Tiểu luận Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện hiện thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

I/ LỜI MỞ ĐẦU 1

II/ NỘI DUNG 1

1/ Khái quát chung về thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ của Việt Nam 1

2. Quy định của pháp luật về thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam 2

Các khoản vay trong nước bao gồm: 2

Các khoản vay nước ngoài bao gồm: 3

3. Thực tiễn áp dụng thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam 5

• Các khoản vay trong nước. 5

• Các khoản vay ngoài nước. 6

4. Kiến nghị. 10

III. KẾT LUẬN 11

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2203 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện hiện thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế, giáo dục, văn hóa, xã hội …. Do đó, bắt buộc chính phủ phải tính tới các giải pháp để bù đắp sự thâm hụt của ngân sách nhà nước. Giải pháp thường được chính phủ sử dụng là vay thêm tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam hiện nay bao gồm : Vay trong nước và vay nước ngoài. Vay trong nước gồm những khoản vay sau: +/ Phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương; +/ Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho ngân sách nhà nước ; +/ Huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nước. Vay nước ngoài bao gồm những khoản vay sau: +/ Phát hành trái phiếu quốc tế; +/ Vay hỗ trợ phát triểm chính thức ( ODA); +/ Vay thương mại; +/ Vay ưu đãi; +/ Vay của các cá nhân tổ chức nước ngoài thông qua hợp đồng tín dụng. 2. Quy định của pháp luật về thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam Theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định “Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn”. Như vậy mục đích của các khoản vay nợ ở Việt Nam là để bù đắp vào ngân sách nhà nước khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt nghĩa là nhiệm vụ chi vượt quá nguồn thu . Theo đó, cứ mỗi năm Ngân sách nhà nước phải dự toán thu chi ngân sách nhà nước đồng thời dự toán số bội chi của năm đó (Dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2011: 595.000 tỷ đồng, tăng 12,7% so với ước thực hiện năm 2010, Bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 là 120.600 tỷ đồng, bằng 5,3% GDP). Quyết định dự toán ngân sach nhà nước được quy định tại Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân các cấp, các tổ chức và đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện dự toán ngân sách trong phạm vi được giao. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh ( Khoản 3 Điều 8 luật Ngân sách nhà nước năm 2002). Như vậy ngân sách địa phương được quyền chủ động cân đối thu chi đồng thời được phép huy động vốn trong nước để đầu tư công trình kết cấu hạ tầng nằm trong danh mục đàu tư kế hoạch năm năm. Căn cứ Khoản 2 Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 và Luật quản lý nợ công năm 2009 các khoản vay nợ ở Việt Nam được chia thành khoản vay trong nước và vay nước ngoài. Các khoản vay trong nước bao gồm: Phát hành trái phiếu Chính phủ,trái phiếu địa phương; Chính phủ và chính quyền địa phương có quyền phát hành các công cụ nợ như tín phiếu, trái phiếu, công trái… để huy động vốn của các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài. Ngoài các quy định trong Luật quản lý nợ công; Nghị định số 01/2011/NĐ –CP quy định về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương. Theo Nghị định 01/2011/NĐ-CP Chính phủ đã chính thức bỏ 03 loại: Trái phiếu công trình Trung ương; Trái phiếu đầu tư; Trái phiếu ngoại tệ ra khỏi danh sách các loại trái phiếu Chính phủ. Cũng theo Nghị định thì chủ thể phát hành trái phiếu Chính phủ sẽ là Bộ Tài chính mà không phải là Chính phủ như quy định trước đây. Trái phiếu Chính phủ được phát hành theo 04 phương thức là: đấu thầu; bảo lãnh phát hành; đại lý phát hành và bán lẻ trái phiếu. Ngoài ra, Nghị định này còn quy định về trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương. Trong đó đáng chú ý là chủ thể phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là doanh nghiệp thực hiện chương trình, dự án được xem xét cấp bảo lãnh; tổ chức tài chính, tín dụng, ngân hàng chính sách của Nhà nước thực hiện chương trình tín dụng có mục tiêu của Nhà nước. Bộ Tài chính là cơ quan cấp bảo lãnh thanh toán cho trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.  Mức bảo lãnh thanh toán tối đa bằng 100% giá trị gốc, lãi trái phiếu phát hành theo đề án phát hành trái phiếu đã được Thủ tướng phê duyệt… Vay từ ngân hàng nhà nước; Vay từ ngân hàng nhà nước được hiểu là Ngân hàng nhà nước tạm ứng cho ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Khoản tạm ứng nay phải được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Ủy ban thường vụ Quốc hội. (Theo quy định tại Điều 26 – Luật ngân hàng năm 2010). Vay từ các tổ chức, cá nhân khác. Vay từ các tổ chức, cá nhân khác là nguồn thu từ huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật (điểm p khoản 1 Điều 32 Luật ngân sách nhà nước năm 2002). Các khoản vay nước ngoài bao gồm: Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); Vay từ hỗ trợ phát triển chính thức thức (vay ODA) là khoản vay nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam từ nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, tổ chức tài trợ song phương, tổ chức liên quốc gia hoặc tổ chức liên chính phủ có yếu tố không hoàn lại (thành tố ưu đãi) đạt ít nhất 35% đối với khoản vay có ràng buộc, 25% đối với khoản vay không ràng buộc. (khoản 13 Điều 3 Luật quản lý nợ công 2009). Thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, căn cứ nhiệm vụ được giao, trong thời gian qua các Bộ, cơ quan và các địa phương đã thực hiện được nhiều việc, góp phần cải thiện tình hình thực hiện ODA và giải ngân. Đó là: Chính phủ đã ban hành Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 11 năm 2006 thay thế Nghị định 17/2001/NĐ-CP ngày 04 tháng 5 năm 2001 về quản lý và sử dụng ODA. Như vậy, Chính phủ đã bốn lần ban hành các văn bản khung pháp lý cao nhất cho hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn quan trọng này. Các nghị định đã tạo ra khung pháp lý chặt chẽ và khá đồng bộ đối với công tác quản lý nhà nước về ODA. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị định 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 và Nghị định 07/2003/NĐ-CP ngày 30/1/2003 bổ sung, sửa đổi Nghị định 52/NĐ-CP ngày 8/7/1999 về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng; Luật Đấu thầu 2005 và Nghị định 111/2006/NĐ-CP ngày 19/9/2006 thay thế Nghị định 88/NĐ-CP quy định về thủ tục đấu thầu; Chính phủ đã ban hành Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 thay thế Nghị định 22/ NĐ-CP về đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng có tính đến những sửa đổi của Luật Đất đai. Vay ưu đãi; Vay ưu đãi là khoản vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại nhưng thành tố ưu đãi chưa đạt tiêu chuẩn của vay ODA. (khoản 14 Điều 3 Luật quản lý nợ công năm 2009) Vay thương mại; Vay thương mại là khoản vay theo điều kiện thị trường (khoản 15 Điều 3 Luật quản lý nợ công năm 2009). Phát hành trái phiếu quốc tế ; Để phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế, ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định trong Luật Quản lý nợ công còn phải có đề án phát hành trái phiếu được Chính phủ phê duyệt ( Khoản 2 Điều 21 Luật quản lý nợ công). Giá trị phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế phải nằm trong tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của Chính phủ hàng năm và phù hợp với chiến lược quản lý nợ công, chương trình quản lý nợ trung hạn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Huy động tổ chức, cá nhân nước ngoài, vay từ các tổ chức, cá nhân, quốc gia nước ngoài thông qua hợp đồng tín dụng. ( Điểm 3 Điều 2 Nghị đinh 60/ 2003/ NĐ- CP hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước ) Để đảm bảo quản lý bao quát, đầy đủ các khoản vay nợ từ nước ngoài quốc hội đã ban hành nghị định Số : 134/2005/NĐ-CP về Ban hành Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài. Nghị định này đã quy định rõ mục tiêu, nội dung, nguyên tắc quản lý cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước về lĩnh vực vay và trả nợ nước ngoài. Tuy các quy định về thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ của Việt Nam còn nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật nhưng việc pháp luật quy định rõ ràng hợp lý từng khoản vay nợ ở Việt Nam góp phần tạo điều kiện thuận lợi, tạo ra khung pháp lý an toàn cho việc thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ. 3. Thực tiễn áp dụng thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam Thực hiện chiến lược huy động vốn cho NSNN trong nhiều năm qua Chính phủ, một số Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, một số định chế tài chính nhà nước như Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã tổ chức huy động các nguồn vốn trong nước, nước ngoài thông qua hình thức vay nợ. Để bảo đảm an toàn nợ của quốc gia và nợ của chính phủ, các nước và Việt Nam cũng vậy thường sử dụng các tiêu chí sau đây làm giới hạn vay và trả nợ:Thứ nhất, giới hạn nợ quốc gia không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, dịch vụ trả nợ quốc gia không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách Thông qua hoạt động vay nợ đã huy động được nguồn vốn khá lớn, bù đắp bội chi cho NSNN. Trong nhiều năm qua, thu từ các khoản vay nợ luôn chiếm tỉ trọng lớn trong thu NSNN, năm 2010 : 111200 tỉ đồng (19,85% ), dự toán 2011 : 120600 tỉ đồng ( 19,9 %) Các khoản vay trong nước. Từ năm 1992, Chính phủ phát hành tín phiếu kho bạc để bù đắp thiếu hụt tạm thời về nguồn ngân quỹ; phát hành trái phiếu kho bạc để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước và phát hành công trái, trái phiếu đầu tư, trái phiếu công trình để thực hiện những dự án đầu tư trọng điểm của Nhà nước. Chủ thể chịu trách nhiệm phát hành trái phiếu Chính phủ là Bộ Tài chính. Bên cạnh đó còn có các khoản vay tạm ứng từ Quỹ dự trữ tài chính, Quỹ Bảo hiểm xã hội hoặc các nguồn tài chính hợp pháp khác ( các tổ chức, cá nhân khác ) để bù đắp thiếu hụt ngân quỹ tạm thời hoặc để bù đắp bội chi NSNN. Đối với Việt Nam, công trái là hình thức huy động vốn có hiệu quả, qua các đợt phát hành với chính sách lãi suất và thời hạn hoàn trả hợp lý đã huy động được nguồn vốn to lớn vào ngân sách nhà nước đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của nhà nước góp phần chống lạm phát và ổn định nền kinh tế xã hội. Không chỉ phát hành trái phiếu chính phủ mà các địa phương cũng đã bắt đầu tiền hành vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương theo các quy định của Luật NSNN (khoản 3, Điều 8) và Nghị định số 141/2003/NĐ-CP về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu địa phương, hiện nay Nghị định này đã được thay thế bằng Nghị định số 01/2011/NĐ-CP. Đến nay có 3 địa phương bao gồm thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng thực hiện vay thông qua phát hành trái phiếu. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi Bộ Tài chính hồ sơ phát hành trái phiếu để thẩm định. Hồ sơ phát hành trái phiếu bao gồm đề án phát hành trái phiếu ( đề án được HĐND tỉnh chấp thuận bằng văn bản) các văn bản pháp lý chứng minh đủ điều kiện phát hành trái phiếu và các tài liệu có liên quan khác. Căn cứ hồ sơ phát hành trái phiếu, các quy định của Nghị định này, Luật Quản lý nợ công, Luật Ngân sách nhà nước và các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan, Bộ Tài chính thẩm định đề án phát hành trái phiếu và ban hành văn bản chấp thuận hoặc không chấp thuận việc phát hành trái phiếu. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên ở Việt Nam được thực hiện phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, là trái phiếu đô thị TP.HCM. Phát hành trái phiếu đô thị là một trong những kênh huy động vốn hiệu quả của Thành phố Hồ Chí Minh trong các năm qua nhằm cân đối nguồn vốn cho nhu cầu đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của thành phố. Năm 2003 - 2007, Quỹ Đầu tư thành phố đã đảm nhiệm vai trò tư vấn kỹ thuật, phối hợp cùng Sở Tài chính thực hiện thành công 5 đợt phát hành trái phiếu đô thị, huy động được 10.000 tỷ đồng trái phiếu đáp ứng nhu cầu phát triển của Thành phố. Có thể thấy Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu để huy động người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn, vì những tác động phụ của nó lại làm giảm tổng cầu. Trong quá trình điều hành về ngân sách nhà nước, chỉ khi thiếu hụt ngân sách tạm thời thì mới xử lý việc tạm ứng cho ngân sách trung ương. Việc Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho ngân sách để xử lý thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính là vấn đề kỹ thuật và phù hợp với điều kiện thực tiễn thu - chi ngân sách và quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Trường hợp ngân sách không thể hoàn trả trong năm tài chính, làm thay đổi thu-chi ngân sách theo dự toán đã được Quốc hội phê duyệt thì phải báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Năm 2009, trước tình hình khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế, Chính phủ đã phải lấy từ Quỹ Dự trữ ngoại hối do Ngân hàng Nhà nước quản lý 1 tỉ Đô la Mỹ để thực hiện gói kích cầu. Đây được coi là giải pháp tình thế trong tình hình nước sôi lửa bỏng. Nhìn chung việc thu ngân sách nhà nước từ khoản vay tạm ứng của ngân hành nhà nước chỉ được coi là giải pháp tình thế, không được coi là nguồn thu chính để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Các khoản vay ngoài nước. Trong cơ cấu thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam , nợ nước ngoài có vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng cao : năm 2009 : 16000 tỉ đồng ; ; năm 2010 – 21000 tỉ đồng; dự toán 2011 – 28000 tỉ đồng .  Ngoài các khoản vay cũ trước 1990 đã được xử lý qua Câu lạc bộ Paris và Câu lạc bộ Luân Đôn, trong thời gian qua, vay nước ngoài của Chính phủ chủ yếu thông qua vay ODA cho phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội. Trong vài năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu đầu tư trong nước và trước xu thế vốn ODA giảm dần, Chính phủ đã bắt đầu vay một số khoản vay kém ưu đãi hơn hoặc vay theo điều kiện thương mại, vay các tổ chức, cá nhân, ngân hàng thương mại, kể cả phát hành trái phiếu quốc tế. Các hình thức huy động vốn vay ngày càng đa dạng, linh hoạt, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển đồng bộ thị trường tài chính. Vay của Chính phủ chủ yếu được huy động từ nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi và phát hành TPCP để đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội của đất nước. Vốn ODA có vai trò rất lớn đối với đầu tư phát triển góp phần nâng cao mức sống cho người dân thông qua các chương trình hỗ trợ phát triển hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, v.v…. Nợ nước ngoài đối với VN cho tới thời điểm này chủ yếu là vốn ODA với lãi suất thấp và thời gian cho vay dài, tỷ lệ vay thương mại là không đáng kể.. Riêng trong năm 2009, các nhà tài trợ đã cam kết cho nước ta vay khoảng 8,06 tỷ USD vốn ODA và cho vay ưu đãi; cam kết tài trợ ODA năm 2010 với hơn 8 tỷ USD. Trong nợ chính phủ , nợ nước ngoài chiếm 60% trong đó có tới 85 % là ODA. Huy động ODA giai đoạn 2006-2010 Ngành, lĩnh vực Giá trị ODA theo hiệp định 2001-2005 Dự báo giá trị ODA theo hiệp định 2006-2010 Dự báo giá trị ODA cam kết Tỉ USD Tỉ trọng đầu tư Tỉ USD Tỉ trọng đầu tư Tỉ USD Nông nghiệp, thủy lợi, thủy sản kết hợp với phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo 1,6 14,6% 2,2-2,5 18% 2,9-3,3 Năng lượng và công nghiệp 2,1 18,7% 1,9-2,2 16% 2,6-2,9 Giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị 2,9 26,3% 3,6-4,1 30% 4,8-5,5 Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác 4,5 40,4% 4,3-4,9 36% 5,8-6,6 Tổng 11,1 100% 12-13,6 100% 16-18,2 Theo ông Lê Xuân Nghĩa – Phó chủ tịch ủy ban giám sát tài chính quốc gia thì các khoản vay ODA lãi suất thấp, thời hạn 40 năm, ân hạn 10 năm thì coi như cho không. Nếu có vay nhiều hơn nữa cũng không ảnh hưởng gì đến an ninh tài chính quốc gia”.. Các điều khoản  ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ công; Tuy nhiên, tỷ trọng nợ nước ngoài cao tăng nguy cơ rủi ro về cơ cấu nợ trong tương lai. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ trong lịch sử cho thấy, khi tỷ trọng nợ nước ngoài quá cao, Chính phủ mất đi tính chủ động khi ứng phó với các biến động kinh tế thế giới và khó kiểm soát các món nợ vay phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái và tâm lý của nhà đầu tư quốc tế. Để tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, trong những năm gần đây Chính phủ đã tích cực vay các khoản vay từ các chủ nợ tư nhân, các ngân hàng thương mại. Đặc biệt, chính phủ đã mạnh dạn phát hành trái phiếu quốc tế. Ngày 26/01/2010, Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu Chính Phủ thời hạn 10 năm trên thị trường quốc tế với lợi tức 6,95%. Trước đó, vào tháng 10/2005, Việt Nam cũng đã hoàn thành đợt chào bán trái phiếu quốc tế đầu tiên với giá trị phát hành là 750 triệu USD, thời hạn 10 năm và lợi suất 7,125% sau đó cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam vay lại. Trái phiếu quốc tế do Việt Nam phát hành thành công nhưng TPCP bằng ngoại tệ phát hành trong những đợt gần đây, đặc biệt trong năm 2009 đều không thu được kết quả như mong muốn, nguyên nhân chính là do vấn đề lãi suất không hấp dẫn. Đợt phát hành thứ nhất vào tháng 3/2009, 3 lần đấu thầu chỉ huy động được 230,11 triệu USD trong tổng số 300 triệu USD được đưa ra mời thầu. Đợt 2 vào tháng 8/2009, trái phiếu ngoại tệ kỳ hạn dài số lượng bỏ thầu rất ít. Trong đó, cả 3 phiên chỉ huy động được 100 triệu USD/100 triệu USD trái phiếu chào bán kỳ hạn 1 năm; 47 triệu USD/100 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 2 năm; và 10 triệu USD/50 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 3 năm. Đợt phát hành thứ 3, và thứ 4 vào ngày 29/12/2009, kết quả chỉ huy động được 73 triệu USD trong tổng số 200 triệu USD giá trị trái phiếu gọi thầu, đạt 36,5%. Tỷ lệ huy động thành công có xu hướng giảm dần theo từng đợt phát hành kể từ đầu 2009 tới nay. Nhìn chung, các khoản vay nước ngoài của Việt Nam không chỉ đa dạng về hình thức vay mà còn phong phú về chủ thể cho vay. Ngoài các tổ chức đa phương như ADB, IDA, IMF ; các quốc gia như Nhật Bản, Hoa kỳ… còn có các chủ nợ tư nhân. Bên cạnh đó, các khoản vay nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản vay bằng USD (22,95%) và JPY (38,25%)  (biểu đồ 3) gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD. Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó chủ yếu là ở mức 1% - 2,99%. Theo bản tin số 5, các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%; vay ưu đãi chiếm 5,41%; vay thương mại 19,92%. Tuy nhiên so với các năm trước, năm 2010, các khoản vay của Việt Nam có lãi suất cao hơn và khoản vay với lãi suất thả nổi đang ngày càng tăng lên, gây thêm áp lực nợ cho Chính phủ. Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Với thực trạng này, rõ ràng chi phí trả lãi đang trở thành gánh nặng ngày càng gia tăng của Chính phủ. Thu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ của Việt Nam hiện nay một trong những biện pháp tăng thu ngân sách nhà nước biều hiện cụ thể bằng việc nợ chính phủ tăng mạnh theo từng năm cụ thể:Năm 2008 chiếm khoảng 36,5% GDP; năm 2009 ước lên đến 40% GDP; năm 2010 dự kiến khoảng 44% GDP.Tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam lần thứ 16, tuy các nhà tài trợ đã cam kết dành 8,063 tỉ USD vốn ODA cho Việt Nam trong năm tới (mức kỷ lục từ trước đến nay), nhưng sau khi cam kết tài trợ ODA năm 2010, vấn đề nợ công một lần nữa lại được hâm nóng trong nhóm tư vấn các nhà tài trợ. Trước đó, những kế hoạch phát triển đầy tham vọng của Chính phủ như phát hành trái phiếu chính phủ tổng cộng 146 nghìn tỉ đồng trong nước và khoảng 1 tỉ USD ra nước ngoài trong năm 2010, được cho là có thể khiến nợ công tăng lên nhanh chóng, đã được bàn luận tại diễn đàn Quốc hội.Vấn đề được đặt ra là liệu nợ công có bảo đảm trong ngưỡng an toàn? Phó Chủ nhiệm ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội, ông Trịnh Huy Quách cho biết, quan điểm về ngưỡng an toàn trong tỷ lệ nợ công so với GDP cũng khác nhau. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP, nhưng trên thực tế, ở nhiều nước tỷ lệ này lên đến trên 80% GDP.Bình luận về những tương quan so sánh kể trên, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia Lê Xuân Nghĩa cho rằng, tỷ lệ nợ công của Việt Nam hiện nay thấp hơn rất nhiều so với các nước (Hoa Kỳ khoảng 300% GDP) và nếu nợ công cao hơn nữa, vẫn bảo đảm trong giới hạn an toàn cho phép. Điều đáng bàn chính là cơ cấu nợ. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến cuối năm 2009, cơ cấu nợ công gồm: nợ chính phủ chiếm 79,3%; nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm khoảng 3,1%. Trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60% (trong đó 85% là vốn vay ODA); nợ trong nước chiếm 40%. Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc, nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ quốc gia tuy cao, nhưng vẫn trong ngưỡng cho phép, trong khả năng trả nợ của Việt Nam, hằng năm, Chính phủ vẫn dành một khoản ngân sách để trả nợ vay nước ngoài, và chúng ta chưa hề trì hoãn bất kỳ khoản vay nào. Đại diện hai nhà tài trợ quan trọng là Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng đều nhất trí với quan điểm trên. Theo công bố mới đây của Bộ Tài chính, tổng nợ nước ngoài của Việt Nam đến năm 2010 là 32,5 tỉ USD, tăng 4,5 tỉ USD so với mức 27,9 tỉ USD năm 2009. Trong điều kiện là một nước đang phát triển, nền kinh tế đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển tăng cao, nợ công đối với Việt Nam vẫn là nguồn tài chính quan trọng bù đắp thâm hụt ngân sách để chi đầu tư cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Hiệu quả sử dụng các khoản vay nợ phụ thuộc nhiều vào chính sách quản lý các khoản vay của ngân sách nhà nước. Với tình hình Việt Nam hiện nay, các khoản vay ODA được xem là ưu đãi nhất, phù hợp nhất,chiếm tới 85 % nợ nớc ngoài góp phần đảm bảo nguồn vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển của đất nước nhưng cần xem xét đến khả năng chi trả, hoàn trả trong thời gian tới. 4. Kiến nghị. Về chính sách vay nợ và trả nợ của Chính phủ để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước và mở rộng đầu tư phát triển kinh tế, nhiều nước trên thế giới đã có chính sách huy động vốn trong nước và vay nợ nước ngoài một cách triệt để và có hiệu quả, kể cả các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và các nước đang phát triển như Trung Quốc, Xin-ga-po, Thái Lan, Phi-lip-pin… Khi hoạch định chính sách vay nợ, cần chú ý đến những vấn đề sau:- Căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, kế hoạch ngân sách nhà nước hằng năm, nhu cầu chi tiêu và đầu tư của nhà nước, yêu cầu và nhiệm vụ của nhà nước trong từng thời kỳ. Nhà nước dự kiến mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn hướng vào các đối tượng ở trong và ngoài nước bằng những hình thức huy động vốn thích hợp và có chính sách lãi suất căn cứ vào mặt bằng lãi suất thị trường. Chính sách vay nợ của nhà nước phải lành mạnh hóa nền tài chính tiền tệ quốc gia, góp phần ổn định giá trị đồng nội tệ; mở rộng các hoạt động đầu tư theo định hướng của nhà nước và nâng cao hiệu quả đầu tư; góp phần kiến tạo một thị trường tài chính năng động. Tiên lượng trước các vấn đề có thể nảy sinh khi tính toán nợ chính phủ. Đó là:a) Lạm phát chi tiêu thâm hụt ngân sách. Khi tính toán nợ chính phủ thường không lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu của chính phủ, chỉ tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa, nhưng đáng lẽ ra chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại. Trong những thời kỳ lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh hưởng của yếu tố này rất lớn;b) Tài sản đầu tư. Khi tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị của tài sản chính phủ. Thực ra điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài sản của cá nhân. Khi một cá nhân vay tiền để mua nhà thì không thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay, mà phải trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy nhiên, khi tính toán theo phương pháp này thường gặp phải vấn đề là những gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ, đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục…;c) Các khoản nợ tiềm tàng. Cần thay đổi mức lãi suất phù hợp đối với Trái phiếu quốc tế do Việt Nam phát hành để có thể cạnh tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThu ngân sách nhà nước từ các khoản vay nợ ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan