Đồng thời với sự đóng góp về thể lực thì quan trọng hơn, con người đóng góp trí lực của mình vào việc thực hiện nhiệm vụ tổ chức giao phó. Với trí tuệ, khả năng sáng tạo của mình, con người sẽ tìm tòi, sáng tạo ra nhiều cách thức, phương pháp tiến hành giải quyết công việc để đạt được mục tiêu đề ra một cách nhanh nhất và ít tốn kém nhất; từ đó nâng cao hiệu suất hoạt động của mỗi cá nhân, góp phần giúp tổ chức hoạt động có hiệu quả. Khả năng trí tuệ của con người chính là yếu tố then chốt, trung tâm của mọi vấn đề để giúp cho tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, qua đó duy trì sự tồn tại và đưa đến sự phát triển ngày càng lớn mạnh của tổ chức. Chính vì thế không phải ngẫu nhiên khi hầu hết mọi tổ chức hiện nay đều đặt con người vào vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển của mình, coi họ là tài sản quý báu nhất của tổ chức mình.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4958 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quản lý nguồn nhân lực – yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của tổ chức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC – YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC
Quản lý nguồn nhân lực, xét trong phạm vi của một tổ chức được hiểu là tổng thể các hoạt động sắp xếp, tổ chức, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra… các quá trình tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng con người lao động nhằm thu hút tài năng, phát huy cao nhất tiềm năng của các cá nhân trong việc đáp ứng các nhu cầu, mục tiêu định trước của tổ chức hoặc trong toàn xã hội với hiệu quả cao và chi phí thấp nhất. Do đó, quản lý nguồn nhân lực là một nội dung đặc biệt quan trọng trong quá trình quản lý của tổ chức. Tổ chức hoạt động có hiệu quả hay không, có đạt được mục tiêu đặt ra của tổ chức hay không phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả làm việc của từng cá nhân trong tổ chức. Và một cách lôgic, hiệu quả làm việc của các cá nhân này bên cạnh việc phụ thuộc vào năng lực của mỗi cá nhân thì yếu tố quan trọng bậc nhất là hoạt động quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức được tiến hành như thế nào. Rõ ràng, nếu quản lý nguồn nhân lực tốt thì nó sẽ là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của tổ chức, giúp tổ chức đạt được mục tiêu, chiến lược đề ra một cách tối ưu nhất.
Vai trò quyết định của quản lý nguồn nhân lực đến hiệu quả hoạt động của tổ chức được thể hiện rõ ràng qua 2 nội dung cơ bản:
Quản lý nguồn nhân lực là bộ phận chủ yếu trong quản lý một tổ chức;
Quản lý nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đưa đến hiệu quả hoạt động của một tổ chức.
Sau đây, lần lượt sẽ đi sâu phân tích 2 nội dung trên để làm sáng tỏ vai trò, tầm quan trọng của quản lý nguồn nhân lực trong hoạt động của tổ chức.
1. Quản lý nguồn nhân lực là bộ phận chủ yếu trong quản lý một tổ chức
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi một tổ chức dựa trên sự kết hợp của nhiều bộ phận cấu thành nhằm hướng đến việc đạt được mục tiêu chung đã định trước của tổ chức. Các bộ phận này thông thường bao gồm: tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc, trình độ khoa học công nghệ và con người. Rõ ràng mỗi bộ phận đóng vai trò khác nhau trong hoạt động của tổ chức. Trong đó, con người với vai trò chủ động của mình là yếu tố quan trọng nhất. Trong hoạt động quản lý, con người được hiểu ở 2 khía cạnh: người quản lý, điều hành và người thừa hành, thực hiện. Có thể nói, mọi quá trình diễn ra trong tổ chức đều thông qua hoạt động của con người và họ nằm ở trung tâm của quá trình quản lý. Chỉ có con người mới có thể kết hợp được các bộ phận khác lại với nhau và cùng phục vụ cho việc đạt được mục tiêu chung của tổ chức. Như vậy, vai trò của con người trong tổ chức là không thể bàn cãi. Tuy nhiên, để hoạt động của con người thực sự đáp ứng yêu cầu quản lý thì nhất thiết họ phải được tổ chức, quản lý một cách khoa học thông qua bộ phận quản lý nguồn nhân lực trong mỗi tổ chức.
Trang thiết bị, máy móc
Thêm vào đó, các bộ phận hợp thành sự tồn tại và phát triển trong tổ chức luôn có mối quan hệ qua lại, gắn bó chặt chẽ với nhau. Ta có thể sơ đồ hóa mối quan hệ đó như sau:
Con người
Cơ sở
vật chất
Nguồn lực tài chính
Trình độ khoa học CN
Như vậy, tất cả các bộ phận đều có mối quan hệ tác động lẫn nhau, sự tồn tại, phát triển của yếu tố này nằm trong sự tồn tại và phát triển của yếu tố khác.
- Nguồn lực tài chính được đảm bảo thì mới đủ điều kiện để có thể đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất; đồng thời nhờ vào nguồn lực tài chính mới thúc đẩy quá trình áp dụng, triển khai các thành tựu khoa học công nghệ làm tăng năng suất, hiệu quả hoạt động của tổ chức.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc là yếu tố cơ bản, đảm bảo cho quá trình hoạt động của tổ chức.
- Con người nằm ở vị trí trung tâm, có vai trò kết hợp tất cả các yếu tố khác còn lại để phục vụ cho việc đạt mục tiêu của tổ chức. Có thể khẳng định nếu không có yếu tố con người thì sẽ không tạo nên bất cứ quá trình nào trong hoạt động quản lý. Con người sẽ biết cách sử dụng các nguồn lực khác và tạo ra cách thức hợp lý để đạt được mục tiêu của tổ chức
Tóm lại, một tổ chức ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên nhiều các bộ phận cấu thành. Các bộ phận này không tồn tại một cách độc lập mà nằm trong một hệ thống có mối quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau. Trong đó, con người là yếu tố cơ bản, nằm ở vị trí trung tâm của quá trình quản lý.
Tương ứng với mỗi bộ phận cấu thành sự tồn tại, phát triển của tổ chức sẽ là các hoạt động quản lý, như vậy, quản lý một tổ chức sẽ bao gồm các bộ phận quản lý sau: quản lý tài chính, quản lý nguồn nhân lực, quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, quản lý khoa học công nghệ. Trong đó, quản lý nguồn nhân lực có vai trò đặc biệt quan trọng mà nhờ đó các hoạt động quản lý khác mới có thể được diễn ra một cách thuận lợi và suôn sẻ.
Quá trình sản xuất của bất kỳ tổ chức nào đều dựa trên 3 yếu tố cơ bản là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Nếu như tư liệu lao động mà yếu tố quan trọng nhất là công cụ lao động và đối tượng lao động mang tính tĩnh, tùy thuộc vào điều kiện phát triển của từng thời kỳ khác nhau của lịch sử thì sức lao động lại mang tính động, phụ thuộc vào năng lực của con người. Rõ ràng, bản thân tư liệu lao động và đối tượng lao động không thể tự cải tiến, tự thay đổi, phát triển mà sự thay đổi phụ thuộc vào tính năng động, sáng tạo của sức lao động con người. Sức lao động được nhìn nhận dưới 2 khía cạnh:
- Khía cạnh thể lực: con người với sức mạnh cơ bắp của mình đã biến các đối tượng lao động trở thành các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của xã hội thông qua việc sử dụng các công cụ lao động phù hợp.
- Khía cạnh trí lực: con người với sự phát triển hoàn thiện của bộ não đã giúp cho họ có khả năng sáng tạo ra những công cụ lao động mới, cũng như tìm kiếm các đối tượng lao động mới phục vụ cho quá trình khai thác, sản xuất sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người.
Như vậy có thể thấy, sức lao động chính là yếu tố quyết định làm gia tăng năng suất lao động, hiệu quả hoạt động của tổ chức.
Trước đây, sức lao động, con người được tính vào chi phí sản xuất của tổ chức nên khi các doanh nghiệp cạnh tranh nhau thông qua giảm giá thành sản phẩm thường chọn cách giảm chi phí đầu tư cho con người, do vậy mà việc đầu tư cho con người không được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên chính điều này đã làm giảm năng suất, hiệu quả của tổ chức. Chính vì vậy mà hiện nay hầu hết các tổ chức coi con người là tài sản của tổ chức, xác định đầu tư cho con người là đầu tư lâu dài và hiệu quả nhất.
2. Quản lý nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đưa đến hiệu quả hoạt động của một tổ chức
Để khẳng định ý nghĩa quyết định của quản lý nguồn nhân lực đến hiệu quả hoạt động của tổ chức thì trước hết ta phân tích vai trò của con người đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, trong đó có tổ chức.
2.1 Vai trò của con người đối với sự phát triển của xã hội
Con người là chủ thể của xã hội. Mọi hoạt động, quá trình trong xã hội xét đến cùng đều hướng tới mục tiêu phục vụ cho lợi ích của con người. Do vậy, con người là mục tiêu của mọi quá trình trong sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Đồng thời con người cũng là động lực, yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Điều này được thể hiện qua hai nội dung cơ bản:
- Con người là nhân tố tiêu thụ sản phẩm xã hội: sản xuất chỉ được phát triển khi có nhu cầu, rõ ràng không xuất hiện nhu cầu ở con người thì không thể có sản xuất. Con người với nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của mình đã góp phần vào việc tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa mà xã hội làm ra. Sự phát triển của xã hội sẽ bị đình trệ nếu như sản phẩm xã hội không được tiêu thụ. Điều này sẽ làm đảo lộn trật tự xã hội và có thể dẫn tới sự suy vong của cả một xã hội.
- Con người là chủ thể tạo ra sản phẩm: để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của mình thì con người đã không ngừng sử dụng não bộ, sử dụng tính năng động xã hội của mình để tìm tòi, sáng tạo ra các loại sản phẩm khác nhau, có những tính năng ngày càng hiện đại, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội loài người.
Rõ ràng, sự năng động, sáng tạo của con người là nhân tố thúc đẩy xã hội ngày một phát triển hơn, đưa xã hội loài người đi từ sự phát triển này đến sự phát triển khác. Nếu không có con người cùng với tính tích cực của họ thì chắc chắn xã hội chỉ mãi tồn tại ở thời kỳ đồ đá hoang sơ, mông muội. Như vậy, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức chỉ giành được những thắng lợi khi chúng ta biết khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả tất cả các nguồn lực. Song, yếu tố giữ vai trò quyết định nhất, đảm bảo cho sự thắng lợi của quá trình đó chính là nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Điều này được khẳng định dựa trên những cơ sở sau:
Thứ nhất, các nguồn lực khác (ngoại trừ nguồn nhân lực), xét về mặt số lượng và trữ lượng, có thể là rất phong phú, dồi dào, nhưng nếu khai thác và sử dụng không hợp lý thì đến một lúc nào đó, chúng sẽ trở nên cạn kiệt. Khi ấy, nền kinh tế vốn cơ bản dựa vào nguồn lực này sẽ gặp khó khăn, nếu không nói là bị đe doạ. Trái lại, nguồn lực con người với tiềm năng trí tuệ, chất xám thì luôn sinh sôi và phát triển không ngừng. Xét trên bình diện xã hội, có thể khẳng định nguồn lực con người là vô tận và do vậy, là nguồn lực cơ bản của sự phát triển bền vững. Đây là một ưu điểm nổi trội của nguồn nhân lực so với các nguồn lực khác trong hệ thống nguồn lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, nếu trước đây, một trong những nguyên nhân chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước là do tình trạng nghèo nàn về cơ sở vật chất, sự thiếu hụt về nguồn vốn… thì ngày nay, trở ngại chủ yếu nhất được xác định chính là sự hạn chế về trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người.
Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; cùng với đó là quá trình toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho các nước đang phát triển có thể khắc phục sự yếu kém về trình độ khoa học – kỹ thuật của mình thông qua con đường hợp tác, có thể giải quyết các vấn đề khó khăn như thiếu hụt nguồn vốn dựa trên quan hệ đầu tư, vay vốn và bằng nhiều hình thức khác. Nhưng, có một vấn đề đặc biệt quan trọng mà để đảm bảo sự phát triển bền vững, các nước phải nhanh chóng giải quyết một cách có hiệu quả, đó là xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Có thể nói, việc xây dựng và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo của con người, trước hết và chủ yếu là nỗ lực tự thân thông qua nhiều biện pháp khác nhau của từng quốc gia.
2.2 Vai trò của con người đối với hoạt động của tổ chức
Sự tồn tại, hoạt động và phát triển của bất kỳ tổ chức nào cũng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và những biến số khác nhau, trong số đó, con người là yếu tố quan trọng nhất. Con người hoạt động có hiệu quả hay không có vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của tổ chức bởi lẽ tất cả mọi quá trình diễn ra trong tổ chức đều được thực hiện thông qua hoạt động của con người. Và sở dĩ, tổ chức có thể hoạt động trong môi trường đầy biến động và luôn có sự thay đổi là nhờ vào sự thích nghi trong quá trình hoạt động của con người. Thêm vào đó, cách thức con người tiến hành việc kết hợp các yếu tố, các bộ phận khác nhau vào trong quá trình hoạt động của tổ chức đã giúp cho mục tiêu, chức năng của tổ chức được thực hiện, đảm bảo cho sự tồn tại của tổ chức.
Vai trò của con người đối với sự tồn tại và phát triển của tổ chức thể hiện qua 2 mặt cơ bản như sau:
- Con người đóng góp sức lao động của mình để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức nhằm hướng đến mục tiêu mà tổ chức đã đề ra. Như đã trình bày quá trình sản xuất được thực hiện dựa trên sự kết hợp của 3 yếu tố cơ bản là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Trong đó, sức lao động là yếu tố động, quyết định năng suất lao động. Sự đóng góp sức lao động của con người vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức thông qua việc đóng góp cả thể lực và trí lực con người vào quá trình này.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ, công việc được giao của con người chính là khả năng chịu đựng, sức bền bỉ, dẻo dai trong quá trình thực hiện công việc; hay nói cách khác đó chính là sức khỏe, khả năng thể lực của con người. Đây là vấn đề ngày càng được quan tâm hơn trong hoạt động của tổ chức bởi lẽ con người dù có trình độ chuyên môn cao nhưng sức khỏe không đảm bảo thì sự đóng góp của họ vào thành công của tổ chức sẽ bị hạn chế rất nhiều. Do vậy, việc đáp ứng yêu cầu về thể lực là điều kiện để con người có thể đóng góp nhiều hơn sức lực và tài năng của mình vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức.
Đồng thời với sự đóng góp về thể lực thì quan trọng hơn, con người đóng góp trí lực của mình vào việc thực hiện nhiệm vụ tổ chức giao phó. Với trí tuệ, khả năng sáng tạo của mình, con người sẽ tìm tòi, sáng tạo ra nhiều cách thức, phương pháp tiến hành giải quyết công việc để đạt được mục tiêu đề ra một cách nhanh nhất và ít tốn kém nhất; từ đó nâng cao hiệu suất hoạt động của mỗi cá nhân, góp phần giúp tổ chức hoạt động có hiệu quả. Khả năng trí tuệ của con người chính là yếu tố then chốt, trung tâm của mọi vấn đề để giúp cho tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, qua đó duy trì sự tồn tại và đưa đến sự phát triển ngày càng lớn mạnh của tổ chức. Chính vì thế không phải ngẫu nhiên khi hầu hết mọi tổ chức hiện nay đều đặt con người vào vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển của mình, coi họ là tài sản quý báu nhất của tổ chức mình.
- Con người là chủ thể của tất cả các hoạt động quản lý của tổ chức: Trong mọi quá trình hoạt động của tổ chức đều có dấu ấn của con người, hay nói cách khác con người chính là chủ thể của tất cả các hoạt động diễn ra trong tổ chức. Ta có thể sơ đồ hóa vai trò của con người bằng sơ đồ sau:
Phối hợp
Tổ chức thực hiện
Kiểm tra, giám sát
Lập kế hoạch
Con người
Lãnh đạo
Đánh giá, tổng kết
Như vậy, con người bằng tính năng động, tích cực của mình đã tham gia vào toàn bộ các hoạt động quản lý ở trên. Vì thế mà sự thành công hay thât bại trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung của tổ chức phụ thuộc phần lớn vào khả năng hoạt động của con người. Con người sẽ trở thành yếu tố thúc đẩy quá trình phát triển của tổ chức nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra song ngược lại họ sẽ trở thành những trở lực, ngăn cản sự phát triển của tổ chức nếu đội ngũ đó không đáp ứng được yêu cầu do tổ chức đề ra. Chính vì thế trong chiến lược hoạt động của mỗi tổ chức, cần có chiến lược phát triển con người một cách toàn diện.
2.3 Vai trò của quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức
Qua các phân tích ở trên về vai trò của con người trong xã hội nói chung và tổ chức nói riêng, ta có thể khẳng định con người là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của tổ chức. Do đó, muốn cho con người phục vụ cho quá trình thực hiện mục tiêu hoạt động của tổ chức thì đòi hỏi phải có cách sắp xếp, bố trí một cách bài bản, khoa học vào các vị trí thích hợp trong tổ chức; đồng thời cần có những chính sách khuyến khích, thúc đẩy sự đóng góp của họ vào sự phát triển chung của tổ chức. Thực hiện tất cả các yêu trên thuộc về nhiệm vụ của hoạt động quản lý nguồn nhân lực.
Quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức là những hoạt động nằm trong cùng một quy trình tiến hành triển khai, sắp xếp nhân lực nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của tổ chức. Quy trình này bao gồm các bước tuyển dụng, sử dụng, quản lý, trả lương, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của con người trong tổ chức. Như vậy, quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của tổ chức bởi lẽ:
- Tạo nên sự thống nhất ý chí giữa các cá nhân, các bộ phận trong hệ thống tổ chức: Rõ ràng, tổ chức là sự kết hợp của nhiều bộ phận cấu thành, song để tất cả các bộ phận cùng hướng tới thực hiện mục tiêu chung của tổ chức thì cần có cơ chế đảm bảo sự tham gia của họ vào hoạt động chung. Và điều này chỉ thực hiện được khi có một bộ phận chuyên trách đứng ra quản lý con người, hoạch định các chính sách nhân lực đảm bảo cho con người được đáp ứng đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần.
- Xây dựng định hướng phát triển nguồn nhân lực trong tổ chức, qua đó định hướng cho sự phát triển của tổ chức trong tương lai: Sự hạn chế hay thu hút thêm nhân lực sẽ là yếu tố quan trọng để thu hẹp hay mở rộng phạm vi hoạt động của tổ chức.
- Tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và tổ chức: Sự phát triển của tổ chức chỉ có được một cách bền vững, lâu dài thông qua sự phát triển của từng cá nhân trong tổ chức. Với những chính sách về tiền lương, thưởng và các chế độ đãi ngộ, khuyến khích, đào tạo, bồi dưỡng của tổ chức sẽ là cơ sở để mỗi cá nhân cống hiến hết mình vì sự phát triển của tổ chức.
- Tạo môi trường thích hợp cho sự phát triển của tổ chức, cá nhân: yếu tố quyết định đến sự gắn bó của con người đối với tổ chức chính là môi trường làm việc. Vấn đề lương, thưởng cũng rất quan trọng đối với nhân lực, tuy nhiên cái chính vẫn là môi trường làm việc. Môi trường đó có tạo tối đa điều kiện cho họ phát huy hết năng lực của mình và công nhận năng lực của họ hay không sẽ quyết định đến việc họ có cống hiến hết mình cho tổ chức và gắn bó với tổ chức hay không. Như vậy, quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức phải quan tâm đến việc tạo ra một môi trường làm việc lành mạnh, công bằng để thu hút mọi khả năng và tiềm năng của con người vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức.
Như vậy, nguồn nhân lực như là năng lực cốt lõi của mỗi tổ chức, là yếu tố tạo ra sự khác biệt và mang lại lợi thế cạnh tranh cho tổ chức. Mặt khác các hoạt động nguồn nhân lực cũng cần có sự kết hợp nhau để hợp lực tạo ra khả năng bảo đảm sự thành đạt mục tiêu của tổ chức.
Quan hệ nguồn nhân lực với các chiến lược khác trong công ty được thể hiện thông qua hình sau:
Các tiền đề
Sứ mệnh của tổ chức
Chiến lược của tổ chức
Các yêu cầu về NNL
- Các kỹ năng
- Thái độ, hành vi nhân viên
- Văn hoá trong tổ chức
Chiến lược NNL
Các mục tiêu và cách thức phát triển nguồn nhân lực...
Các hoạt động QL NNL
Nguồn nhân lực như là năng lực cốt lõi
Theo chiều thuận thì sứ mệnh và chiến lược của tổ chức đặt ra các yêu cầu về nguồn nhân lực như các kỹ năng cần thiết, thái độ làm việc của nhân viên và các yếu tố thuộc về văn hoá của tổ chức, và yêu cầu nguồn nhân lực đáp ứng. Chúng ta có thể nhận thấy quan hệ tích hợp của chiến lược nguồn nhân lực với các chiến lược của tổ chức ở hình 2. Khi sự phát triển nguồn nhân lực tạo ra năng lực cốt lõi và điều này lại cung cấp các cơ sở đầu vào cho các nhà quản trị chiến lược hoạch định ra các chiến lược mới theo đuổi các mục tiêu có tính thách thức cao hơn.
Nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi tạo nên sự phát triển của tổ chức, chính vì thế quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức có vai trò cực kỳ quan trọng, nó là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của tổ chức. Do vậy mà muốn tổ chức hoạt động tốt, đạt được mục tiêu, chiến lược đề ra thì cần phải xây dựng chiến lược quản lý nguồn nhân lực hợp lý, khoa học, phù hợp với điều kiện của tổ chức đồng thời đặt trong sự tác động của môi trường xã hội bên ngoài.
«««««
KẾT LUẬN
Ngày nay, sự ứng dụng ngày càng rộng rãi những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất đã làm năng suất lao động tăng nhanh. Tuy nhiên, khoa học và công nghệ dù có sức mạnh thế nào cũng không thể thay thế hoàn toàn vai trò của con người. Nguồn nhân lực vẫn đóng một vai trò quan trọng, quyết định quá trình sản xuất, tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội. Thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền kinh tế dựa vào sự giàu có của các nguồn tài nguyên sang kinh tế tri thức. Trong bối cảnh như vậy, nguồn lực con người càng trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển nhanh và bền vững.
Trong phạm vi hoạt động của mỗi tổ chức, yếu tố con người ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành tài sản quý báu nhất của con người và có khả năng sản sinh ra các giá trị vật chất không giới hạn. Do vậy mà việc quan tâm đến quản lý nguồn nhân lực vi mô là điều cần thiết. Nếu trước đây, công tác quản lý nhân lực trong tổ chức ít được chú trọng, quan tâm thì hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang phát triển thì quản lý nhân lực đã được đặt lên vị trí chiến lược hàng đầu.
Sở dĩ có sự thay đổi quan niệm như trên về vị trí của quản lý nguồn nhân lực là xuất phát từ ý nghĩa quyết định của quản lý nguồn nhân lực đến hiệu quả hoạt động của tổ chức. Và càng ngày, ý nghĩa quyết định đó càng được khẳng định chắc chắn hơn.
«««««
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài giảng Quản lý nguồn nhân lực vi mô – TS. Đinh Thị Minh Tuyết – Học viện Hành chính, 2009.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức – Nguyễn Văn Sơn, Tạp chí Triết học.
Bàn về sự tích hợp chiến lược nguồn nhân lực với chiến lược của công ty – Đoàn Gia Dũng – Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng.
«««««
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quản lý nguồn nhân lực – yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của tổ chức.doc