MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
I. Sơ nét về NHTM CP Á Châu (ACB)
1. Giới thiệu chung về tập đoàn 2
2. Sơ nét về tình hình tài chính 5
3. Phân tích SWOT 7
4. Định hướng phát triển 13
II. Những rủi ro mà ACB có thể gặp 14
1. Những rủi ro đặc thù của ngành NH 14
2. Rủi ro thanh khoản do tin đồn thất thiệt 18
III. Phương án trên lý thuyết để QTRR 21
1. Rủi ro về lãi suất 21
2. Rủi ro về tín dụng 22
3. Rủi ro ngoại hối 22
4. Rủi ro về thanh khoản 23
5. Rủi ro về luật pháp 24
IV.Phương án tối ưu: trong hiện tại và tương lai trên thực tế 24
1. Rủi ro lãi suất 24
2. Rủi ro tín dụng 25
3. Rủi ro ngoại hối 26
4. Rủi ro về thanh khoản 26
5. Rủi ro hoạt động ngoại bảng 30
6. Rủi ro về luật pháp 31
7. Rủi ro khác 31
V. Bài học kinh nghiệm 32
Kết luận 36
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5416 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quản trị rủi ro thanh khoản cho ngân hàng ACB trước tin đồn thất thiệt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trong nước đã bán cổ phần hoặc liên doanh liên kết để tăng thêm nguồn vốn, nhưng mặt bằng chung là vẫn nhỏ so với thực tế.Vì vậy các ngân hàng sẽ gặp khó khăn khi có những tình huống phát sinh liên quan đến việc chi trả tiền mặt một loạt cho khách hàng. Không những vậy, với năng lực tài chính hạn chế thì ngân hàng khó mà tiếp cận được các dự án đòi hỏi số vốn lớn.
4. Định hướng phát triển:
Qua phân tích Ma trận SWOT, ta có thể thấy được chiến lược phát triển của ACB thể hiện ở một số điểm như sau:
- Mở rộng quy mô hoạt động của các phòng giao dịch, chi nhánh, mở rộng mạng lưới trong và ngoài nước
- Tạo sự tiện ích cao nhất cho khách hàng, giữ khách hàng trung thành, tìm kiếm khách hàng mới, nâng cao vị thế là đơn vị đầu tàu của ngành ngân hàng Việt Nam, vươn lên tầm khu vực và thế giới
- Tăng cường công tác thông tin, quảng bá ngân hàng nhằm giữ vững uy tín, tránh các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng đến hoạt động chung.
- Mức độ cạnh tranh hiện nay trên thị trường Tài chính Ngân hàng ở Việt Nam ngày càng khốc liệt với sự gia nhập không chỉ của các ngân hàng nội địa mà còn có khá nhiều tên tuổi ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam như HSBC, Standard Chartered, ANZ, Hong Leong (Malaysia) và Shinhan (Hàn Quốc) với nguồn vốn mạnh, kinh nghiệm, nguồn nhân lực trình độ cao với những mô hình hoạt động hiện đại. Do đó ACB cần tự thay đổi mình, bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới dựa trên những thế mạnh sẵn có (so với các NH khác trong nước : vốn, nguồn nhân lực, uy tín, khách hàng…..)
II. Những rủi ro mà ngân hàng ACB có thể gặp:
1. Những rủi ro đặc thù của ngành ngân hàng:
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là những biến cố không mong đợi mà khi xãy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
Qua khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét sau để hiểu rõ hơn về bản chất của rủi ro:
Một là, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định.
Hai là, khi đề cập đến rủi ro, người ta thường nhắc đến hai yếu tố mang tính đặc trưng của rủi ro là biên độ rủi ro: mức độ thiệt hại do rủi ro gây ra và tần suất xuất hiện rủi ro: số trường hợp thuận lợi để rủi ro xuất hiện/tổng số trường hợp đồng khả năng.
Ba là, rủi ro là yếu tố khách quan nên người ta không thể nào loại trừ được hẳn mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện và những tác hại của chúng gây ra.
Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng:
Rủi ro về lãi suất: Lãi suất được định nghĩa là chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó. Trong Ngân hàng có 2 loại lãi suất : lãi suất cho vay và lãi suất huy động, chúng tạo ra thu nhập và chi phí cho Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất là một loại giá cả luôn biến động theo quy luật cung cầu. Rủi ro lãi suất mà Ngân hàng phải gánh chịu là sự biến động về lãi suất làm thay đổi tiền lãi của Ngân hàng. Chẳng hạn, lãi suất cho vay giảm trong khi lãi suất tiền gửi hoặc trái phiếu giữ nguyên làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Những thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra làm cho chi phí nguồn vốn cao hơn thu nhập từ sử dụng vốn làm cho kinh doanh Ngân hàng bị thua lỗ.
Rủi ro về tín dụng: Là rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng và là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên nhất vì các món cho vay của Ngân hàng thương mại chiếm tới 2/3 tổng tài sản có. Hoạt động cho vay sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho các Ngân hàng thương mại nếu các khoản tín dụng được cấp ra không gặp phải rủi ro, ngược lại các khoản tín dụng được cấp ra cũng có thể gây nên nhiều phiền toái, tổn thất cho Ngân hàng nếu các khoản tín dụng đó không được thu hồi cả gốc và lãi. Trong nhiều trường hợp rủi ro tín dụng quá lớn so với vốn tự có của Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thậm chí có thể bị vỡ nợ hoặc phá sản.
Rủi ro về ngoại hối: Tỷ giá của các đồng ngoại tế biến đổi không ngừng dẫn đến việc kinh doanh ngoại hổi cũng luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro . Những rủi ro này có thể phát sinh thông qua các hoạt động khi ngân hàng giao dịch các đồng tiền nước ngoài nhằm phục vụ cho khách hàng hoặc cho chính bản thân mình. Vì vậy bị ảnh hưởng từ loại rủi ro này không chỉ là phía ngân hàng mà con cả đối với khách hàng. Hoạt động ngoại hối của ACB chủ yếu nhằm phục vụ thanh toán quốc tế cho khách hàng doanh nghiệp. Các hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường quốc tế chiếm tỉ trọng không lớn.
Rủi ro về thanh khoản: Rủi ro thanh toán phát sinh khi dân chúng mất lòng tin vào Ngân hàng hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được đòi hỏi Ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường. Trong bối cảnh đó, hầu hết các ngân hàng đều phải đối phó với tình huống tương tự, thì chi phí để huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp càng ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả người gửi tiền đồng loạt yêu cầu chi trả toàn bộ tiền gửi của họ thì dẫn đến Ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá sản.
Rủi ro từ hoạt động ngoại bảng: của ACB chủ yếu bao gồm các khoản cam kết cho vay và các hình thức bảo lãnh. Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của một Ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng. Theo định nghĩa hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản ( nội bảng). Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng tới trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng, bởi vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng. Ví dụ về hoạt động ngoại bảng của Ngân hàng như phát hành tín dụng dự phòng bảo lãnh cho công ty phát hành trái phiếu. Rất nhiều công ty không thể phát hành được trái phiếu nếu không có bảo lãnh thư của ngân hàng.
Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoai bảng là Ngân hàng thu được lãi trong khi không phải sử dụng vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, những hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì Ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty đó phát hành, điều này dẫn đến bảo lãnh thư đã trở thành một bộ phận trong bảng cân đối tài sản nội bảng, nghĩa là Ngân hàng phải sử dụng vốn kinh doanh của mình để trang trải những gì cam kết trong thư bảo lãnh. Trong thực tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã trở thành những nguyên nhân chính khiến cho Ngân hàng có thể phá sản.
Rủi ro luật pháp: liên quan đến những sự cố hoặc sai sót trong quá trình hoạt động kinh doanh làm thiệt hại cho khách hàng và đối tác dẫn đến việc ngân hàng bị khởi kiện. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro này là do con người hoặc hệ thống công nghệ thông tin.
Rủi ro khác: liên quan đến các trường hợp bất khả kháng như: thiên tại, lụt lội, cháy, nổ v.v… Ngoài ra còn có rủi ro vận hành: là những tổn thất phát sinh do cơ chế vận hành của ngân hàng không thích hợp, không tuân thủ đúng các qui trình, quy định nội bộ, nhầm lẫn của con người, các hành động ngoại vi như lừa đảo, tin tặc v.v…
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong kinh doanh ngân hàng: có 3 nhóm nguyên nhân dẫn đến rủi ro:
Nhóm nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị ngân hàng:
Do không quản lý chặt chẽ thanh khoản dẫn đến thiếu khả năng chi trả
Cho vay và đầu tư quá mức, ví dụ tập trung cho vay quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành nào đó; trong đầu tư chỉ chú trọng vào một loại chứng khoán có rủi ro cao
Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ dẫn đến cho vay hoặc đầu tư không hợp lý.
Do hoạt động kinh doanh trái pháp luật, tham ô...
Do cán bộ ngân hàng thiếu đạo đức nghề nghiệp, yếu kém về trình độ
nghiệp vụ.
Nhóm nguyên nhân thuộc về phía khách hàng:
Do khách hàng vay vốn thiếu năng lực pháp lý.
Do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả.
Khách hàng kinh doanh thua lỗ liên tục, hàng hoá không tiêu thụ được.
Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu khả năng thanh khoản.
Chủ doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực điều hành, tham ô, lừa đảo.
Nhóm nguyên nhân khách quan từ môi trường hoạt động kinh doanh:
Do thiên tai, hoả hoạn.
Tình hình an ninh, chính trị trong nước, khu vực không ổn định.
Do khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế, lạm phát, mất cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế dẫn đến tỷ giá hối đoái biến động bất thường.
Môi trường pháp lý bất lợi, lỏng lẻo trong quản lý vĩ mô.
Ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
Rủi ro xảy ra sẽ gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng. Những tổn thất thường gặp là mất vốn khi cho vay, gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận, giảm sút giá trị của tài sản,...
Rủi ro làm giảm uy tín của ngân hàng, sự tín nhiệm của khách hàng và có thể đánh mất thương hiệu của ngân hàng. Một ngân hàng kinh doanh bị lỗ liên tục hoặc thường xuyên không đủ khả năng thanh khoản có thể dẫn đến một cuộc rút tiền quy mô lớn và con đường phá sản là tất yếu.
Rủi ro khiến ngân hàng bị lỗ và bị phá sản, sẽ ảnh hưởng đến hàng ngàn người gửi tiền, hàng ngàn doanh nghiệp không được đáp ứng vốn... làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng cao, sức mua giảm sút, thất nghiệp tăng, gây rối loạn trật tự xã hội, và hơn nữa sẽ kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng trong nước và khu vực. Ngoài ra, sự phá sản của một ngân hàng sẽ dẫn đến sự hoảng loạn của hàng loạt ngân hàng khác và ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế.
2. Rủi ro thanh khoản do tin đồn thất thiệt:
Rủi ro thanh khoản:
Tính thanh khoản của ngân hàng thương mại được xem như khả năng tức thời (the short-run ability) để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết. Như vậy, rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi ngân hàng không có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung ứng đủ nhưng với chi phí cao. Nói cách khác, đây là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
Quản trị rủi ro thanh khoản là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh khoản (tính lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục của nguồn vốn.
Bản chất của hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản trong ngân hàng có thể đúc kết ở hai nội dung sau:
Một là, hiếm khi nào tại một thời điểm mà tổng cung thanh khoản bằng với tổng cầu thanh khoản. Do vậy, ngân hàng phải thường xuyên đối mặt với tình trạng thâm hụt hay thặng dư thanh khoản.
Hai là, thanh khoản và khả năng sinh lời là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau, nghĩa là một tài sản có tính thanh khoản càng cao thì khả năng sinh lời của tài sản đó càng thấp và ngược lại; một nguồn vốn có tính thanh khoản càng cao thì thường có chi phí huy động càng lớn và do đó, làm giảm khả năng sinh lời khi sử dụng để cho vay.
Ngân hàng cần dự trữ thanh khoản để chi trả những chi phí thường xuyên, như lãi tiền gửi..., và cả những cú sốc thanh khoản không mong đợi, như một cuộc rút tiền gửi hàng loạt hay yêu cầu vay vốn lớn. Một ví dụ điển hình cho cú sốc thanh khoản là nhiều người đổ xô đến ngân hàng rút tiền ở cùng một thời điểm. Trong hoàn cảnh đó, hầu như không một ngân hàng nào có thể đáp ứng hết những yêu cầu này và dễ dẫn đến nguy cơ sụp đổ, ngay cả khi ngân hàng đó chưa mất khả năng thanh toán. Tất nhiên, khả năng dự trữ thanh khoản kém chưa hẳn sẽ đưa đến sự sụp đổ của một ngân hàng, nhưng chắn chắc, ngân hàng sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để ứng phó với một cú sốc thanh khoản không lường trước. Và điều đó sẽ làm giảm đáng kể lợi nhuận của ngân hàng và suy đến cùng khả năng sụp đổ là hoàn toàn có thể.
Thanh khoản mang ý nghĩa thời điểm rất lớn, theo nghĩa, một số yêu cầu thanh khoản là tức thời hoặc gần như tức thời. Chẳng hạn, một khoản tiền gửi lớn đến hạn và khách hàng không có ý định tiếp tục duy trì số vốn này tại ngân hàng; khi đó, ngân hàng buộc phải tìm kiếm các nguồn vốn có thể sử dụng ngay như vay từ TCTD khác. Ngoài ra, yếu tố thời vụ, chu kỳ cũng rất đáng quan trọng trong việc dự kiến cầu thanh khoản dài hạn. Ví dụ, cầu về thanh khoản thường rất lớn vào mùa hè, cuối hè gắn với ngày tựu trường, ngày nghỉ và các kế hoạch du lịch của khách hàng. Việc kế hoạch được những yêu cầu thanh khoản này, sẽ giúp ngân hàng hoạch định được nhiều nguồn đáp ứng cầu thanh khoản dài hạn hơn là trong trường hợp đối với cầu thanh khoản ngắn hạn.
Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản:
Nguyên nhân bên ngoài:
Khủng hoảng nền kinh tế
Khủng hoảng khu vực tài chính
Các tin đồn thất thiệt …
Nguyên nhân từ phía tổ chức:
Không dự tính trước nhu cầu tài trợ khoản cho vay
Không đáp ứng nhu cầu rút tiền ngay
Thiếu da dạng hóa các loại hình tài trợ, các loại tiền
Mất cân đối về thời gian đáo hạn
Rủi ro thanh khoản cục bộ trong từng loại tiền tệ
Giảm sút uy tín đối với công chúng
Rủi ro thanh khoản của ngân hàng ACB do tin đồn thất thiệt:
Đầu năm 2003, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) vẫn đang kinh doanh hiệu quả. Lợi nhuận 9 tháng đầu năm 2003 của ngân hàng này tăng 20% so với cùng kì năm 2002 (đạt xấp xỉ 170 tỷ đồng). ACB rất được khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm khi gửi tiền vào. Chính vì vậy tin đồn “Tổng giám đốc của ACB Phạm Văn Thiệt bỏ trốn” đã gây nên một cú “sốc” trong dư luận người dân TP.HCM, đặc biệt là những người có tiền gửi ở ACB.
Sau đây là một số diễn biến chính của sự việc:
Đầu tháng 10/2003, bắt đầu có những lời xì xào, bàn tán đầu tiên rằng tổng giám đốc (TGĐ) ACB đã bỏ trốn.
Khoảng một tuần sau, vào ngày chủ nhật(12/10) và thứ 2 (13/10), tin đồn lan rộng trong dư luận TP.HCM.
Ngày 14/10/2003, tình trạng căng thẳng lên đến “đỉnh điểm” khi hàng ngàn người dân đổ xô đi rút tiển ở hội sở chính của ACB trên đường Nguyễn Thị Minh Khai và chi nhánh tại số 30 Mạc Đĩnh Chi (Quận 1- TP.HCM). Tại hai địa điểm này dân chúng tập trung đông đến nỗi tràn xuống cả lòng đường gây ùn tắc giao thông nhiều giờ. Chính điều này đã đẩy tâm lí người dân đễn chỗ hoang mang, lo sợ thực sự. Rất may, xuất hiện kịp thời trước đông đảo người dân của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Đức Thuý bên cạnh ông TGĐ Phạm Văn Thiệt cùng đại diện chính quyền Thành phố đã là lời bác bỏ tin đồn hùng hồn nhất.
Ngày hôm sau, 15/10, mặc dù người dân vẫn kéo đến rút tiền rất nhiều, nhưng cùng với các cá nhân và các cơ quan có trách nhiệm, các cơ quan báo chí đồng loạt có những tin, bài quan trong bác bỏ thông tin sai sự thật trên. Vì thế, đến cuối ngày, tình hình đã dịu xuống. Khách hàng đã bắt đầu đem tiền gửi trở lại ACB.
Ngày 16/10, sự cố gần như đã được dẹp bỏ.
Sau một tuần, mọi chuyện đã trở lại bình thường. ACB khôi phục lại mọi hoạt động của mình. Thậm chí lúc này, lượng khách hàng đến gửi tiền còn đông hơn trước lúc xảy ra sự cố.
Có thể thấy nguyên nhân đặt ACB trước rủi ro thanh khoản trong trường hợp này xuất phát từ nguyên nhân bên ngoài là “tin đồn thất thiệt” (TGĐ ACB bỏ trốn) dẫn đến việc rút tiền hàng loạt. Đây là nguyên nhân được đánh giá khiến “các ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết và có hiệu quả thanh khoản của ngân hàng”.
Sự cố này chỉ thực sự diễn ra trong một thời gian rất ngắn (khoảng 3 ngày) nhưng có tính chất vô cùng nghiêm trọng. Cũng là lần đầu tiên ngành Ngân hàng và nền kinh tế Việt Nam phải đối phó với một tình huống đặc biệt như vậy. Nếu không nhờ những biện pháp tích cực, đồng bộ và hợp lý thì nguy cơ xảy ra một hiệu ứng domino trong toàn Ngành Ngân hàng (người dân sẽ rút tiền ở tất cả các Ngân hàng) là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Lúc đó thì hậu quả thật khó mà tưởng tượng nổi.
III. Phương án trên lý thuyết để quản trị rủi ro:
1. Rủi ro về lãi suất: Một vài công cụ có thể sử dụng để quản lý rủi ro lãi suất bao gồm:
Thỏa thuận lãi suất kỳ hạn (FRA): là một hợp đồng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng để mua hoặc bán các khoản hoàn trả lãi suất theo một mức vốn góc danh nghĩa, được chuyển giao bằng tiền mặt. Người mua FRA nhận được quyền khóa mức lãi suất cố định trong một thời hạn mong muốn bắt đầu từ một thời điểm trong tương lai.
Hợp đồng tương lai về lãi suất: tính thanh khoản cao của thị trường tương lai lãi suất và những rủi ro lãi suất khá chuẩn hóa mà các công ty phải đối mặt đã giúp cho công cụ này trở nên thông dụng và sử dụng khá rộng rãi điển hình là : hợp đồng EURO giao dịch trên Chicago Mercantile Exchange (CME) và hợp đồng tương lai lãi suất theo Trái phiếu kho bạc Mỹ trên Chicago Board of Trade (CBOT).
Hoán đổi lãi suất: thỏa thuận các hợp đồng nhằm trao đổi các dòng tiền thường là các khoản thanh toán lãi suất theo hợp đồng nợ.
2. Rủi ro về tín dụng: Vận dụng một cách có hiệu quả các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng như: mô hình chất lượng, mô hình Moody’s và Standard & Poor’s, mô hình điểm số Z, và mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng. Ngoài ra còn có thể áp dụng các biện pháp sau:
-Thiết lập quỹ dự phòng cho những khoản nợ khó đòi, nợ quá hạn.
- Mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay.
- Phân chia giới hạn rủi ro: không tập trung vốn cho một số khách hàng mà cho nhiều người vay, nhiều ngân hàng cùng tài trợ cho một khách hàng, hoặc ngân hàng phân tán rủi ro theo từng ngành nghề hoạt động kinh doanh theo xu thế phát triển và mức độ tăng trưởng của từng ngành.
- Phân tích tình hình khách hàng theo mô hình chất lượng trước khi quyết định tín dụng.
- Dự đoán yếu tố môi trường kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh như lạm phát, chính trị, tỷ giá hối đoái …
- Nâng cao chất lượng công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng.
- Tham gia trung tâm thông tin tín dụng.
3. Rủi ro ngoại hối:
- Giao dịch kỳ hạn: Mục đích của các hợp đồng kỳ hạn là nhằm loại trừ những khả năng không chắc chắn về tỷ giá giao ngay tại thời điểm tín dụng đến hạn. Như vậy, thay vì chờ đến tận thời điểm cuối năm, mới chuyển lượng ngoại tệ thu được thành nội tệ với một mức tỷ giá giao ngay chưa biết trước, thì ngân hàng có thể tại thời điểm ngày hôm nay bán có kỳ hạn 1 năm lượng ngoại tệ dự tính sẽ thu được bao gồm cả gốc và lãi tại mức tỷ giá kỳ hạn đã biết để nhận nội tệ. Việc giao nhận giữa ngoại tệ và nội tệ được thực hiện tại thời điểm cuối năm. Như vậy, bằng cách bán kỳ hạn số ngoại tệ dự tính thu được với một tỷ giá đã được xác định ngay ngày hôm nay, ngân hàng đã tránh được rủi ro do tỷ giá biến động tại thời điểm cuối năm và do đó, đảm bảo được mức lợi tức dự tính trong hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ.
- Hợp đồng tương lai: Thay vì sử dụng nghiệp vụ kỳ hạn, ngân hàng cũng có thể sử dụng các hợp đồng tương lai được giao dịch trên cơ sở có tổ chức. Cần phải xác định số lượng hợp đồng mà ngân hàng phải bán là số lượng mà sao cho lợi nhuận thu được từ các hợp đồng tương lai này để bù đắp mọi thua lỗ từ khoản tín dụng bằng ngoại tệ khi giá trị đồng ngoại tệ giảm so với đồng nội tệ.
- Giao dịch quyền chọn: Giống như hoạt động của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu, nhà đi vay và cho vay bằng ngoại tệ bảo hiểm rủi ro ngoại hối thông qua hợp đồng quyền chọn tiền tệ, một khả năng tương tự là việc các ngân hàng cũng có thể sử dụng được các hợp đồng quyền chọn nhằm bảo hiểm rủi ro ngoại hối. Tuy nhiên, chúng ta phải trả một khoản chi phí nhất định khi tham gia giao dịch này và khoản chi phí này sẽ chênh lệch nhau phù thuộc vào các yếu tố: sự tồn tại rủi ro cơ bản, tính thanh khoản của thị trường, kỳ hạn của hợp đồng và bản chất của quyền chọn.
- Giao dịch hoán đổi tiền tệ: Hoán đổi tiền tệ được các ngân hàng sử dụng rất phổ biến. Trong trường hợp các tiền tệ trên bảng cân đối tài sản không cân xứng với nhau, chúng ta dễ thấy rằng trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì phần gốc và phần lãi đều được bao gồm trong hợp đồng. Đối với giao dịch hoán đổi lãi suất thì chỉ phần thanh toán lãi suất là bao gồm trong hợp đồng. Lý do là vì trong giao dịch hoán đổi tiền tệ thì cả phần gốc và phần lãi đều bộc lộ rủi ro ngoại hối.
4. Rủi ro về thanh khoản:
Duy trì dự trữ đáp ứng nhu cầu thanh khoản:
+ Đáp ứng nhu cầu dự trữ bắt buộc
+ Đáp ứng nhu câu dự trữ theo cân đối của TCTD
Phân tích luồng tiền dự kiến:
+ Khối lượng rót vốn dự kiến của các khoản cho vay
+ Mức độ chấp nhận của các đơn xin vay đang xem xét
+ Mức độ quay vòng bình thường của các khoản tiền gửi có kỳ hạn
+ Thời gian đáo hạn thực của tiền gửi không kỳ hạn
Quản lý khe hỡ:
+ Xác định cung thanh khoản
+ Xác định cầu thanh khoản
+ Các kỹ năng xử lý khe hở thanh khoản
Thiết lập các hạn mức an toàn thanh khoản
+ Thang đáo hạn
+ Qui định hạn mức tỷ lệ tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền huy động ngắn hạn, cho vay tiêu dùng….
Đa dạng các hình thức cho vay, đầu tư và duy trì các tài sản có tính lỏng khác nhau
Xây dựng kế hoạch dự phòng để đối phó với trường hợp khủng hoảng thanh khoản
+ Có phương án xử lý khủng hoảng
+ Tìm kiếm sự hỗ trợ của các tổ chức khác
5. Rủi ro về luật pháp:
Để phòng chống rủi ro này, Ngân hàng chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ chính theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Đến tháng 9/2006 các quy trình nghiệp vụ chính đã được chuẩn hóa bao gồm: nghiệp vụ tiền gủi, chuyển tiền, tín dụng, bao thanh toán, nghiệp vụ quyền chọn, kinh doanh vàng và ngoại hối. Bên cạnh đó các quy trình trong quản lý bao gồm: tuyển dụng, đào tạo, đánh giá nội bộ, thiết kế và phát triển sản phẩm, quản lý tài sản khách hàng, v.v. đã được tiêu chuẩn hóa. Hệ thống công nghệ thông tin của ngân hàng thường được cải tiến để nâng cao tính ổn định, an toàn và bảo mật. Ban pháp chế thuộc Khối Giám sát điều hành của Ngân hàng có nhiệm vụ chính trong việc đảm bảo các quyền lợi hợp lý và hợp pháp trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
IV. Phương án tối ưu: trong hiện tại và tương lai trên thực tế
1. Rủi ro lãi suất:
ACB quản lý rủi ro lãi suất theo nguyên tắc cẩn trọng. Hội đồng ALCO sử dụng
nhiều công cụ để giám sát và quản lý rủi ro lãi suất bao gồm: Biểu đồ lệch kỳ hạn tái định
giá (repricing gap). Thời lượng của tài sản nợ và tài sản có (duration). Hệ số nhạy cảm (factor sensitivity). Báo cáo về nội dung nói trên do Phòng Quản lý rủi ro của ACB lập định kỳ hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng cho từng loại tiền và vàng. Dựa trên báo cáo và những nhận định về diễn biến, xu hướng của lãi suất trên thị trường trong các cuộc họp hàng tháng của Hội đồng ALCO. Ban điều hành ngân quỹ hàng ngày sẽ quyết định duy trì các mức chênh lệch thích hợp để định hướng cho các hoạt động của Ngân hàng.
Trong quản trị tài sản nợ - tài sản có, ACB phân loại các kỳ hạn theo đúng bản chất của nó. Cụ thể: đối với các khoản tiền gửi rút gốc linh hoạt, khi phân tích kỳ hạn không được dựa vào kỳ hạn khách hàng cam kết gửi mà phải đưa vào khoản tiền gửi không kỳ hạn. Nghiêm túc thực hiện quy định về việc tính số tiền dự trữ bắt buộc phải duy trì, các khoản tiền gửi có kỳ hạn ghi trên hợp đồng phải phản ánh đúng kỳ hạn mà khách hàng thực gửi. Để đảm bảo an toàn hoạt động trong ngân hàng nói riêng và toàn hệ thống nói chung, các ngân hàng trong nước cần hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong việc chia sẻ về kinh nghiệm cũng như mô hình quản lý tài sản nợ - có. Nếu một ngân hàng không thực hiện tốt công tác quản trị tài sản nợ - tài sản có sẽ dễ dàng gây ra cuộc đua lãi suất, hậu quả của nó có thể làm sói mòn niềm tin của người dân đến toàn bộ hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng đến việc huy động vốn của các ngân hàng khác trong hệ thống.
2. Rủi ro tín dụng:
Từ nhiều năm nay ACB đa thực hiện chính sách tín dụng thận trọng. Để thực hiện xét duyệt và quyết định cấp các khoản tín dụng và bảo lãnh, ACB tổ chức thành ba cấp: Ban tín dụng tại các chi nhánh, Ban tín dụng Hội sở, Ban tín dụng phía Bắc và cấp cao nhất là Hội đồng tín dụng. Hội đồng tín dụng ACB bao gồm 11 thành viên trong đó có hai thành viên Hội đồng quản trị và chín thành viên của Ban điều hành. Bên cạnh việc quyết định cấp tín dụng hoặc bảo lãnh, Hội đồng tín dụng còn quyết định các vấn đề về chính sách tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng, hạn mức phán quyết của các ban tín dụng. Nguyên tắc cấp tín dụng là sự nhất trí 100% của các thành viên xét duyệt. Các khách hàng vay cá nhân và doanh nghiệp đều được xếp hạng trong quá trình thẩm định. Sau khi thẩm định, phân tích và định lượng rủi ro, các hạn mức tín dụng hoặc các khoản vay độc lập sẽ được cấp cho từng khách hàng. Ngoài ra, ACB luôn nghiêm túc thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo đúng quy định của NHNN với mức trích lập đủ các khoản nợ quá hạn theo quyết định của HĐTD. Việc thành lập Ban Chính sách và Quản lý tín dụng là nhằm chuyên nghiệp hóa công tác quản lý rủi ro tín dụng.
Hội đồng tín dụng phải xem xét chính sách và các biện pháp cụ thể để triển khai và thiết lập một hệ thống Quản lý rủi ro tín dụng với hiểu biết về phạm vi, loại hình và bản chất rủi ro, thủ thuật nhận biết, đánh giá, kiểm tra và kiế