Tiểu luận Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bắt người, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

PHẦN NỘI DUNG

I - Nhận thức chung về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự

1. Khái niệm bắt người.

2. Vai trò và ý nghĩa của việc bắt người phạm tội

II. Qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bắt người

1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp

3. Việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã

4. Những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt

III – Thực trạng và một số vấn đề hoàn thiện quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

PHẦN KẾT LUẬN

 

 

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4524 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bắt người, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a tội phạm đã xảy ra, nhân thân người phạm tội và thái độ của người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm. Điều đó có nghĩa là chỉ được bắt để tạm giam đối với một người khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội mà xét thấy đáng bắt để tạo điều kiện cho việc điều tra xử lý tội phạm. Người phạm tội nhưng không đáng bắt thì kiên quyết không bắt. Đối với họ có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Ví dụ: bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có hành động cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử thì không cần bắt tạm giam. Đối với những bị can, bị cáo phạm tội có tính chất nghiêm trọng như phạm các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, giết người, cướp tài sản… hoặc phạm các tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên một năm và có căn cứ để cho rằng họ sẽ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có hành động cản trở việc điều tra, xét xử thì cần kiên quyết bắt để tạm giam. 1.3. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: - Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định; Trường hợp cơ quan điều tra ra lệnh thì lệnh bắt bị can để tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Sự phê chuẩn của Viện kiểm sát là một thủ tục pháp lý bắt buộc nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt để bảo đảm hiệu lực của lệnh bắt người cũng như sự cần thiết phải bắt tạm giam bị can. Ngoài ra, quy định việc xem xét để phê chuẩn lệnh bắt người của Cơ quan điều tra trước khi thi hành còn giúp hạn chế tình trạng lạm dụng quyền được áp dụng biện pháp ngăn chặn để tác động một cách trái pháp luật đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vì những mục đích cá nhân. Những lệnh bắt người không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp sẽ không có giá trị thi hành. Thời hạn xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam là ba ngày kể từ khi Viện kiểm sát nhận được công văn đề nghị xét phê chuẩn cùng các tài liệu có liên quan đến việc bắt. - Trong giai đoạn truy tô, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định; - Chánh án, Phó chánh án tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp. - Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Thẩm phán Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định. 1.4. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam Khoản 2 và khoản 3 Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: - Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền; lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ kí của người ra lệnh và có đóng dấu của cơ quan. - Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. - Khi bắt phải lập biên bản bắt người. Biên bản ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, thái độ của người bị bắt trong việc chấp hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu liên quan được phát hiện, bị tạm giữ và những yêu cầu, khiếu nại của người bị bắt. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản. Nếu có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì họ có quyền ghi vào biên bản và ký tên. - Khi tiến hành bắt người phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Sự vắng mặt của những người nói trên làm cho việc bắt người trong trường hợp này không bảo đảm tính hợp pháp. Các quy định về thủ tục bắt người chặt chẽ như trên nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân của người ra lệnh bắt và người thi hành lệnh bắt, bảo đảm bắt đúng người phạm tội cần bắt và những quyền chính đáng của người bị bắt, đồng thời cũng nhằm loại trừ những hành động của bọn lưu manh giả danh cán bộ đến bắt người hòng chiếm đoạt tài sản của công dân. - Để bảo đảm lợi ích chính đáng của người bị bắt, thân nhân của họ và của những người láng giềng và tránh tình trạng căng thẳng do việc bắt người gây ra, khoản 3 Điều 80 của Bộ luật còn quy định: Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã. Theo quy định về việc tính thời hạn tại Bộ luật tố tụng hình sự, ban đêm được tính từ 22 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau. 2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp 2.1. Khái niệm Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm. 2.2. Những trường hợp khẩn cấp Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định chỉ được bắt khẩn cấp khi có một trong các căn cứ (trường hợp) sau đây: * Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi, kiểm tra, xác minh các tin tức thu được và có đủ cơ sở để khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng nên cần bắt ngay, để ngăn chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã hội. Muốn xác định được trường hợp khẩn cấp này phải đảm bảo được hai điều kiện sau đây: - Thứ nhất: Phải có căn cứ để khẳng định một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm.. Hành vi chuẩn bị phạm tội nói trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại lợi ích của Nhà nước và công dân nhưng nó đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe dọa rất nghiệm trọng. Vì vậy, yêu cầu của cuộc đấu tranh đặt ra hết sức cấp bách, cần ngăn chặn ngay, không để tội phạm xảy ra. - Thứ hai: Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chuẩn bị thực hiện tội phạm còn một khoảng cách nhất định với việc thực hiện tội phạm nên không phải mọi hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đều cần truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định chỉ người nào chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự không cho phép bắt khẩn cấp đối với người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng, vì theo quy định của Điều 15 BLHS, người chuẩn bị phạm tội ít nghiêm trọng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, đối với người chuẩn bị thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chỉ có thể áp dụng các biện pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa, không được phép áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam… * Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Đây là trường hợp hành vi phạm tội đã được thực hiện, người phạm tội không bị bắt ngay lúc đó, nhưng người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm tận mắt chứng kiến hành vi phạm tội và trực tiếp xác định đúng là người đã thực hiện tội phạm, xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Muốn bắt khẩn cấp trong trường hợp này, cần bảo đảm hai điều kiện sau: - Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Người này chỉ có thể là người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm đã trực tiếp chứng kiến lúc tội phạm đang xảy ra. Có như vậy mới bảo đảm tính xác thực và giá trị của lời tố giác tội phạm. Trường hợp người bị hại hoặc người khác đã xác nhận về kẻ thực hiện tội phạm nhưng họ không phải là người trực tiếp chứng kiến lúc tội phạm đang diễn ra mà nghe người khác kể lại, mô tả lại đặc điểm nhận dạng của người phạm tội, thì không được bắt khẩn cấp. - Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Điều kiện này cho thấy yêu cầu ngăn chặn đặt ra rất cấp bách, nếu không bắt ngay kẻ phạm tội sẽ trốn, gây khó khăn cho việc điều tra, khám phá tội phạm. Những căn cứ để xét và đi đến quyết định cần bắt để ngăn chặn ngay việc người phạm tội trốn gồm các trường hợp sau đây: đang có hành động bỏ trốn hoặc đang chuẩn bị bỏ trốn; không có nơi cư trú rõ ràng; có nơi cư trú nhưng ở quá xa; là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; chưa xác định được thân nhân người đó (căn cước lý lịch không rõ ràng). Để có quyết định đúng đắn trong việc bắt khẩn cấp theo trường hợp thứ hai này, cơ quan điều tra cần thẩm tra, xác minh kịp thời lời xác nhận, tố giác của người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm, đồng thời phải kiểm tra căn cước lai lịch và lấy lời khai của người bị tố cáo là kẻ phạm tội. Chú ý đề phòng sự nhầm lẫn của người phát hiện, tố giác hoặc sự vu khống. Nếu người nào lợi dụng quyền phát hiện, tố giác tội phạm để vu khống cho người khác (bịa đặt là người khác phạm tội rồi báo cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền) sẽ phải chịu trách nhiệm theo Điều 117 Bộ luật hình sự. * Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra chưa có đủ tài liệu, chứng cứ xác định một người phạm tội, mới phát hiện được những dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người đó và từ những dấu vết ấy mà người đó bị nghi thực hiện một tội phạm. Nếu xét thấy cần bắt ngay để ngăn chặn việc họ trố hoặc tiêu hủy chứng cứ, thì phải ra lệnh bắt khẩn cấp. Trong trường hợp khẩn cấp này đòi hỏi phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây: - Tìm thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. - Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Điều kiện này đòi hỏi phải có căn cứ để cho rằng nếu không bắt ngay, người bị nghi thực hiện tội phạm nói trên rất có thể sẽ trốn hoặc có hành động tiêu hủy tài liệu, chứng cứ. Các tình tiết được coi là căn cứ để ngăn chặn việc người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn cũng tương tự như các tình tiết được trình bày trong trường hợp khẩn cấp thứ hai. Nếu người bị nghi thực hiện tội phạm không có biểu hiện bỏ trốn nhưng lại có hành động chuẩn bị tiêu hủy chứng cứ hoặc đang tiêu hủy chứng cứ thì cũng cần quyết định bắt khẩn cấp ngay. Ví dụ: tìm thấy máu người trên quần áo của người bị nghi phạm tội giết người, nếu có cơ sở để cho rằng người đó có hành động tiêu hủy các vết máu trên quần áo như mang đi để gột, giặt, tẩy hoặc gói bộ quần áo có dính máu lại để đem cất giấu ở nơi khác…, thì việc quyết định bắt ngay người đó là đúng đắn. 2.3. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp Khoản 2 Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp: - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp; - Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; - Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. 2.4. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp về cơ bản cũng được Bộ luật tố tụng hình sự quy định và áp dụng tương tự như thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng có một số điểm khác. Thứ nhất: Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Qui định như vậy nhằm đảm bảo cho việc bắt đạt hiệu quả và kịp thời, đúng như tên gọi “khẩn cấp” của trường hợp bắt người này, nếu trì hoãn không tiến hành ngay thì sẽ mất cơ hội ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi phạm tội trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc điều tra khám phá tội phạm. Thứ hai: Sau khi đã bắt người, việc bắt khẩn cấp phải báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản cùng các tài liệu liên quan để xét và phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt (thời hạn xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp quy định cho viện kiểm sát là 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp). Thứ ba: Trong trường hợp khẩn cấp được bắt người vào bất kỳ lúc nào, không kể ban ngày hay ban đêm. 2.5. Quyền và trách nhiệm của công dân về việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp Mặc dù các trường hợp khẩn cấp mang tính chất rất cấp bách, cần phải ngăn chặn ngay hành vi phạm tội, hoặc hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội nhưng việc nhận biết các hành vi đó không dễ dàng, thường phải tiến hành theo dõi, thẩm tra, xác minh mới biết được. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự quy định công dân không được quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp nhưng có trách nhiệm giúp đỡ cơ quan điều tra kịp thời phát hiện và bắt ngay những kẻ phạm tội để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích chính đáng của công dân. Mọi công dân khi phát hiện hoặc nghi vấn một người nào đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, khi phát hiện trong người hoặc tại chỗ ở của người khác có ấu vết của tội phạm, khi gặp lại kẻ trước đó đã gây ra tội phạm mà mình trực tiếp chứng kiến… thì cần lập tức báo ngay cho cơ quan điều tra để kịp thời thẩm tra, xác minh và có biện pháp giải quyết. Nếu xét thấy có đủ căn cứ và cần thiết thì cơ quan điều tra quyết định bắt khẩn cấp. Mọi công dân cũng cần giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo dõi, giám sát chặt chẽ người bị nghi thực hiện tội phạm, không để cho họ có điều kiện chạy trốn, phân tán, cất giấu hoặc tiêu hủy chứng cứ. 3. Việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã 3.1. Khái niệm Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đuổi bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần phải điều tra, xác minh. 3.2. Các trường hợp phạm tội quả tang Điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định cụ thể ba trường hợp phạm tội quả tang sau đây: * Trường hợp thứ nhất: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đang thực hiện tội phạm là trường hợp phạm tội quả tang thường gặp trong thực tế. Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật hình sự nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện. Trong trường hợp hành vi đang thực hiện một tội phạm có cấu thành hình thức thì mặc dù hậu quả vật chất chưa xảy ra vẫn coi là hành vi đang thực hiện tội phạm. Đối với những tội phạm mà hành vi phạm tội được thực hiện trong một khoảng thời gian dài, không bị gián đoạn như tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, tội tràng trữ trái phép chất nổ, chất độc, chất cháy, chất phóng xạ… thì trong suốt thời gian đó bị coi là đang thực hiện tội phạm. Vì vậy, thời điểm nào tội phạm bị phát giác cũng là phạm tội quả tang. * Trường hợp thứ hai: Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đây là trường hợp kẻ phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện. Cần chú ý rằng để bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này phải có chứng cứ chứng minh là kẻ đó vừa gây tội xong, chưa kịp chạy trốn và sự phát hiện, bắt giữ người phạm tội phải xảy ra tức thời sau khi tội phạm được thực hiện. Thông thường, các vật chứng (còn gọi là tang vật) mà người phạm tội chưa kịp cất giấu, tẩu tán là những bằng chứng khiến kẻ phạm tội không thể chối cãi về hành vi phạm tội của mình vừa thực hiện xong. Nhưng trong các trường hợp không có vật chứng, sự có mặt của những người làm chứng cũng cho phép được bắt người phạm tội theo trường hợp quả tang này. Ví dụ: kẻ phạm tội vừa đánh người xong (không dùng công cụ, phương tiện gì và tất nhiêm có gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nạn nhan) thì bị những người có mặt tại đó phát hiện và bắt ngay. * Trường hợp thứ ba: đang bị đuổi bắt. Trong trường hợp phạm tội quả tang này, người phạm tội vừa thực hiện tội phạm xong hoặc đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trong trường hợp này, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội tránh bắt nhầm phải người không thực hiện tội. Nếu việc đuổi bắt bị gián đoạn về thời gian so với hành vi chạy trốn thì không được bắt quả tang mà có thể bắt theo trường hợp khẩn cấp. - Việc bắt người đang bị truy nã Bắt người đang bị truy nã không nằm trong các trường hợp bắt người phạm tội quả tang, vì hành vi của người đang bị truy nã là hành vi bỏ trốn sau khi đã thực hiện tội phạm. Tuy vậy, trong thực tế việc ngăn chặn ngay người đang bị truy nã trốn tránh pháp luật cũng mang tính chất cấp bách như đối với việc ngăn chặn người phạm tội quả tang nên Bộ luật tố tụng hình sự quy định thẩm quyền, thủ tục bắt người đang bị truy nã cũng được áp dụng như bắt người phạm tội quả tang. 3.3. Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã Để phát huy tính tích cực của quần chúng trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tính mạng, sức khỏe và các lợi ích hợp pháp của công dân, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã. 3.4. Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã Việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã không cần lệnh của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào. Mọi công dân đều có quyền bắt và có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, công dân không được đánh đập, tra tấn người phạm tội và cũng không tự ý giam giữ họ mà phải giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hoặc biên bản bắt người đang bị truy nã và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền. Việc bắt đối với một số đối tượng khác ngoài việc phải tuân thủ các quy định về bắt người nói chung còn phải căn cứ vào một số quy định khác của pháp luật. Ví dụ: Việc bắt người phạm tội là người thuộc các cơ quan dân cử như đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ngoài việc tuân theo các quy định ở các Điều 80, 81 và 82 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 còn phải đảm bảo một số thủ tục được quy định trong Hiến pháp và một số đạo luật khác. Các quy định về thủ tục bắt người đặc biệt này là nhằm bảo đảm hoạt động của các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân với chức năng giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của Bộ máy nhà nước. Mặc khác, các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những người đại diện của dân, do dân bầu ra nên việc bắt, giữ họ phải tuân theo những thủ tục đặc biệt. 4. Những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt Cần tiến hành giao nhận người bị bắt để cơ quan có thẩm quyền sớm có biện pháp điều tra, khám phá tội phạm. Khi giao, nhận hai bên giao và nhận phải lập biên bản. Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc trường hợp phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ, phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Đối với người bị truy nã, sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt và sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết. Cơ quan này sau khi nhận được thông báo phải ra ngay quyết định tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhân người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người bị bắt đến giam tại trại tạm giam nơi gần nhất. Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc biết. Việc thông báo cho gia đình, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc biết rõ người đó đã bị cơ quan nhà nước bắt, lý do bắt để họ khỏi tổ chức việc đi tìm hay thông báo về việc mất tích hoặc gây lo lắng hoang mang cho gia định và người thân thích của người bị bắt. Trong trường hợp khi thi hành lệnh bắt đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc đã tham gia thì chỉ cần thông báo cho gia đình của người bị bắt biết về việc bắt người. Nếu xét thấy thông báo cản trở cho việc điều tra thì người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt không phải thông báo ngay cho gia đình, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt cư trú hoặc làm việc biết. Nhưng khi những cản trở cho việc điều tra không còn nữa thì phải thông báo ngay. III – Thực trạng và một số vấn đề hoàn thiện quy định về biện pháp ngăn chặn bắt người trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định tại Chương VI, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Việc bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, bắt người đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan sai có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Việc bắt một số “đối tượng đặc biệt” về chính trị ở trong nước và các đối tượng là người nước ngoài còn ảnh hưởng đến chính sách đối nội và quan hệ đối ngoại của Nhà nước ta. Vì vậy, việc hoàn thiện quy định về biện pháp bắt người trong Tố tụng hình sự là vấn đề cấp thiết trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy cần sửa đổi hoàn thiện một số quy định bắt người trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành để đảm bảo tính thống nhất, tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác, như sau: Một là, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 chưa có điều luật nào quy định việc bắt người là đại biểu dân cử; đảng viên; cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân; người có chức sắc trong các tôn giáo; người thủ lĩnh, người có danh tiếng, có uy tín lớn trong các dân tộc ít người; tri thức, nhân sĩ có tên tuổi, văn nghệ sĩ có tiếng tăm được trong nước và thế giới chú ý tới và người nước ngoài. Trong khi đó việc bắt những “đối tượng đặc biệt” này được quy định trong một số văn bản pháp luật của Nhà nước, văn bản của Đảng và Bộ Công an, như: Luật Tổ chức Quốc hội, luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Công văn số 318/CV-BNV(V11) ngày 29/3/1992 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc xin ý kiến trước khi bắt, giam, giữ một số đối tượng đặc biệt; Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn giữa các cấp ủy Đảng với Đảng ủy Công an, Ban cán sự Đảng Viện Kiểm sát nhân dân, Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân trong công tác bảo vệ Đảng và xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên; Hướng dẫn số 05-HD/NCTW ngày 15/01/2001 của Ban Nội chính Trung ương về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xử lý tội phạm theo tinh thần chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về việc bắt giữ các đối tượng đặc biệt. Vì vậy, thiết nghĩ cần phải ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất, chi tiết việc bắt các đối tượng nêu trên cho phù hợp. Hai là, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự, với tên gọi của chế định này là: “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” nên đã dẫn đến cách hiểu: “Bắt người là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam”. Cách hiểu như vậy là không đúng bởi lẽ nếu coi “bắt bị can, bị cáo để tạm giam” là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam thì việc cưỡng chế bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam dựa trên căn cứ pháp lý nào? Vì vậy xác định tên gọi của chế định này là “bắt tạm giam bị can, bị cáo”. Ba là, về khoản 4 Điều 81 BLTTHS 2003 có quy định về thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thuộc về Viện Kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, đối với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là “Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bắt người, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện.doc
Tài liệu liên quan