Tiểu luận Quy định của pháp luật hiện hành về đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân

MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU 1

I. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 1

1. Sự ra đời của pháp luật thuế thu nhập cá nhân 1

2. Các đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân 1

II. CÁC ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHỊU THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 3

1. Khác biệt giữa Luật thuế TNCN 2007 và Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng chịu thuế 3

2. Về việc xác định đối tượng chịu thuế theo thu nhập 6

C. KẾT BÀI 12

 

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2391 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy định của pháp luật hiện hành về đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thuế thu nhập cá nhân là một trong những loại thuế trực thu có tác động lớn nhất, trực tiếp nhất đến đời sống kinh tế xã hội. Thuế thu nhập cá nhân thể hiện rõ nét mối quan hệ trách nhiệm hai chiều giữa nhà nước và công dân trong quá trình đóng góp, xây dựng và duy trì hoạt động của xã hội công cộng. Đánh thuế có đảm bảo được tính công bằng và đạt được hiệu quả cao hay không phụ thuộc chính vào việc xác định đúng và đầy đủ các đối tượng chịu thuế. Sau đây, em xin được xem xét và bình luận các quy định của pháp luật hiện hành về đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân. NỘI DUNG KHÁI QUÁT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Sự ra đời của pháp luật thuế thu nhập cá nhân Ở Việt Nam, pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đã được Hội đồng nhà nước ban hành lần đầu tiên vào ngày 27/12/1990 dưới dạng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người tiêu dùng có thu nhập cao. Sau đó, Pháp lệnh này được sửa đổi, bổ sung nhiều lần và bắt đầu từ ngày 1/1/2009, Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 (sau đây gọi tắt là Luật thuế TNCN 2007) có hiệu lực thay thế cho Pháp lệnh trên. Các đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân Thuế TNCN là một bộ phận trong hệ thống thuế nên mang đầy đủ những đặc điểm của thuế nói chung như: tính bắt buộc, tính không hoàn trả trực tiếp, và là công cụ để tập trung của cải xã hội dưới hình thức giá trị vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm chung đó, thuế TNCN còn có một số đặc điểm riêng như sau: - Thuế TNCN là một loại thuế trực thu. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế đồng thời cũng là người chịu thuế, nên người nộp thuế không thể chuyển giao gánh nặng nộp thuế cho người khác. Khác với loại thuế gián thu: Người sản xuất là cơ sở kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, còn người chịu thuế là người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ đó. Do việc đánh thuế trực tiếp vào thu nhập của mỗi cá nhân nên dễ gây phản ứng của người dân đối với loại thuế này. Đó chính là do “phạm vi ảnh hưởng của thuế tức tác động của thuế đến sự thay đổi thu nhập của các đối tượng liên quan”. Bởi vậy, mỗi quốc gia đều căn cứ vào điều kiện kinh tế chính trị, xã hội cụ thể của mình trong từng thời kỳ cũng như tác động của thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhân và ảnh hưởng của nó đến các thị trường liên quan để quy định cho phù hợp, để vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, vừa đảm bảo ổn định xã hội. - Thuế TNCN có đối tượng nộp thuế chỉ là các cá nhân có thu nhập chịu thuế. Cá biệt có một số quốc gia, thuế TNCN được xác định như một loại thuế mà chủ thể nộp thuế là gia đình hoặc Nhà nước ban hành thuế TNCN áp dụng chung cho cả doanh nghiệp và cá nhân. Đối tượng nộp thuế là tất cả cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Diện chịu thuế: Hầu hết các khoản thu nhập của cá nhân nhận được đều bị đánh thuế không phân biệt nguồn gốc phát sinh, là nguồn thu thường xuyên hay không thường xuyên. - Thuế TNCN luôn luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Thuế TNCN tác động trực tiếp tới việc phân phối lại thu nhập. Do vậy, thuế TNCN được coi là công cụ hữu ích để điều tiết thu nhập, đảm bảo các mục tiêu công bằng xã hội. Để đảm bảo công bằng, thuế TNCN thường được đánh theo biểu lũy tiến từng phần. Đặc điểm này xuất phát từ vai trò điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao, hạn chế sự động viên đóng góp của những người có thu nhập trung bình và thấp, góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Người có thu nhập cao, có nhiều thu nhập thì phải đóng thuế nhiều hơn. Đây được coi là loại thuế công bằng hơn so với các loại thuế khác vì nó đánh vào khả năng kinh tế của người nộp thuế. - Xét về mặt kỹ thuật, thuế TNCN là loại thuế khá phức tạp, khó tính toán, khó quản lý vì có diện đánh thuế và diện chịu thuế rộng. Khi tính toán thường phải xét đến nhiều yếu tố như giảm trừ gia cảnh, mức thu nhập bình quân và đối tượng chịu thuế… - Xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN không ảnh hưởng nhiều đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Tính trung lập của loại thuế này cao hơn so với loại thuế khác. Việc tăng hay giảm thuế hầu như không kéo theo những biến động lớn về mặt kinh tế. II. CÁC ĐỐI TƯỢNG PHẢI CHỊU THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 1. Khác biệt giữa Luật thuế TNCN 2007 và Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao về đối tượng chịu thuế Việc xác định đối tượng chịu thuế theo quy định của Luật thuế TNCN 2007 so với Pháp lệnh trước đó hợp lí hơn rất nhiều, về cơ bản xác định đúng, đầy đủ các đối tượng cần điều tiết thu nhập. Điều 1 của Pháp lệnh và nghị định số 147/2004/NĐ – CP ngày 23/7/2004 qui định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao có xác định đối tượng chịu thuế thu nhập là : - Công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động nước ngoài có thu nhập - Cá nhân là người không mang quốc tịch Việt Nam nhưng định cư không thời hạn tại Việt Nam có thu nhập; - Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam kể cả người nước ngoài không sinh sống ở Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Theo tinh thần của điều luật trên, có thể thấy, nguyên tắc đánh thuế đối với người có thu nhập cao của Việt Nam hiện hành dựa trên tiêu chí quốc tịch phân biệt người Việt Nam và người nước ngoài, đồng thời, cũng kết hợp với tiêu chí cư trú của đối tượng nộp thuế để phân biệ giữa những người không mang quốc tịch Việt Nam với nhau. Theo đó, người nước ngoài (bao hàm cả người không quốc tịch) được chia làm ba loại để áp dụng những cách tính thuế khác nhau như sau : - Người nước ngoài định cư không thời hạn ở Việt Nam thì chịu sự điều tiết thu nhập như người Việt Nam ở trong nước; - Người nước ngoài cư trú có thời hạn ở Việt Nam hưởng thuế suất theo qui định như người Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài và chịu sự điều tiết phần thu nhập phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam; - Người nước ngoài không cư trú ở Việt Nam chịu sự điều tiết đối với toàn bộ những thu nhập phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Cách xác định như trên thể hiên sự phức tạp trong cách tư duy của người làm luật, đồng thời tạo tâm lý, ấn tượng không tốt cho người nước ngoài khi vào Việt Nam. Vì rõ ràng ở đây có sự phân biệt giữa người công dân Việt Nam và người nước ngoài, sự phân biệt không cần thiết giữa người nước ngoài cư trú không thời hạn và người nước ngoài cư trú có thời hạn. Chính vì vậy, ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của nhà nước. Trong Luật thuế TNCN 2007, căn cứ để xác định đối tượng chịu thuế thu nhập đã được thay đổi. Trong việc xác định đối tượng chịu thuế, Nhà nước chỉ dựa trên tiêu chí là yếu tố cư trú của đối tượng nộp thuế Cụ thể, tại Khoản 1 Điều 2 của văn bản luật này có qui định: “Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam” Điều này có nghĩa là dù là người Việt Nam hay nước ngoài nếu thỏa mãn điều kiện xác định là cư trú trên lãnh thổ Việt Nam thì đều chịu chính sách thuế như nhau. Việc qui định như vậy tạo sự bình đẳng giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, đồng thời cũng tránh được sự phức tạp trong việc xác định đối tượng chịu thuế. Hơn nữa, nó còn thể hiện thiện chí của nước ta, tạo môi trường rộng mở và tâm lí yên tâm cho nhà đầu tư, người nước ngoài khi vào làm việc và sinh sống tại Việt Nam. Theo yếu tố cư trú, Khoản 2 Điều 2 Luật thuế TNCN 2007 quy định: Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: a) Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam; b) Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn. Qui định này khắc phục được thực tế là có rất nhiều người nước ngoài đến công tác tại Việt Nam, rõ ràng là có ý định cư trú nhưng vẫn không thuộc diện chịu thuế. Nhưng chắc chắn rằng khi họ đến cư trú làm việc ở Việt Nam thì đều phải thuê nhà và đăng kí thường trú. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở đế xác định điều kiện cư trú dựa trên các yếu tố này. Do đó, có thể nói, việc đặt ra tiêu chí xác định yếu tố cư trú như trên đảm bảo xác định tối đa đối tượng cư trú cần điều tiết thu nhập để tạo công bằng xã hội, đồng thời, cũng tạo điều kiện dễ dàng cho cơ quan quản lí thuế trong việc xác định đối tượng cần nộp thuế, diện chịu thuế. Về việc xác định đối tượng chịu thuế theo thu nhập Trong việc xác định đối tượng chịu thuế theo thu nhập, các quy phạm pháp luật hiện hành gồm có Luật thuế TNDN 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về các thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân. Thứ nhất tại Khoản 1 Điều 2 nghị định 100/2008/NĐ-CP quy định chi tiết về khoản 1 Điều 2 của Luật thuế TNCN 2007 như sau: Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân bao gồm cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Điều 3 Nghị định này. Phạm vi xác định thu nhập chịu thuế của đối tượng nộp thuế như sau: a) Đối với cá nhân cư trú, thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt nơi chi trả thu nhập; b) Đối với cá nhân không cư trú, thu nhập chịu thuế là thu nhập phát sinh tại Việt Nam, không phân biệt nơi chi trả thu nhập. Quy định trên đã xác định rõ ràng, chắc chắn hơn về các đối tượng chịu thuế, bao quát hết đối tượng nộp thuế và mở rộng đói tượng nộp thuế một cách hợp lý. Theo như quy định trên thì các thu nhập của các cá nhân cư trú phải chịu thuế là thu nhập phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, còn đối với các cá nhân không cư trú thì tất cả các thu nhập phát sinh tại Việt Nam, không phân biệt nơi chỉ trả thu nhập, đều là thu nhập phải chịu thuế. Quy định trên khắc phục được thực tế là có nhiều cá nhân vì muốn trốn tránh thuế mà cố tình lách luật, cố ý hiểu sai luật, cho rằng một khoản thu nhập nào đó phát sinh tại Việt Nam nhưng nơi chi trả ở nước ngoài nên không phải nộp thuế. Thứ hai là theo Điều 3 Luật thuế TNDN và Điều 3 nghị định 100/2008/NĐ-CP, các quy định tại các thông tư hướng dẫn khác, theo đó thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân bao gồm: - Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật. Điểm mới cơ bản nhất liên quan đến quy định về đối tượng nộp thuế là việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. Theo quy định trước đây, cá nhân kinh doanh thuộc diện chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Sự thay đổi này, trước hết đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn nào cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN. Thêm vào đó, việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo phương pháp luỹ tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư. Điều này rất có ý nghĩa đối với các hộ kinh doanh nhỏ ở Việt Nam vì theo quy định trước đây họ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất chung bằng với các doanh nghiệp (thông thường là những đơn vị kinh doanh có quy mô lớn). Việc áp dụng thuế suất như với các doanh nghiệp là quá cao đối với hộ cá nhân kinh doanh. Hơn nữa, quy định này cũng đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu hết các nước đều đưa cá nhận kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. - Thu nhập từ tiền lương, tiền công, các khoản có tính chất tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội. Có thể thấy rằng Luật thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn đã quy định rất rõ ràng, đầy đủ, cụ thể các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công phải chịu thuế. Điều này có ý nghĩa rất lớn trên thực tế, đặc biệt trong việc xác định các thu nhập phải chịu thuế, trọng việc tính thuế để nộp cho mỗi đối tượng chịu thuế - Thu nhập từ đầu từ vốn, bao gồm: Tiền lãi cho vay; lợi tức cổ phần; thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ. Dường như việc đánh thuế thu nhập từ lợi tức cổ phần không được hợp lý, gây phản ứng trong giới đầu tư bởi vì mức lợi tức nhà đầu tư thu được đã qua một lần thuế là thuế thu nhập doanh nghiệp (25%), do đó việc tiếp tục đánh thuế trên lợi tức được đánh giá là đánh thuế hai lần, cùng một đồng vốn Nhà nước đã thu thuế hai lần. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng: việc loại trừ thu nhập từ lãi trái phiếu do Chính phủ phát hành cũng tạo ra sự không công bằng với các hình thức đầu tư khác như mua trái phiếu công ty… bởi lẽ Nhà nước trong mối quan hệ với người nắm giữ trái phiếu cũng như tổ chức phát hành khác. Tuy nhiên, bản chất của trái phiếu Chính phủ là khoản vốn Nhà nước huy động để đầu tư vào các công trình trọng điểm quốc gia, có khi là bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, nó không mang tính chất kinh doanh cộng với việc lãi suất thường thấp hơn lãi suất thương mại. Một số nước trong khu vực cũng không thu thuế đối với khoản thu nhập này. Như vậy, việc có ý kiến khác nhau về khoản thu nhập này là không tránh khỏi nhưng với quy định như trên cũng là hợp lí, vừa khuyến khích được việc huy động vốn trong dân chúng để xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước, vừa kế thừa quy định cũ của pháp luật, vừa tương thích với pháp luật các nước khác. - Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm: thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn, bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng trong các tổ chức kinh tế; thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác. Thu nhập nổi bật ở đây là thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán. Nó đã nằm ngoài vòng điều chỉnh của thuế thu nhập cá nhân trong những năm qua. Hiện nay được đưa vào điều chỉnh chưa phải là quá muộn vì rất nhiều nhà đầu tư đã và đang thu được lợi nhuận rất lớn từ hoạt động này. Mặc dù được quy định khá chi tiết, rõ ràng nhưng nó vẫn gây băn khoăn cho những nhà đầu tư bởi vì đây là một lĩnh vực rất nhạy cảm chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: khủng hoảng nền kinh tế, việc mua vào bán ra cổ phiếu của các nhà đầu tư chiến lược… Vì vậy mà giá chuyển nhượng chứng khoán luôn biến động nằm ngoài dự đoán của các nhà đầu tư. Trên thực tế không phải chỉ có những chuyển nhượng có lãi mà cả những chuyển nhượng phải chịu thua lỗ. Về nguyên tắc, chỉ có những chuyển nhượng có lãi mới phải chịu thuế nhưng pháp luật lại không quy định như vậy mà lại xác định căn cứ giá chứng khoán theo sổ sách kế toán trong trường hợp không ghi giá chuyển nhượng hoặc ghi thấp hơn giá theo sổ sách kế toán. Lấy giá sổ sách kế toán làm căn cứ là không hiện thực bởi giá này cũng xê dịch phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của công ty. Có thể những quy định này để tránh việc nhà đầu tư khai thấp giá bán, khai cao giá mua chứng khoán để giảm bớt trách nhiệm chịu thuế. Tuy nhiên, việc chồng chất thu thuế cũng phải dựa trên thực tế nếu không nó sẽ không khả thi. - Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất và tài sản gắn liền với đất; thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước; các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản. Đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản thì việc đưa khoản thu nhập này thành đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân đã được sự hoan nghênh của đa số người dân. Những năm gần đây thị trường bất động sản phát triển mạnh, có thời gian tạo thành những cơn sốt nhà, cơn sốt đất, những giao dịch về bất động sản mang lại cho cá nhân nguồn thu nhập rất lớn. Tuy nhiên lại có hiện tượng đầu cơ nâng giá đất lên quá cao đã làm ảnh hưởng đến đa số người dân lao động nghèo không có khả năng mua nhà, mua đất, trong khi đó một bộ phận rất nhỏ những người mua bán, đầu cơ đất đai lại chiếm được những khoản lợi nhuận khổng lồ, nhưng phần lợi nhuận này lại hầu như chưa có một sắc thuế hoàn chỉnh điều tiết. Vì vậy, khi mà khoản thu nhập này chịu sự điều chỉnh của pháp luật, bên cạnh mục tiêu điều tiết thu nhập, tăng thu cho ngân sách nhà nước, nó còn có tác dụng điều tiết thị trường bất động sản vốn đã rất phức tạp của Việt Nam trong thời gian vừa qua. Cũng phải nói rằng, việc điều chỉnh thu nhập của cá nhân có được từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất trong Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất trước đây là bất hợp lý, do khi tính thuế chỉ căn cứ vào giá chuyển nhượng mà chưa tính đến giá vốn và những chi phí có liên quan, gây nên sự không công bằng giữa những người nộp thuế. Vì thế, Luật thuế thu nhập cá nhân điều chỉnh khoản thu nhập này là cần thiết và hợp lí, khắc phục được những hạn chế trong quy định cũ của pháp luật. - Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm: trúng thưởng xổ số, trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại; trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino; trúng thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác. - Thu nhập từ bản quyền, bao gồm: Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ; thu nhập từ chuyển giao công nghệ. - Thu nhập từ nhượng quyền thương mại. Là cá khoản thu nhập mà cá nhân nhận được từ hợp đồng nhượng quyền thương mại, bao gồm cả việc nhượng lại quyền thương mại theo quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại. Vấn đề đặt ra ở đây là việc bổ sung đối tượng chịu thuế này có hợp lý hay không. Bởi lẽ, theo pháp luật Việt Nam, chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại là thương nhân – là các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Trên thực tế, tại Việt Nam, quyền thương mại thường gắn liền với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, logo nổi tiếng, có uy tín nên chủ thể của hợp đồng này thường là các doanh nghiệp lớn có chỗ đứng vững chắc trên thương trường. Chính vì vậy, thu nhập từ hợp đồng nhượng quyền thương mại vào làm đối tượng chịu thuế cho thấy tính dự liệu của luật. Các nhà làm luật đã dự liệu trong tương lai, nền kinh tế sẽ phát triển hơn, các cá nhân kinh doanh cũng sẽ thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại. Và hoạt động này mang lại cho cá nhân nguồn thu nhập nhất định nên sẽ phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình đối với Nhà nước. - Thu nhập từ nhận thừa kế hoặc từ nhận quà tặng là chứng khoản, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng kí sở hữu hoặc đăng kí sử dụng. Như vậy, liên quan đến chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu,…) ngay cả nhận thừa kế hay nhận quà tặng là chứng khoán cũng được xếp vào là thu nhập chịu thuế. Thứ ba, ngoài các quy định về các đối tượng thu nhập phải chịu thuế, pháp luật thuế thu nhập cá nhân còn xác đinh rõ các khoản thu nhập được miễn thuế, bao gồm 14 khoản. Trong đó nổi bật nhất là miễn thuế thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao để sản xuất, miễn thuế thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhằm thu hút khoản tiền nhàn rỗi của dân cư vào các kênh tín dụng, khuyến khích sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn của xã hội; miễn thuế thu nhập phần tiền lượng làm việc vào ban đếm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp luật. KẾT BÀI Mặc dù còn những ý kiến khác nhau về Luật thuế TNCN, song có thể nói, đây là một văn bản luật được soạn thảo công phu nhất từ trước đến nay, phản ánh khá đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay. Nó ra đời xuất phát từ sự đòi hỏi cần thiết của thực tế, góp phần tạo điều kiện cho chúng ta triển khai tốt việc thực hiện chủ trương công khai, minh bạch thu nhập và tài sản của cá nhân vì việc thực hiện Luật thuế này buộc cá nhân có thu nhập chịu thuế phải kê khai thu nhập tiến tới quản lý, kiểm soát thu nhập dân cư. MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Luật thuế Việt Nam. 2010. Đại học luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân. 2. Khóa luận tốt nghiệp: Chế độ thuế TNCN đối với những khoản thu không thường xuyên. Hoàng Thị Huế. 3. Khóa luận tốt nghiệp: Phạm vi áp dụng thuế TNCN và thuế thu nhập với người có thu nhập cao – So sánh dưới góc độ pháp lý. Nguyễn Thị Kiều Diễm. 4. Luật thuế TNCN năm 2007 Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBình luận các quy định của pháp luật hiện hành về đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân.doc
Tài liệu liên quan