Tiểu luận Quản lý thực hiện định mức hao hụt xăng dầu ở trung đoàn 131 - Hải quân

Với đặc điểm nhiệm vụ của trung đoàn họat động thường xuyên, phức tạp, các yếu tố khí hậu, thủy văn trên khu vực đóng quân cộng với xăng dầu có những đặc điểm lý hóa khác nhau, các yếu tố chủ quan như phương thức quản lý, biên chế thiếu vắng, năng lực về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên xăng dầu đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện định mức hao hụt xăng dầu của ngành xăng dầu trung đoàn.

Những số liệu khảo sát thực tế cho chúng ta thấy mức độ hao hụt xăng dầu trong các khâu: tiếp nhận, cấp phát và bảo quản hiện nay ở kho xăng dầu trung đoàn tuy không vượt quá định mức cho phép, nhưng qua thực tế các yếu tố có liên quan ta vẫn có thể tìm được các biện pháp nâng cao chất lượng việc thực hiện định mức hao hụt xăng dầu ở ngành xăng dầu trung đoàn.

Do vậy, việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp hạn quản lý việc thực hiện định mức hao hụt xăng dầu để góp phần nâng cao chất lượng công tác xăng dầu ở kho xăng dầu Trung đoàn 131 là vấn đề cấp thiết cần giải quyết hiện nay.

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5499 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quản lý thực hiện định mức hao hụt xăng dầu ở trung đoàn 131 - Hải quân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nhận tại bể (tính về thể tích ở 150C). - Định mức hao hụt xăng dầu khi xuất: Lượng hao hụt là hiệu số giữa số lượng xuất tại bể và số lượng nhận tại phương tiện (đã quy đổi về thể tích ở 150C).  Bảng 1.2. TT Loại nhiên liệu Xuất cho phương tiện Đmhh 1 Xăng các loại - Xuất lẻ - Bể ( chuyển bể ) 0.60 0,20 2 Điezel các loại - Xuất lẻ - Bể ( chuyển bể ) 0,28 0,05 * Định mức hao hụt xăng dầu trong công tác vận chuyển bằng đường bộ: - Định mức hao hụt trong vận chuyển đường bộ bao gồm lượng hao hụt do bay hơi, rò rỉ cho phép trong quá trình vận chuyển (không bao gồm hao hụt khi nhập, xuất). - Hao hụt tính riêng cho từng loại phương tiện chứa đựng khi vận chuyển và tính riêng cho từng cấp đường (tốt, xấu). - Đơn vị tính: Tỷ lệ % số lượng vận chuyển (đã quy định về đơn vị chuẩn) trên đoạn đường 100km. Bảng 1.3. TT Tên nhiên liệu Mức 1 Mức 2 Ô tô xitéc Vật chứa nhỏ Ô tô xitéc Vật chứa nhỏ 1 Xăng các loại 0,08 0,1 0,16 0,2 2 Điêzel các loại 0,04 0,05 0,08 0,1 - Vật chứa nhỏ gồm phuy, bidong, hòm, hộp. - Đường bộ cấp 1, 2, 3 được áp dụng định mức ở mức 1. Đường bộ cấp 4, 5 được áp dụng định mức ở cấp 2. Đường quân sự làm gấp được áp dụng định mức bằng 1.5 lần định mức ở mức 2. * Định mức hao hụt xăng dầu trong bảo quản, tồn chứa: - Định mức hao hụt xăng dầu khi bảo quản, tồn chứa trong bể: Đơn vị tính: Tỷ lệ % số lượng tồn chứa bình quân trong 1 tháng. Bảng 1.4. TT Dạng bảo quản Loại nhiên liệu Điều kiện bảo quản, tồn chứa chôn ngầm 1 Tồn chứa dài ngày - Xăng các loại - Điezel các loại 0,05 0,005 2 Tồn chứa ngắn ngày - Xăng các loại - Điêzel các loại 0,1 0,01 - Định mức hao hụt xăng dầu khi bảo quản trong vật chứa nhỏ: Đơn vị tính: Theo tỷ lệ % số lượng bảo quản trong 1 tháng. Bảng 1.5 TT Loại nhiên liệu Đmhh trong thùng, phuy, hòm, hộp 1 Xăng các loại 0,3 2 Điêzel các loại 0,03 * Định mức hao hụt các loại mỡ: Đơn vị tính:Tỷ lệ % khối lượng xuất, nhập Bảng 1.6 Khâu công tác Đmhh Xuất lẻ 0.3 Nhập khẩu o.2 Định mức chỉ áp dụng cho trường hợp khi xuất nhập phải phá bao bì đóng gói. Trường hợp xuất nhập không phải phá bao bì của nơi sản xuất và xác định khối lượng trực tiếp thì không được tính hao hụt. 1.1.2.Nguyên nhân hao hụt xăng dầu . * Nguyên nhân hao hụt xăng dầu: Hao hụt xăng dầu ở kho diễn ra trong quá trình vận chuyển, tiếp nhận, cấp phát và bảo quản. Hao hụt về số lượng thường do tình trạng kĩ thuật của các loại máy móc thiết bị trong kho, trong các trạm bơm chuyển không phù hợp với yêu cầu kĩ thuật, sửa chữa các trang thiết bị trong kho không được tiến hành đúng thời hạn, sử dụng lưu trình công nghệ trong kho sai quy trình kỹ thuật gây ra trào *** xăng dầu. Trong kho xăng dầu, ở trạm bơm và hệ thống công nghệ có tới hàng trăm mối nối và đoạn liên kết, đó chính là nơi trở thành nguồn gốc của hao hụt, tổn thất do rò chảy. Chúng ta thường ít chú ý tới loại hao hụt, tổn thất này và coi chúng không đáng kể, nhưng chính loại hao hụt, tổn thất này lại gây nên sự lãng phí lớn. Hao hụt về số lượng còn do quá trình nạp xăng dầu vào các vật chứa bị trào ***; trong quá trình tiếp nhận xăng dầu còn sót lại trong vật chứa, trong ống và phần cặn còn lại trong khi vét để cọ rửa bể; các sự cố ở bể, ở hệ thống công nghệ và ở các thiết bị trong kho. Các hao hụt tổn thất về số lượng, làm giảm chất lượng do bay hơi gây ra khi tiếp nhận, bảo quản và cấp phát, trong đó hao hụt tổn thất trong bảo quản chiếm tỉ lệ chủ yếu và đây cũng là nguyên nhân gây nên hao hụt tổn thất xăng dầu lớn nhất ở kho. Các hao hụt tổn thất về chất lượng xăng dầu ở kho và trong khi bơm chuyển theo đường ống xảy ra do lẫn lộn các sản phẩm với nhau, khi thiếu thận trọng và thực hiện không đúng các chế độ quy định trong tiếp nhận, tồn chứa và cấp phát, đồng thời còn do lượng nước và tạp chất cơ học gây ra. Hao hụt tổn thất xăng dầu còn xảy ra trong quá trình cấp phát lẻ (cấp phát cho xe máy, can). Hao hụt tổn thất trong quá trình này là do để xăng dầu bị trào ***, do sơ ý của người cấp phát, do cấp phát quá số lượng, dụng cụ đo lường không chính xác, do vật chứa sử dụng lâu ngày bị biến dạng như: Phuy, biđông bị phồng, bị dãn nở . Hao hụt tổn thất xăng dầu do bay hơi phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng chủ yếu là do bản chất của từng loại xăng dầu, điều kiện nhiệt độ môi trường và bề mặt thoáng của xăng dầu tiếp xúc với không khí. Ngoài ra một số yếu tố khác như: Điều kiện tồn chứa (khí hậu, thời tiết của khu vực kho), các đặc điểm thiết kế (kích thước, kiểu loại, khả năng chịu áp suất của bể chứa) và chế độ hoạt động của bể chứa (số lượng nhập xuất, luân chuyển trong năm, phằn trăm nhiên liệu chứa trong bể) cũng ảnh hưởng đến lượng hao hụt tổn thất xăng dầu do bay hơi trong quá trình bảo quản, tiếp nhận và cấp phát. Hiện tượng bay hơi chỉ xảy ra khi khoảng trống chứa hơi trong bể chưa bão hoà. Nghĩa là áp suất dư của hơi trong khoảng trống nhỏ hơn áp suất hơi bão hoà ở trên bề mặt của xăng dầu. Trong điều kiện tồn chứa tại kho, độ kín của bể chứa phụ thuộc vào kiểu loại phương tiện chứa đựng và tình trạng kỹ thuật của nó. Do tỷ trọng của hơi hỗn hợp xăng dầu lớn hơn tỷ trọng không khí nên trong một bể kín hiện tượng bay hơi vẫn xảy ra trên bề mặt xăng dầu chứa đựng trong bể. Các phần tử xăng dầu bay hơi sẽ toả ra khắp thể tích khoảng trống do kết quả của sự khuếch tán và dòng đối lưu. Sở dĩ dòng đối lưu xuất hiện trong khoảng trống chứa hơi là do sự tăng, giảm nhiệt độ của không khí bên ngoài môi trường trong một ngày đêm, tác động của ánh nắng mặt trời chiếu vào một phía gây nên. Các dòng đối lưu sinh ra trong khoảng trống bay hơi sẽ làm cho hỗn hợp không khí với hơi xăng dầu bị đảo lộn, đồng thời trực tiếp tạo nên lớp khuyếch tán ranh giới trên bề mặt chất lỏng. Trên phạm vi của lớp ranh giới đó không khí với hơi xăng dầu chỉ di chuyển khi bị khuếch tán mà thôi, còn bên ngoài giới hạn của lớp khuếch tán hiện tượng đối lưu sẽ làm cân bằng nồng độ hơi hỗn hợp trong toàn bộ khoảng trống. Để bể chứa không bị áp suất hơi hỗn hợp của xăng dầu làm biến dạng, phải sử dụng van điều hoà áp lực (van hô hấp). Khi áp suất trong khoảng chứa hơi hỗn hợp lớn hơn áp suất khống chế của van, hơi hỗn hợp sẽ thoát ra ngoài khí quyển qua van điều hoà áp lực. Khi áp suất trong khoảng trống chứa hơi hỗn hợp giảm (có độ chân không nhất định) thì không khí bên ngoài khí quyển qua van điều hoà vào bể. Như vậy khoảng trống chứa hơi hỗn hợp trong bể luôn có sự lưu thông với khí quyển qua van áp lực, đồng thời các phần tử cất nhẹ của xăng dầu bị thoát ra ngoài khí quyển dẫn đến số lượng xăng dầu bị mất đi khá lớn. Nếu xăng dầu bị lẫn nước, khi nhiệt độ môi trường xuống thấp quá sẽ làm kẹt các đĩa van áp lực, có thể gây ra nguy hiểm cho bể chứa. Trong trường hợp này có thể phải tháo bỏ các đĩa van áp lực và như vậy sẽ gây hao hụt tổn thất xăng dầu lớn. Căn cứ vào những tính chất bên trong và điều kiện bên ngoài gây nên tổn thất bay hơi, người ta chia tổn thất bay hơi ở kho thành 2 loại: Tổn thất do “hô hấp nhỏ” (chủ yếu trong điều kiện tồn chứa tĩnh), tổn thất do “hô hấp lớn” (chủ yếu xảy ra trong điều kiện tiếp nhận, cấp phát, bơm chuyển, dồn dịch xăng dầu). - Hao hụt xăng dầu do hô hấp nhỏ: Xăng dầu khi chứa tĩnh tại trong bể, do nhiệt độ khí trời (hoặc áp suất bên ngoài) thay đổi dẫn đến tổn thất xăng dầu do bay hơi gọi là tổn thất do hô hấp nhỏ (tổn thất tĩnh). Nguyên nhân bên ngoài của tổn thất do hô hấp nhỏ là sự thay đổi nhiệt độ và áp xuất không khí, ban ngày trời nắng nhiệt độ tăng lên làm cho nhiệt độ khoảng không trong bể và nhiệt độ lớp xăng dầu trên mặt cũng tăng lên, do đó hơi xăng dầu ở trong bể cũng giãn nở ra. Đồng thời từ mặt thoáng xăng dầu bốc lên rất nhiều phần tử cất nhẹ làm tăng nồng độ hơi xăng dầu trong bể, làm cho áp suất của khoảng không trong bể dần tăng lên. Khi áp suất tăng đến trị số khống chế của van hô hấp thì hỗn hợp không khí và hơi xăng dầu thoát ra ngoài. Ngược lại, ban đêm nhiệt độ giảm xuống làm cho nhiệt độ khoảng không trong bể và mặt thoáng giảm đi, thể tích khí trong bể co lại, đồng thời một phần hơi xăng dầu ngưng tụ lại, giảm bớt nồng độ hơi trong bể, làm cho áp suất của khoảng không trong bể giảm tới khi nhỏ hơn áp suất khống chế của van hô hấp, van mở ra, không khí bổ sung vào bể cho đến khi cân bằng van đóng lại. Đó là quá trình của một lần mở ra và hút vào cuả tổn thất do hô hấp nhỏ, quá trình đó diễn ra thành một chu kỳ một ngày đêm. Áp suất khí quyển tăng hoặc giảm gây nên sự chênh lệch áp suất giữa bên ngoài và bển trong bể làm cho bể sinh ra quá trình “thở ra”, nhưng áp suất khí quyển thay đổi nhỏ và tạm thời nên gây ra tổn thất không đáng kể. Ta có thể dùng công thức thực nghiệm sau để tính lượng tổn thất cho một lần hô hấp nhỏ: (1-7) Trong đó: C - Nồng độ trung bình của hơi xăng dầu (%) V - Thể tích khoảng không trong bể (m3) t - Độ chênh lệch nhiệt độ khoảng không trong bể 1 ngày đêm (°C) - Hao hụt xăng dầu do hô hấp lớn: Tổn thất xăng dầu xảy ra trong quá trình tiếp nhận và cấp phát xăng dầu gọi là tổn thất do hô hấp lớn. Tổn thất xăng dầu do bay hơi là hiện tưọng phần không khí dư bão hoà hơi nhiên liệu thoát ra khỏi bể khi bơm rót nhiên liệu vào bể. Nếu bơm rót nhiên liệu vào bể kín thì hỗn hợp của không khí và hơi nhiên liệu sẽ bị nén lại tới áp suất đã điều chỉnh cho van hô hấp. Ngay sau khi áp suất trong bể đạt tới mức tải của van hô hấp thì nhiên liệu bắt đầu thoát ra khỏi bể. Khi tiếp nhận, mức xăng dầu trong bể dần dần tăng lên, thể tích hỗn hợp khí dần dần giảm xuống, áp suất tăng dần.Nếu áp suất của hỗn hợp khí vượt quá áp suất khống chế của van hô hấp thì van hô hấp sẽ mở ra, hỗn hợp khí bay ra gây nên tổn thất. Nếu áp suất khống chế của van hô hấp càng cao thì hỗn hợp khí bắt đầu bay ra càng muộn, tổn thất càng ít. Khi cấp phát, mức xăng dầu trong bể dần dần giảm đi, thể tích hỗn hợp khí dần dần tăng lên, áp suất giảm dần. Nếu áp suất của hỗn hợp khí nhỏ hơn độ chân không khống chế của van hô hấp thì van hô hấp sẽ mở ra. Không khí chui vào trong bể làm tăng khả năng bốc hơi của xăng dầu. Những trường hợp nêu trên, tính chất của các tổn thất không hoàn toàn giống nhau, nhưng lại cùng nguyên nhân nên gọi là tổn thất do hô hấp lớn. Tổn thất bay hơi do hô hấp lớn phụ thuộc vào mức chứa xăng dầu trong bể. Nếu gọi dung tích của bể là V (m3), hệ số tiếp nhận vào bể là K, khối lượng riêng của hơi xăng dầu là và nồng độ hơi xăng dầu trong hỗn hợp là C thì hao hụt do hô hấp lớn trong một lần tiếp nhận là G1, được tính theo công thức: G1 = K.V C (kg) (1-8) Trong đó: G1 : khối lượng hơi nhiên liệu bay vào khí quyển (kg). K : Hệ số tiếp nhận vào bể V : Thể tích chất lỏng bơm rót vào bể (m3) C : Nồng độ trung bình của hơi nhiên liệu trong bể, phần trăm thể tích  ρ: Khối lượng riêng hơi nhiên liệu ( kg/m3 )’ 1.2 Cơ sở thực tiễn.  1.2.1.Đặc điểm tình hình đơn vị. * Trung đoàn 131 đóng quân ở An Hồng-An Dương- Hải Phòng, thực hiện các nhiệm vụ phân tán trên diện rộng, trải dài từ Bắc vào Nam. Cùng một lúc kết hợp thực hiện nhiều nhiệm vụ trọng tâm như: huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện quân dự bị động viên và xây dựng các công trình quần đảo Trường sa, đảo Song tử, đảo Sinh tồn, xây dựng công trình SQH-02 tại Hoành Bồ-Quảng Ninh, làm hang động CTH-01 Thủy nguyên và tiếp tục thi công công trình TB-04 tại Quảng Trạch-Quảng Bình. Đồng thời xây dựng và tu sửa các hạng mục công trình tại K25 Hải Phòng, tổ chức thi công nhà điều dưỡng chất độc da cam tạ Hải Phòng . Chuẩn bị và làm tốt công tác bảo quản và bảo dưỡng xe máy, chuẩn bị đầy đủ phương tiện, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ Quân Chủng giao. * Đặc điểm ngành xăng dầu: - Ngành xăng dầu trung đoàn 131 trực thuộc Ban Hậu cần, có nhiệm vụ tổ chức quản lý, bảo đảm đầy đủ số lượng, chất lượng xăng dầu phục vụ cho công tác huấn luyện, hoạt động thường xuyên, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của đơn vị  - Ngành xăng dầu trung đoàn 131 được biên chế 1 Trợ lý xăng dầu (do Phó Chủ nhiệm hậu cần kiêm nhiệm), 1 thủ kho kiêm thống kê. Nhìn chung cán bộ, nhân viên ngành xăng dầu được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức trách nhiệm trong công tác. Được trang bị phương tiện tương đối đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý thực hiện định mức hao hụt trong các khâu công tác. Tuy nhiên, do biên chế còn thiếu, chủ yếu là kiêm nhiệm trong công tác còn bị chi phối nhiều, nhân viên xăng dầu chưa qua đào tạo chính quy nên việc quản lý thực hiện định mức hao hụt còn gặp nhiều khó khăn. - Trang bị kỹ thuật: + Phương tiện chứa đựng: Phụ lục 1 + Hệ thống công nghệ: Sơ đồ mặt bằng kho xăng dầu. + Phương tiện tra nạp:Phụ lục 1 * Đặc điểm địa hình, khí hậu, thời tiết khu vực đóng quân: - Địa hình nơi trung đoàn đóng quân là đồng bằng, mạng đường giao thông, kinh tế phát triển thuận lợi trong việc khai thác xăng dầu tại chỗ. - Khí hậu thời tiết khu vực đống quân có 4 mùa rõ rệt, nhiệt độ vào mùa hề có những ngày lên tới 380C, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn, ảnh hưởng lớn đến công tác bảo quản, quản lý thực hiện định mức hao hụt xăng dầu. 1.2.2. Kết quả công tác quản lý thực hiện định mức hao hụt xăng dầu ở trung đoàn 131/Hải Quân.  Bảng 1.7 NĂM XĂNG ĐIÊZEL HẠN MỨC HAO HỤT HẠN MỨC HAO HỤT 2007 52432 840 67276 191 2008 51236 776 47472 190 1.2.3. Một số ưu khuyết điểm trong công tác quản lý thực hiện định mức hao hụt xăng dầu ở trung đoàn 131/ Hải Quân * Ưu điểm: - Quá trình vận chuyển, tiếp nhận xăng dầu đã đi vào nề nếp bảp đảm hao hụt đúng theo quy định, không để xảy ra mất an toàn dù là nhỏ nhất, mẫu biểu sổ sách ghi chép đúng quy định. - Trung đoàn đã đầu tư xây dựng và trang bị kho xăng dầu cơ bản đồng bộ khoa học. - Hệ thống bể chứa, đường ống, lưu trình công nghệ bố trí khép kín, khoa học, dễ sử dụng, các bể chứa xăng dầu được chôn ngầm và xây kín, có nắp đậy bảo đảm hao hụt trong quá trình bảo quản theo quy định. - Trong quá trình bảo quản, thường xuyên nắm chắc số lượng, chất lượng xăng dầu, có sổ sách thống kê riêng cho từng bể. - Đặc biệt lượng xăng dầu dự trữ sẵn sàng chiến đấu và lượng thường xuyên được chứa cùng nhau, bảo đảm lượng xăng dầu dự trữ sẵn sàng chiến đấu luôn được luân lưu đổi hạt và hạn chế bay hơi hao hụt trong quá trình bảo quản. - Có kế hoạch kiểm tra trang thiết bị, vật chứa định kỳ, phát hiện và báo cáo kịp thời khi có vấn đề xảy ra. - Duy trì tốt các chế độ, quy định của ngành. Thực hiện nghiêm các nội dung thanh quyết toán, bảo đảm đúng thủ tục, thời gian và nguyên tắc. * Nhược điểm: - Do biên chế cán bộ còn thiếu chủ yếu là kiêm nhiệm, bị chi phối bởi các hoạt động của đơn vị nên công tác xăng dầu, việc thực hiện định mức hao hụt xăng dầu đôi lúc còn chưa được quan tâm đúng mức. - Các bể chứa đã qua nhiều năm sử dụng, một số trang thiết bị kỹ thuật có dấu hiệu xuống cấp, đặc biệt là độ kín của các van hô hấp. - Bảo quản trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ trung bình cao, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn nên lượng bay hơi hao hụt còn cao. - Hệ thống nắp đậy các bể chứa xăng dầu bị hao mòn và hư hỏng nhiều. - Hệ thống cột tra phục vụ cho cấp phát xăng dầu đã quá hạn sử dụng, lạc hậu nên quá trình cấp phát còn thiếu chính xác, ảnh hưởng đến lượng xăng dầu hao hụt. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Với đặc điểm nhiệm vụ của trung đoàn họat động thường xuyên, phức tạp, các yếu tố khí hậu, thủy văn trên khu vực đóng quân cộng với xăng dầu có những đặc điểm lý hóa khác nhau, các yếu tố chủ quan như phương thức quản lý, biên chế thiếu vắng, năng lực về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên xăng dầu đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện định mức hao hụt xăng dầu của ngành xăng dầu trung đoàn. Những số liệu khảo sát thực tế cho chúng ta thấy mức độ hao hụt xăng dầu trong các khâu: tiếp nhận, cấp phát và bảo quản hiện nay ở kho xăng dầu trung đoàn tuy không vượt quá định mức cho phép, nhưng qua thực tế các yếu tố có liên quan ta vẫn có thể tìm được các biện pháp nâng cao chất lượng việc thực hiện định mức hao hụt xăng dầu ở ngành xăng dầu trung đoàn.  Do vậy, việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp hạn quản lý việc thực hiện định mức hao hụt xăng dầu để góp phần nâng cao chất lượng công tác xăng dầu ở kho xăng dầu Trung đoàn 131 là vấn đề cấp thiết cần giải quyết hiện nay. CHƯƠNG 2 MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ THỰC HIỆN ĐỊNH MỨC HAO HỤT XĂNG DẦU Ở TRUNG ĐOÀN CÔNG BINH 131/HẢI QUÂN 2.1. Hạn chế sự bay hơi hao hụt xăng dầu trong các khâu. 2.1.1. Bảo đảm vật chứa. Vật chứa xăng dầu là các phương tiện chứa đựng, dữ trữ và bảo quản xăng dầu. Nó có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình bảo quản, tiếp nhận và sử dụng xăng dầu. Đặc biệt trong quá trình bảo quản bảo đảm tính bay hơi cho xăng thì vật chứa đóng vai trò quyết định nhằm ngăn ngừa sự bay hơi của các thành phần nhẹ trong xăng từ đó giữ cho xăng không bị hao hụt về số lượng bảo đảm về chất lượng, góp phần thực hiện định mức hao hụt xăng dầu. Để bảo quản được xăng dầu, bảo đảm cho xăng không bị bay hơi mất các thành phần cất nhẹ thì các vật chứa phải đảm bảo một số yêu cầu sau: Trước khi chứa đựng xăng dầu các vật chứa phải được kiểm tra dộ kín, độ sạch, sau đó mới tổ chức chứa đựng xăng dầu. Để đảm bảo độ kín cho các vật chứa tại vị trí kho, ngành xăng dầu phải bố trí các vật chứa phù hợp với địa hình kho, mặt đất để các vật chứa phải bằng phẳng, đầm chặt, tránh để các vật sắc nhọn gây thủng các vật chứa. Các phương tiện chứa đựng nhỏ như can, bi đông phải được để gọn tập trung vào một vị trí, được đánh dấu tránh nhầm lẫn, và trước khi chứa đựng phải kiểm tra độ kín bằng nước hoặc khí nén, phải đánh rửa sạch sẽ các phương tiện. Đối với các vật chứa lớn như bể, xi téc, để nổi trên mặt đất phải kiểm tra bề mặt, đánh rửa hết lớp gỉ bên trong và bên ngoài bể, tiến hành bọc bể theo đúng quy định, kiểm tra độ kín bằng khí nén và đo áp suất sau một thời gian. 2.1.2 Hạn chế bay hơi hao hụt tự nhiên trong quá trình bảo quản Trong quá trình bảo quản do sự thay đổi nhiệt độ, áp suất không khí hàng ngày và thay đổi áp suất hơi nhiên liệu, trong khoảng trống của bể chứa nhiên liệu sẽ xảy ra hiện tượng tổn thất bay hơi do “hô hấp nhỏ”. Hiện tượng bay hơi do “hô hấp nhỏ” là hiện tượng hơi nhiên liệu thoát ra khỏi bể do nhiệt độ nhiên liệu trong bể tăng lên, hoặc do áp suất khí quyển giảm đi. Và hiện tượng không khí xâm nhập vào bể khi nhiên liệu giảm xuống hoặc áp suất khí quyển tăng lên. Lượng bay hơi hao hụt do “hô hấp nhỏ” phụ thuộc chủ yếu vào diện tích mặt thoáng trong bể và độ chênh lệch nhiệt độ khoảng trống trong bể. Vì vậy để hạn chế bay hơi hao hụt tự nhiên phải giảm diện tích mặt thoáng trong bể và giảm độ chênh lệch nhiệt độ khoảng không trong bể trong một ngày đêm (thực chất là giảm nhiệt độ bảo quản vào ban ngày - khi nhiệt độ cao hơn ban đêm).  * Giảm diện tích mặt thoáng:  Hiện nay các bể chứa xăng dầu ở Trung đoàn 131 là các bể chứa chịu áp suất thấp mà việc kết cấu lại bể hoặc thay bể chịu áp suất cao là không khả thi. Vì vậy trong thời gian tới đề nghị ngành xăng dầu trung đoàn 131 có thể áp dụng một số biện pháp để giảm diện tích mặt thoáng trong bể. Chuyên đề xin đề xuất các biện pháp sau:  -Sử dụng các bi cầu rỗng bằng chất dẻo: Ưu điểm của phương pháp này là dụng được cho các loại bể có kết cấu khác nhau mà không cần vốn kết cấu lại bể. Mặt khác giá thành hạ, không phải bảo dưỡng, sửa chữa trong thời gian sử dụng. Các bi cầu rỗng được làm bằng nhựa cácbônít, bên trong chứa đầy khí Nitơ. Trọng lượng thể tích của chúng là 59,2 kg/m3, đường kính của mỗi viên bi từ 2 đến 60 mm. Loại bi này không làm ảnh hưởng đến chất lượng xăng dầu và không tác dụng với xăng dầu nên thời gian sử dụng được lâu. Lớp bi này được phủ lên bề mặt xăng dầu dầy từ 13 đến 50mm.  Qua thực tế sử dụng người ta thấy sử dụng bi cầu rỗng với bể chứa xăng dầu thì hao hụt giảm được 35%. Thời gian sử dụng bi cầu rỗng phụ thuộc vào hệ số lưu chuyển của bể chứa.  Khi sử dụng các bi cầu rỗng, trong quá trình bơm nhiên liệu ra có thể các bi này cuốn theo dòng nhiên liệu khi bơm chuyển, vì vậy phải làm lưới chắn bảo vệ, mắt lưới phải nhỏ hơn đường kính bi bảo đảm không cho bi lọt qua, đồng thời phải chú ý điều chỉnh lưu lượng bơm chuyển cho phù hợp, hạn chế hiện tượng bi bị cuốn theo dòng nhiên liệu.  - Sử dụng các loại nhũ tương và màng hoạt tính bề mặt: Để bảo vệ bề mặt xăng khỏi bị bay hơi ta phủ các hóa chất đặc biệt như nhũ tương hoặc lớp màng làm bằng các chất hoạt tính bề mặt trên bề mặt xăng dầu. Các chất này với số lượng không lớn lắm sẽ làm biến đổi các tính chất bề mặt và ranh giới phân chia các pha. Để đạt được hiệu quả cao nên sử dụng các chất có chứa Flo, các hợp chất có chứa Flo có hệ số loang bề mặt lớn và tạo thành lớp màng bền vững trên bề mặt xăng dầu. Kết quả thí nghiệm cho thấy cứ thêm vào xăng khoảng 0.003% trọng lượng chất hoạt tính C7F15CONHC3H6N(CH3)3I – một loại hóa chất phức tạp của Flo thì giảm khả năng hao hụt do bay hơi được 75% so với không có chất phức của Flo.  - Chứa đầy, chứa gọn: Trong thời gian vừa qua ở ngành xăng dầu trung đoàn 131 cơ bản thực hiện tốt việc chứa đầy, chứa gọn. Tuy nhiên, các bể chứa xăng dầu ở kho xăng dầu trung đoàn 131, việc xác định mức xăng chứa chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Vì vậy, trong thời gian tới đề nghị ngành xăng dầu trung đoàn 131 trước khi tiếp nhận xăng dầu vào bể phải tính toán được mức chứa tối ưu cho lượng xăng dầu chuẩn bị nhập vào bể. Trước khi tiếp nhận phải nắm chắc số lượng, mã hiệu xăng dầu còn lại trong các bể và số lượng, mã hiệu xăng dầu sắp tiếp nhận. Trên cơ sở đó tính toán sao cho sau khi tiếp nhận xong bể được chứa đầy, chứa gọn, giảm khoảng trống trong bể, bởi mức xăng dầu chứa trong bể khác nhau thì tổn thất bay hơi cũng khác nhau [Bảng2-1].  Bảng 2-1. Tổn thất xăng phụ thuộc vào mức chứa (Tham khảo) Mức chứa (%) 90 80 60 40 20 Tổn thất (%V) 0,35 0,5 1,4 3,0 8,0 So sánh (%) 100 143 400 857 2285 Mức chứa xăng dầu trong bể phải căn cứ vào tính chất lý hóa của loại sản phẩm chứa, nhiệt độ sản phẩm lúc chứa và cao nhất trong thời gian bảo quản. Thể tích chứa lớn nhất xác định theo công thức: Vchứa = V- α.V.(t2-t1) Vchứa = V.[1-α.(t2-t1)] (m3) Trong đó: V là thể tích có thể chứa được của vật chứa, m3 t1 là nhiệt độ của xăng dầu lúc chứa, 0C t2 là nhiệt độ của xăng dầu lúc cao nhất trong thời gian bảo quản, 0C α là hệ số giãn nở của xăng dầu được xác định theo bảng 2-2 sau: Bảng 2-2. Hệ số giãn nở của xăng dầu Tỷ trọng của nhiên liệu α Tỷ trọng của nhiên liệu α 0.700 - 0.710 0.710 - 0.720 0.720 - 0.730 0.730 - 0.740 0.740 - 0.750 0.750 - 0.760 0.760 - 0.770 0.00127 0.00123 0.00120 0.00116 0.00113 0.00110 0.00107 0.850 - 0.860 0.860 - 0.870 0.870 - 0.880 0.880 - 0.890 0.890 - 0.900 0.900 - 0.910 0.910 - 0.920 0.00079 0.00078 0.00077 0.00074 0.00072 0.00070 0.00068 * Giảm độ chênh lệch nhiệt độ nhiên liệu trong bể chứa giữa ban ngày và ban đêm: Trong quá trình bảo quản do sự thay đổi nhiệt độ, áp suất không khí hàng ngày và thay đổi áp suất hơi nhiên liệu, trong khoảng trống của bể chứa nhiên liệu sẽ xảy ra hiện tượng tổn thất bay hơi do “hô hấp nhỏ”. Khi áp suất bên ngoài không đổi, áp suất trong bể chứa nằm trong khoảng khống chế của van hô hấp thì hao hụt do hô hấp nhỏ sẽ không xảy ra, bởi vậy muốn giảm chênh lệch nhiệt độ nhiên liệu trong bể giữa ban ngày và ban đêm cần phải giảm biên độ dao động nhiệt độ trong bể bằng cách làm mát cho bể. Hiện nay, ngành xăng dầu trung đoàn 131 đã áp dụng một số biện pháp để giảm biên độ dao động nhiệt độ trong bể như chôn ngầm các bể chứa xăng dầu, xung quanh trồng cây bóng mát. Để giảm bay hơi hao hụt trong quá trình bảo quản còn có thể áp dụng một số biện pháp khác như tưới nước cho bể hoặc phun mù làm mát. Tuy nhiên, các bể chứa xăng dầu của ngành xăng dầu trung đoàn 131 đều là các bể viên trụ nằm khi áp dụng phương pháp tưới nước làm mát hiệu quả sẽ không cao. Vì vậy để giảm chênh lệch nhiệt độ nhiên liệu trong bể chứa giữa ban ngày và ban đêm ngành xăng dầu trung đoàn 131 cần đầu tư hệ thống phun mù làm mát. Phun mù làm mát khác với tưới nước về nguyên lý, kết cấu và đạt hiệu quả cao hơn. - Hàng ngày thời gian phun là 10 tiếng: từ 7 giờ đến 17 giờ hoặc từ 8 giờ đến 18 giờ. - Vào mùa đông, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm không lớn, nên trong một năm chỉ cần phun khoảng 8 đến 10 tháng trừ mùa đông. - Trong quá trình sử dụng hệ thống phun mù làm mát ngành xăng dầu phải có biện pháp bảo đảm cho việc phun được liên tục bởi nếu phun bị ngắt đoạn thì không những không giảm được tổn thất mà còn làm tăng tổn thất, hao hụt. - Khi sử dụng phương pháp phun mù làm mát các bể thường xuyên phải tiếp xúc trực tiếp với hơi nước, mà các bể chứa thường bằng thép, có khả năng tương tác với nước cao, dễ bị ăn mòn do đó có thể gây rò rỉ xăng dầu trong bảo quản.Vì vậy, để thực hiện được biện pháp này trước hết cần sơn chống gỉ, sơn nhũ và bôi mỡ chịu nước cho các bu lông để chống gỉ. Việc sơn nhũ phải được tiến hành 2 năm 1 lần. Khi sơn chống gỉ nên chọn loại sơn có màu sáng (trắng), bởi màu sơn có ảnh hưởng lớn đến lượng xăng dầu bay hơi hao hụt [Bảng 2-3]. Bảng 2-3. Mức độ ảnh hưởng của màu sơn đến lượng xăng dầu bay hơi hao hụt (Tham khảo) Diễn giải Đơn vị tính Màu sơn Trắng Xanh Sẫm Tổn thất 1 năm So sánh %V % 1.15 100 1.33 116 1.52 133 2.1.3. Hạn chế bay hơi hao hụt do “hô hấp lớn” Trong thao tác mỗi lần bơm chuyển xăng dầu vào bể, bơm chuyển xăng dầu từ bể này

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý thực hiện định mức hao hụt xăng dầu ở trung đoàn 131 - Hải quân.doc
Tài liệu liên quan