bảo đảm tính khoa học, hợp lý, thuận lợi, điều phối giáo viên vào các giờ trống vắng, chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy – học, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ sư phạm (hay trình độ tay nghề) cho đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy. Tóm lại: Quản lý quá trình dạy - học chính là quản lý: Con người thực hiện hoạt động dạy, kế hoạch giảng dạy, chấp hành quy chế chuyên môn, thời gian lên lớp, phương pháp giảng dạy để đạt mục tiêu nâng cao chất lượng dạy - học trong nhà trường. B. Cơ sở thực tiễn ( Chủ yếu nêu ra mang tính khái quát các bộ môn văn hoá cung cấp gì và đặc điểm của các loại bài học và lấy đó có cơ sở thực tiễn cho các phần tiếp theo) I- các bộ môn văn hóa cung cấp gì? Các bộ môn văn hóa trong nhà trường nói chung, trường THCS nói riêng được hiểu là các bộ môn nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học cơ bản có hệ thống về tự nhiên, xã hội, tư duy cuộc sống. Các bộ môn văn hóa thường được thông qua các bài học như giờ học bài mới, bài ôn tập bài kiểm tra, bài luyện tập, bài tổng hợp. Trong đó giờ học bài mới và dạng bài luyện tập được chiếm nhiều thời gian nhất trong suốt quá trình giảng dạy. II- Đặc điểm của các loại bài học 1- Bài mới: Được tổ chức với mục đích là truyền đạt nội dung học tập kiến thức mới, những thông tin khoa học mới. Bằng sự khéo léo sư phạm, giáo viên dùng phương pháp đặc trưng bộ môn, theo tinh thần đổi mới để dẫn dắt học sinh nắm vững tài liệu học tập trong một thời gian ngắn nhất. 2- Bài ôn tập: Là giờ học tổ chức với mục đích là ôn tập, ôn tập củng cố hệ thống hóa những kiến thức đã học. Phương pháp chủ yếu là phân tích hệ thống hóa tổng hợp kiến thức, thông qua vấn đáp, lập sơ đồ, bảng phân loại, so sánh và sử dụng SGK cũng như tài liệu tham khảo để mở rộng kiến thức. 3- Bài luyện tập: Là giờ học tổ chức cho học sinh thực hiện một hệ thống các bài tập thực hành từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó theo nội dung một bài hay một phần, một chương, mục đích của nó là hình thành cho học sinh một hệ thống kỹ năng, kỹ xảo ứng dụng kiến thức vào cuộc sống. 4- Bài kiểm tra: Là dạng bài có mục đích cơ bản là xem xét và đánh giá kết quả học tập của học sinh, khả năng nắm bài học để tạo ra thông tin giúp người dạy điều chỉnh cách dạy và cách học. Kiểm tra dưới hình thức: viết, trắc nghiệm, miệng, thực hành. Kiểm tra có thể được thực hiện như một giờ học riêng. 5- Bài tổng hợp: Là giờ học thực hiện cùng một lúc tất cả các chức năng của các loại bài học trên. Bài tổng hợp thường phối hợp tất cả các bước: kiểm tra, giảng kiến thức mới, ôn tập, luyện tập, thực hành...Bài tổng hợp yêu cầu phải chuẩn bị giáo án công phu hơn với đầy đủ các bước, các phương pháp đa dạng bảo đảm mục tiêu các bài học trên. Chương II THựC TRạNG Hoạt động dạy - học ở trường THCS Phong Khê – thành phố Bắc Ninh giai đoạn 1997-2003 ở chương I, tuy tên chương là “xây dựng cơ sở lý thuyết”, nhưng bản chất đã là kinh nghiệm quản lý “Hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa” rồi, bởi lẽ từ lý thuyết và thực tiễn đã được tìm tòi khám phá và rút ra quy luật như đã trình bày. Sang chương II chủ yếu là phân tích làm rõ bản chất, quy luật bằng kết quả cụ thể của đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra còn mang tính tổng kết, thống kê để cán bộ giáo viên trong trường có tài liệu tham khảo khi thực hiện vấn đề liên quan. I- Chất lượng đội ngũ: 1. Nhận xét phân tích, phát động phong trào tự học: Chất lượng đội ngũ thể hiện ở hai mặt: Trình độ đào tạo, trình độ tay nghề. Tuy nhiên còn có khía cạnh khác chưa nhìn được rõ ngay là “tư chất” và “ vốn liếng” của mỗi người. Tư chất là khả năng “ khéo léo” sư phạm, vốn liếng phải có từ hồi học phổ thông (gọi là trình độ gốc). Kinh nghiệm cho thấy giáo viên nào có trình độ “gốc” toàn diện thì sau này là giáo viên “tốt”, bởi lẽ môn được đào tạo có liên quan nhiều đến kiến thức phổ thông. Vì thế trong giai đoạn nhà trường phát động phong trào tự đào tạo với sự phân tích và gợi ý sau: Tự đào tạo, tự bồi dưỡng là “ cốt lõi” để nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề. Học ở trường (trường sư phạm) dù đầy đủ đến mấy khi ra công tác vẫn còn thấy thiếu hụt . Trong thực tế đào tạo cũng không thể nào sát với yêu cầu và ý muốn vươn lên của từng người. Do vậy tự học là hết sức quan trọng để củng cố gắn liền tri thức với cuộc sống, mở rộng, bổ sung theo nhu cầu và một điều quan trọng là bất luận ở lứa tuổi nào, lĩnh vực gì. Tự học là tự mình sắp xếp tiếp cận với tri thức không cần có thầy thường xuyên, khi cần thì tìm đến thầy (khái niệm thầy trò ở đây rất thông thoáng, thầy là người biết hơn khi cần hỏi, đối với mỗi người lúc này là thầy lúc khác là trò)!!!... Ngoài ra để kích thích tự học và tránh không "thực học, thực nghiệp" chúng ta hãy đọc một đoạn của GSVS Phạm Minh Hạc nói về nâng chuẩn của giáo viên hiện nay: “ Chuẩn hoá là đòi hỏi của xã hội công nghiệp. Tuy nhiên ngay trong quá trình tiến hành chuẩn hoá đội ngũ giáo viên thời gian qua cũng bị tiêu cực hoá và bị bệnh thành tích tấn công. Chuẩn hoá gì mà cuốn sách giáo khoa mới in ra đọc không hiểu được? Vì vậy Bộ giáo dục phải in hướng dẫn cho giáo viên, rồi tập huấn lên, tập huấn xuống. Chuẩn hoá không được sẽ kéo theo mọi cái đều không thực. Học để cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ, phục vụ tốt hơn cho công việc là cần thiết. Tuy nhiên có nhiều người học lên cao không vì mục đích đó mà chỉ để có một cái bằng cấp gì đấy, giải quyết khâu oai là chính. Những người này càng học cao chuyên môn lại càng kém đi vì họ đâu có thời gian rèn nghề nữa. Về phong trào nâng chuẩn hiện nay ở một số nơi, tôi cho rằng nó có một gốc rễ từ nền học vấn hư văn như trên đã đề cập, xã hội công nghiệp đòi hỏi thực học, thực nghiệp” (trích báo Giáo dục và thời đại số 108, trang 9, tháng 9/2006) Qua trên cho ta thấy muốn thực học, thực nghiệp con đường tự học hiện nay là tốt nhất, là cốt lõi để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề. Ngay việc dạy cho học sinh ta cũng phải dạy biết cách tự học. UNESCO đã nói:"Học để học cách học - Học để biết - Học để sáng tạo" có nghĩa ngoài học để biết ra học sinh phải biết cách học (tức tự học), và cũng từ biết cách học sẽ biết sáng tạo. 2. Thống kê chất lượng: Năm học Tổng số Trình độ ĐT Trình độ tay nghề CBGV GV Chuẩn Chưa chuẩn GV dạy giỏi Khá TB Trường Huyện Tỉnh 1997-1998 20 18 14 4 9 1 2 5 1 1998-1999 23 21 17 4 10 1 2 7 1 1999-2000 26 23 18 5 9 4 2 7 1 2000-2001 28 25 19 6 11 2 2 9 1 2001-2002 31 28 21 7 15 3 2 7 1 2002-2003 31 28 22 5 13 5 0 9 1 Ghi chú: Trình độ ĐT và tay nghề: Không tính quản lý, hành chính. Năm 2001-2002 GVDG cấp tỉnh là bảo lưu năm học trước, vì thời điểm này GVDG cấp tỉnh thi 2 năm học 1 lần đối với mỗi một khoa học ( TN hoặc XH) Nhìn vào thống kê trên để đánh giá chất lượng đội ngũ chỉ là tương đối như phân tích ở mục1 (phần I này). Có nhiều giáo viên thực sự “thực học, thực nghiệp” được nhà trường, học sinh, nhân dân địa phương ghi nhận. 3. Đánh giá: - Đội ngũ giáo viên THCS Phong Khê cơ bản có phẩm chất đạo đức tốt, yên tâm công tác có tinh thần trách nhiệm. - Công tác bồi dưỡng được quan tâm đúng mức, bởi yêu cầu thiết yếu hiện nay là muốn có sự vươn lên mạnh mẽ thì chất lượng đội ngũ phải có giáo viên giỏi thực sự để đóng góp vào nhiệm vụ trong giai đoạn mới. - Một điều quan trọng là đội ngũ giáo viên Phong Khê có tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cả trong công tác và cuộc sống. Tuy nhiên đội ngũ còn bộc lộ những tồn tại sau: Tổ chức sư phạm của một số giáo viên còn hạn chế, đã được góp ý, bồi dưỡng nhưng chuyển biến chậm ( ở đây còn là “tư chất” như trên đã đề cập). Còn hiện tượng ra vào lớp chưa đúng giờ, chấm trả bài chưa đúng quy định, phối hợp giữa các phương pháp thiếu linh hoạt, còn cứng nhắc. Hoạt động của tổ chuyên môn đôi lúc còn dè dặt, nể nang, sợ mất lòng... Tóm lại: Với những ưu điểm trên nhà trường không những động viên đánh giá theo từng năm, mà còn ghi vào “sử sách” của giáo dục xã, ghi vào lòng dân và để thế hệ sau noi theo. Những tồn tại thì được uốn nắn kịp thời, trên tinh thần xây dựng. Trong quá trình sử dụng đội ngũ áp dụng tối đa như phần xây dựng lý thuyết với phương châm: “Dụng nhân như dụng mộc” II- Chất lượng học sinh: 1. Thống kê chất lượng: + Đại trà: Năm học Số lớp Sĩ số Xếp loại văn hóa (%) Tốt nghiệp Vào THPT Vào CĐ-ĐH Giỏi Khá TB Yếu 1997-1998 13 576 1,8 40,8 54,6 2,8 100/101=99% 84 0 1998-1999 16 637 2,1 41,4 54,6 1,9 108/109=99% 91 14 1999-2000 15 647 2,7 41,4 54,0 1,5 132/134=98,5% 95 9 2000-2001 16 654 6,1 41,0 51,9 1,0 152/152=100% 121 23 2001-2002 15 644 8,2 44,1 46,6 1,1 164/164=100% 130 17 2002-2003 15 610 11,2 45,2 42,0 1,0 118/118=100% 87 28 + Mũi nhọn: Năm học Giải huyện Giải tỉnh Xếp thứ Ghi chú 1997-1998 10 0 6 1998-1999 10 2 12 1999-2000 13 3 8 2000-2001 10 1 7/19 2001-2002 4 1 10/19 2002-2003 20 0 4/19 2. Nhận xét: Qua biểu thống kê trên cho ta thấy học sinh giỏi tăng dần từ 0% đến 11,2%, học sinh yếu giảm dần từ 5,7% xuống còn 1,0, mũi nhọn thứ hạng cao ở năm học 2002-2003 nhưng đặc biệt ở Phong Khê luôn vượt trội về môn tự nhiên (đặc biệt về Toán, Lý) Nguyên nhân: bước đầu trong quá trình áp dụng quản lý "Đổi mới hoạt động dạy - học " mà ở chương I đã trình bày. Còn một khía cạnh nữa là xu hướng phát triển của xã hội, nhưng Phong Khê rất “rè dặt” nhất là không vì thành tích mà còn day dứt với nó mà ở phần sau sẽ trình bày. Chương III Kinh nghiệm quản lý Hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa ở chương này trình bày những biện pháp, giải pháp đặt ra của đề tài và cũng là kinh nghiệm quản lý “Hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa” của trường trên cơ sở như lý thuyết đã trình bày ở trên, đồng thời cũng là thừa kế của giai đoạn trước. Để nâng cao chất lượng dạy - học các bộ môn văn hóa chúng tôi thực hiện các nội dung sau: Quản lý nội dung chương trình giáo dục. Quản lý thời khóa biểu. Quản lý các điều kiện cho dạy và học. Sau đây trình bày biện pháp, giải pháp và kinh nghiệm thực hiện từng nội dung trên: I- Quản lý nội dung, chương trình giáo dục: 1- Vì sao phải quản lý tốt việc thực hiện nội dung, chương trình: Trong chương trình dạy - học các bộ môn văn hóa, quy định nội dung, thời gian, các loại bài học từng bộ môn một cách cụ thể. Đó thực chất là kế hoạch đào tạo của Bộ GD&ĐT giao cho các trường nhằm mục tiêu giáo dục. Chương trình dạy - học các bộ môn văn hóa chính là văn bản do Bộ GD&ĐT ban hành, nó có tính pháp lý, pháp quy, quy chuẩn, tính cưỡng chế bắt buộc, không được tùy tiên làm sai, thêm bớt nếu không được các cấp có thẩm quyền chỉ đạo, cho phép. Đây là nguyên tắc bắt buộc đối với tất cả các cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên thực hiện nghiêm chỉnh. Từ đó đòi hỏi cán bộ quản lý phải quản lý tốt chương trình. Quản lý tốt ở đây không có nghĩa là bảo quản, bảo vệ cất đi mà phải hiểu là nắm chắc nội dung chương trình của tất cả các môn học ở từng khối lớp trong năm học để chỉ đạo, điều hành, xử lý việc thực hiện đúng chương trình. Nội dung chương trình được cụ thể hóa bằng SGK, giáo viên thực hiện chương trình phải đi liền với SGK nên thường gọi chung là nội dung chương trình. Nhưng trong thực tế hàng năm thường được điều chỉnh hướng dẫn nên người quản lý phải nắm bắt được để chỉ đạo điều hành. Sự điều chỉnh này thông qua các văn bản của ngành để thống nhất trong cả nước hoặc từng vùng ( do Bộ GD&ĐT quy định) cho phù hợp. Đó là lý do thứ hai để quản lý chương trình. II- Những biện pháp, giải pháp, kinh nghiệm thực hiện nội dung chương trình: - Giúp tổ trưởng chuyên môn, giáo viên nắm chắc nội dung chương trình và triển khai những điểm mới bổ sung, những điểm mới thay đổi. - Nắm vững nguyên tắc cấu tạo nội dung chương trình từng môn, từng lớp học. - Giúp giáo viên nắm vững thời gian học từng bài, từng loại bài. - Nắm vững cách thức đánh giá chất lượng học tập của từng học sinh, số điểm quy định cho từng môn. - Trên cơ sở tham mưu của tổ trưởng chuyên môn, nhà trường phân công giáo dục cho giáo viên, đồng thời tạo điều kiện kỹ thuật, vật chất, phương tiện giúp giáo viên thực thi tốt nhiệm vụ được phân công. - Quản lý thời khóa biểu ( trình bày rõ ở mục 2). - Quản lý chương trình: hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch giảng dạy của cá nhân - Theo dõi tiến độ nội dung chương trình giảng dạy các môn học qua từng thời gian. Trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh, bổ sung nhằm thực hiện nghiêm túc chương trình đã quy định. Từ phần xây dựng cơ sở lý thuyết cụ thể hóa cho từng ý trên, chỉ đạo, quản lý xuyên suốt quá trình dạy và học. III- Quản lý thời khóa biểu: Quản lý thời khóa biểu là một cho những kinh nghiệm, biện pháp của quản lý chương trình nhưng nó được đưa vào mục riêng bởi lẽ: trong toàn bộ hoạt động dạy và học các bộ môn văn hoá thời khoá biểu đặc biệt quan trọng, nó là mệnh lệnh quản lý chính thức của Hiệu trưởng trong quá trình giảng dạy của trường. Thời khoá biểu chính là văn bản chi tiết hoá, hiện thực hoá việc thực thi kế hoạch giảng dạy từng môn học, lớp học nhằm bảo đảm số tiét giảng dạy theo chương trình quy định. *Những biện pháp, kinh nghiệm quản lý: Thời khoá biểu được thành lập bảo đảm các nguyên tắc: + Bảo đảm tính khoa học. + Bảo đảm tính vệ sinh học đường. Các nguyên tắc trên được thực thi trong việc xếp thời khoá biểu như sau: 1. Bảo đảm tính khoa học: - Mỗi ngày học ít nhất 2 môn học. Điều kiện cho phép có thể xếp 5 môn trong 5 tiết là tốt nhất ( xếp các môn học tối đa theo số tiết) - Giải đều các môn từ đầu tuần đến cuối tuần ( những môn có ít tiết, 2 tiết chẳng hạn ít nhất cũng phải cách 2 ngày). - Trong xếp thời khoá biểu tính toán tối ưu trường hợp giáo viên nghỉ đột xuất ( ốm, đi họp...) có thể có giáo viên khác dạy thay. - Trong năm học có những ngày nghỉ như ngày lễ, ngày tết, ngày thi định kỳ của Sở, Phòng...nhà trường sẽ điều chỉnh để cân đối, để thống nhất tiến độ thực hiện chương trình vào giữa kỳ hoặc gần kết thúc kỳ (chủ yếu là gần kết thúc kỳ). 2. Bảo đảm tính vệ sinh học đường: - Về các tiết thể dục: Mùa hè không xếp vào tiết cuối, mùa đông không xếp vào tiết đầu, bởi lẽ mùa hè gần trưa nhiệt độ cao hơn, mùa đông tiết đầu nhiệt độ thấp ảnh hưởng đến hiệu suất tiết học. - Ưu tiên tối đa cho các môn phức tạp: vào tiết 2 và tiết 3. - Hạn chế cách tiết đối với từng giáo viên. Nếu trường hợp "bất khả kháng" thì hạn chế số ngày cách tiết, trong một ngày không cách nhiều tiết. IV- Quản lý các điều kiện cho dạy và học 1- Quản lý hoạt động dạy của thầy: Hoạt động dạy của thầy có vị trí ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì giáo viên là nhân tố là người trực tiếp biến kế hoạch mục tiêu quản lý của Hiệu trưởng thành hiện thực. Vì vậy trong quản lý, mục này tập trung vào các nội dung sau: 1.1: Quản lý giảng dạy theo quy định: + Chương trình dạy học, kế hoạch bộ môn, kế hoạch cá nhân. + Soạn bài, chuẩn bị thí nghiệm. + Kiểm tra đánh giá theo quy định . + Vào sổ điểm ghi học bạ đầy đủ. + Lên lớp đúng giờ, không tùy tiện bỏ giờ, bỏ buổi dạy. + Quản lý học sinh trong các hoạt động do nhà trường tổ chức + Tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn. 1.2: Quản lý giảng dạy theo thực tế: + Cần nhận thức cho đúng khả năng của học sinh, từ đó tạo điều kiện tốt nhất và động viên học sinh phấn đấu học tập đạt kết quả cao từ nội lực của chính mình. + Thay đổi các phương pháp kiểm tra theo hướng bắt buộc học sinh phải suy luận, giải thích, tổng hợp (như thi trắc nghiệm, tự luận...) + Công bằng trong việc chấm, đánh giá xếp loại học sinh. 2- Quản lý cơ sở vật chất: Quản lý khối công trình như phòng học, phòng bộ môn, sân chơi bãi tập khu vệ sinh, nhà để xe... đều phải đủ về số lượng, đúng quy cách, sử dụng triệt để thiết thực, có thẫm mỹ và mang tính sư phạm. Có kế hoạch bảo quản và tu bổ thường xuyên. 3- Tạo môi trường lành mạnh cho giáo dục: Đây là một phần của xã hội hóa giáo dục: Tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa đồng nghiệp với nhau, giữa thầy và trò, giữa nhà trường với các lực lượng xã hội. Huy động các lực lượng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục bằng nhiều hình thức. V/ Một số kết quả giai đoạn 2003-2008: 1- Về đội ngũ: a- Thống kê: Năm học Tổng số Trình độ ĐT Trình độ tay nghề CBGV GV Trên chuẩn Chuẩn Chưa chuẩn GV dạy giỏi Khá TB Trường Huyện Tỉnh 2003-2004 36 33 0 31 5 12 6 1 14 2004-2005 34 30 3 31 3 15 5 1 9 2005-2006 34 30 16 15 3 15 5 1 9 2006-2007 36 32 18 15 3 18 7 0 7 2007-2008 36 32 18 15 3 16 4 1 9 Ghi chú: Trình độ tay nghề: không tính quản lý, hành chính. b- Đánh giá: - Đội ngũ giáo viên THCS Phong Khê so với giai đoạn trước cơ bản giữ vững phẩm chất đạo đức tốt, yên tâm công tác có tinh thần trách nhiệm. - Công tác đào tạo nâng chuẩn, trên chuẩn được hoàn thành, bồi dưỡng được quan tâm đúng mức. Số giáo viên giỏi các cấp đều tăng. - Tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau được củng cố ( giữ vững được truyền thống này là điều kiện rất tốt, rất đáng trân trọng trong một tập thể sư phạm) - Những tồn tại của giai đoạn trước được khắc phục như: tổ chức sư phạm của một số giáo viên có chuyển biến, ra vào lớp chưa đúng giờ, chấm trả bài đúng quy định, phối hợp giữa các phương pháp linh hoạt hơn, hoạt động của tổ chuyên môn có chiều sâu và bài bản hơn.... 2- Về chất lượng học sinh: a- Đại trà: Năm học Số lớp Sĩ số Xếp loại văn hóa (%) Tốt nghiệp Vào THPT Vào CĐ-ĐH Giỏi Khá TB Yếu 2003-2004 16 625 17,8 47,7 33,7 0.8 150/151=99,3% 102 23 2004-2005 16 638 18,4 42,3 38,4 0,9 167/171=97,6% 99 22 2005-2006 16 626 20,3 40,7 37,9 1,1 131/131=100% 130 42 2006-2007 16 608 10,2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý hoạt động dạy - học các bộ môn văn hóa.doc
Tài liệu liên quan