MỤC LỤC
Mở đầu. . . . 2
Chương I: Quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá . . . 3
1.1. Quy luật giá trị . . . 3
1.1.1. Nội dung của Quy luật giá trị . . 3
1.1.2. Hình thức của Quy luật giá trị . . 4
1.2. Vai trò của Quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá . 4
1.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thong hàng hoá . . 4
1.2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật . . 6
1.2.3. Phân hoá những người sản xuất hàng hoá . . 6
Chương 2: Thực trạng việc vận dụng Quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta thời gian qua và những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn Quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới. . . 8
2.1. Thực trạng và vai trò . . . 8
2.1.1. Thực trạng việc vận dụng Quy luật giá trị ở nước ta thời gian qua.8
2.1.2. Vai trò của Quy luật giá trị . . 14
2.2. Những giải pháp nhằm vận dụngtốt hơn Quy luật giá trị ở nước trong thời gian tới. . . . 14
2.2.1. Điều tiết khống chế và quản lý vĩ mô . . 14
2.2.2. Nâng cao sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập. 15
2.2.3. Giảm bất bình đẳng trong xã hội . . 17
2.2.4. Quan tâm đầu tư hơn nữa vào nền giáo dục. 18
Kết luận . . . 19
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4167 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g xã hội chủ nghĩa".
Trong đề án này, tôi xin được đi sâu phân tích quy luật giá trị và
vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.
4
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ
TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ
1.1. Quy luật giá trị
1.1.1. Nội dung của quy luật giá trị
Trong nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá và dịchvụ do các doanh
nghiệp, những người sản xuất hàng hoá tư nhân, riêng lẻ sản xuất ra.
Những chủ thể sản xuất hàng hoá cạnh tranh với nhau. Mỗi người sản
xuất hàng hoá đều nghĩ đến cách chen lấn người khác, đều muốn giữ
vững và mở rộng thêm địa vị của mình trên thị trường. Mỗi người đều tự
mình sản xuất không phụ thuộc vào người khác, nhưng trên thị trường
những người sản xuất hàng hoá là bình đẳng với nhau. Sản xuất hàng
hoá càng phát triển thì quyền lực của thị trường đối với người sản xuất
hàng hoá càng mạnh. Nó như thế có nghĩa là trong nền kinh tế hàng hoá
có những quy luật kinh tế ràng buộc và chi phối hoạt động của những
người sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và
lưu thông hàng hoá.
Quy luật giá trị quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải
căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
Qui định ấy là khách quan, đảm bảo sự công bằng hợp lý, bình
đẳng giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị
buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo "mệnh
5
lệnh" của giá cảthị trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường
sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên
xuống một cách tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá và biểu hiện sự tác
động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.
1.1.2. Hình thức của quy luật giá trị
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn: sản phẩm làm ra, trao đổi
với mục đích là để thoả mãn nhu cầu cá nhân.Vì vậy, lưu thông và buôn
bán không phải là mục đích chính của người sản xuất.
Trong nền sản xuất hàng hoá TBCN: Hàng hoá được làm ra không
đơn thuần để trao đổi mà còn để buôn bán và lưu thông.
Giá trị hàng hoá biểu hiện ra bằng tiền được gọi là giá cả hàng hoá.
Trong nền kinh tế XHCN, tiền tệ cũng dùng làm tiêu chuẩn giá cả.
Tuỳ vào từng giai đoạn mà quy luật giá trị có các hình thức chuyển
hoá khác nhau. Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, quy luật giá trị
chuyển hoá thành quy luật giá cả sản xuất. Trong giai đoạn CNTB độc
quyền, quy luật giá trị chuyển hoá thành quy luật giá cả độc quyền cao.
1.2. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá.
Như đã biết quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá quy luật giá
trị có những tác dụng sau đây:
1.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu thường xảy ra
tình hình: người sản xuất bỏ ngành này, đổ xô vào ngành khác; tư liệu
sản xuất và sức lao động xã hội được chuyển từ ngành này sang ngành
khác, quy mô sản xuất của ngành này thu hẹp lại thì ngành kia lại mở
6
rộng ra với tốc độ nhanh chóng. Chính quy luật giá trị đã gây ra những
hiện tượng đó, đã điều tiết việc sản xuất trong xã hội. Muốn hiểu rõ vấn
đề này, cần xem xét những trường hợp thươnừg xảy ra trên thị trường
hàng hoá:
- Giá cả nhất trí với giá trị;
- Giá cả cao hơn giá trị;
- Giá cả thấp hơn giá trị.
Trường hợp thứ nhất nói lên cung và cầu trên thị trường nhất trí
với nhau, sản xuất vừa khớp với nhu cầu của xã hội. Do dựa trên chế độ
tư hữu, sản xuất hàng hoá tiến hành một cách tự phát, vô chính phủ, nên
trường hợp này hết sức hiếm và ngẫu nhiên.
Trường hợp thứ hai nói lên cung ít hơn cầu, sản xuất không thoả
mãn được nhu cầu của xã hội nên hàng hoá bán chạy và lãi cao. Do đó,
những người sản xuất loại hàng hoá đó sẽ mở rộng sản xuất; nhiều người
trước kia sản xuất loại hàng hoá khác cũng chuyển sang sản xuất loại
này. Tình hình đó làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển
vào ngành này nhiều hơn các ngành khác.
Trường hợp thứ ba chỉ rõ cung cao hơn cầu, sản phẩm làm ra quá
nhiều so với nhu cầu xã hội, hàng hoá bán không chạy và bị lỗ vốn. Tình
hình đó buộc một số người sản xuất ở ngành này phải rút bớt vốn chuyển
sang ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở
ngành này.
Như vậy là theo "mệnh lệnh" của giá cả thị trường lúc lên, lúc
xuống xoay quanh giá trị mà có sự di chuyển tư liệu sản xuất và sức lao
động từ ngành này sang ngành khác, do đó quy mô sản xuất của ngành
7
đó mở rộng. Việc điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động trong từng
lúc có xu hướng phù hợp với yêu cầu của xã hội, tạo nên những tỷ lệ cân
đối nhất định giữa các ngành sản xuất. Đó là biểu hiện vai trò điều tiết
sản xuất của quy luật giá trị. Nhưng sản xuất trong điều kiện chế độ tư
hữu, cạnh tranh, vô chính phủ nên những tỷ lệ cân đối hình thành một
cách tự phát đó chỉ là hiện tượng tạm thời và thường xuyên bị phá vỡ,
gây ra những lãng phí to lớn về của cải xã hội.
Quy luật giá trị không chỉ điều tiết sản xuất mà điều tiết cả lưu
thông hàng hoá. Giá cả của hàng hoá hình thành một cách tự phát theo
quan hệ cung cầu. Cung và cầu có ảnh hưởng đến giá cả, nhưng giá cả
cũng có tác dụng khơi thêm luồng hàng, thu hút luồng hàng từ nơi giá
thấp đến nơi giá cao. Vì thế, lưu thông hàng hoá cũng do quy luật giá trị
điều tiết thông qua sự lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị.
1.2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm
tăng năng suất lao động.
Các hàng hoá được sản xuất trong những điều kiện khác nhau nên
có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường đều phải trao đổi theo
giá trị xã hội. Người sản xuất nào có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp
hơn giá trị xã hội thì có lợi; trái lại, người có giá trị cá biệt cao hơn giá
trị xã hội sẽ ở thế bất lợi, có thể bị phá sản. Để tránh bị phá sản và giành
ưu thế trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất hàng hoá đều tìm cách giảm
giá trị cá biệt hàng hoá của mình xuống dưới mức giá trị xã hội bằng
cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động.
Lúc đầu, chỉ có kỹ thuật của một số cá nhân được cải tiến, về sau do
cạnh tranh nên kỹ thuật của toàn xã hội được cải tiến. Như thế là quy
luật giá trị đã thúc đẩy lực lượng sản xuất và sản xuất phát triển.
8
1.2.3. Phân hoá những người sản xuất hàng hoá nhỏ, làm nảy
sinh quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trên thị trường, các hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau đều phải
trao đổi theo giá trị xã hội. Do đó, trong quá trình sản xuất và trao đổi
hàng hoá không tránh khỏi tình trạng một số người sản xuất phát tài, làm
giàu, còn số người khác bị phá sản.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, sự tác động của quy luật
giá trị dẫn đến kết quả là một số ít người mở rộng dần kinh doanh, thuê
nhân công và trở thành nhà tư bản, còn một số lớn người khác bị phá sản
dần, trở thành những người lao động làm thuê. Thế là sự hoạt động của
quy luật giá trị dẫn tới hệ phân hoá những người sản xuất hàng hoá, làm
cho quan hễ tư bản chủ nghĩa phát sinh. Lênin nói "… nền tiểu sản xuất
thì từng ngày, từng giờ, luôn luôn đẻ ra chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư
sản, một cách tự phát và trên quy mô rộng lớn".
Trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, quy luật giá trị
cũng tác động hoàn toàn tự phát "sau lưng" người sản xuất, hoàn toàn
ngoài ý muốn của nhà tư bản. Chỉ trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị, con người
mới có thể nhận thức và vận dụng quy luật giá trị một cách có ý thức để
phục vụ lợi ích của mình.
Nghiên cứu quy luật giá trị không chỉ để hiểu biết sự vận động của
sản xuất hàng hoá, trên cơ sở đó nghiên cứu một số vấn đề khác trong xã
hội tư bản chủ nghĩa, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa
coi trọng việc vận dụng quy luật giá trị trong việc qui định chính sách
9
giá cả, kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, thực hiện hạch toán kinh tế
v.v..
10
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC VẬN DỤNG QUI LUẬT GIÁ TRỊ VÀO
NỀN KINH TẾ NƯỚC TA THỜI GIAN QUA VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN QUY LUẬT Ở NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN TỚI.
2.1. Thực trạng việc vận dụng quy luật giá trị và vai trò của quy luật
giá trị trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của
nước ta được xác định là: Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định
hướng XHCN.
2.1.1. Thực trạng việc vận dụng qui luật giá trị ở nước ta thời
gian qua
Trước khi đổi mới, cơ chế kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế
tập trung bao cấp. Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế một cách có kết hoạch
mang nhiều yếu tố chủ quan. Điều này đã phủ nhận tính khách quan của
quy luật giá trị làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng động của xã
hội. Nền kinh tế rơi vào tình trạng kém phát triển.
Sau khi đổi mới quy luật giá trị được nhà nước vận dụng vào kế
hoạch hoá mang tính định hướng. Nhà nước phải dựa trên tình hình định
hướng giá cả thị trường để tính toán vận dụng quy luật giá trị vào việc
xây dựng kế hoạch. Do giá cả hàng hoá là hình thức biểu hiện riêng của
giá trị, nhưng nó còn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khác như
quy luật cung cầu.
11
2.1.1.1. Tình hình kinh tế nước ta trong thời gian qua
a) Tăng trưởng kinh tế và đóng góp vào tăng trưởng GDP
Nhờ thực hiện đổi mới kinh tế, vận dụng đúng các quy luật kinh tế.
Từ năm 1991 nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng với tốc độ khá cao,
trung bình 7,67% hàng năm từ 1991-1999, mức kỷ lục là 9,54% năm
1995.
Từ năm 1998, tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm do nhiều
nguyên nhân trong đó chủ yếu là yếu kém về cơ cấu và thể chế cũng như
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.
Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đã có chuyển dịch tích cực theo
hướng giảm tỷ trọng khu vực nông - lâm - ngư nghiệp và tăng tỷ trọng
của khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên tốc độ dịch
chuyển cơ cấu GDP còn rất chậm. Năm 2000, khu vực nông - lâm - ngư
nghiệp trong GDP vẫn còn chiếm 24,3%. Trong khi đó khu vực công
nghiệp xây dựng là 36,6% và khu vực dịch vụ là 39,1% từ mức 23,5%
và 36% tương ứng của năm 1991.
Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế, cũng có những chuyển dịch
đáng lưu ý là: Sau thời kỳ suy giảm từ năm 1986-1991 tỷ trọng của khu
vực kinh tế nhà nước tăng nhanh từ 29,25% năm 1991 lên 39,2% năm
1993. Sau đó giữ ổn định khoảng trên 40% từ 1994-1999. Trong khi đó
tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước trong GDP
liên tục giảm từ 70,75% năm 1991 xuống còn 49,4% năm 1999. Tiềm
năng của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn lớn và chưa được khai thác
cao cho tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu ở
sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, sản xuất công nghiệp và cung cấp dịch
vụ với quy mô nhỏ và rất nhỏ. Từ năm 1994 khu vực có vốn đầu tư nước
12
ngoài đã có vai trò ngày càng tăng trong phát triển kinh tế Việt Nam.
Mặc dù từ năm 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giảm
mạnh, tỷ trọng của khu vực này trong năm GDP vẫn tăng, chiếm 9,82%
năm 1998 và 10,4% năm 1999.
b) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2002 đạt 16,706 tỷ USD, tăng
11,2% so với năm 2001, đạt được mục tiêu tăng xuất khẩu năm 2002 là
từ 10 đến 12% và cao hơn nhiều so với mức tăng 3,8% của năm 2001.
Điều đặc biệt là sau 6 tháng đầu năm 2002 liên tục giảm xuất khẩu bắt
đầu tăng nhanh dần sau những tháng tiếp theo xuất khẩu hàng hoá của
các doanh nghiệp trong nước đạt 8,834 tỷ USD bằng 52,9% tổng kim
ngạch xuất khẩu, tăng 7,4% xuất khẩu của các doanh nghiệp nước ngoài
đạt 7,87 tỷ USD, bằng 47,1% tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 15,8%.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2002 ước đạt 19,73 tỷ USD
tăng 22,1% so với năm 2001. Tương tự như xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá liên tục tăng và nhanh dần vào các tháng cuối năm. Nhập khẩu hàng
hoá trong nước ước đạt 13,11 tỷ USD, bằng 66,5% tổng kim ngạch nhập
khẩu, tăng 17,3%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập
6,62 tỷ USD, bằng 33,5%. Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 32,8%.
Trong tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu, máy móc thiết bị,
ô tô xe máy chiếm 97,5% tăng 0,1% hàng tiêu dùng chỉ chiếm 2,5%,
giảm 0,1%.
c) Lạm phát
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những
năm 1990, Việt Nam đã khá thành công trong việc kiềm chế và kiểm
13
soát lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,5% năm 1991 xuống còn
0,1% năm 1996.
Sau ba năm liền gần như không tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2002
tăng 4% so với năm 2001. Điều đó phản ánh mức cầu gia tăng khá mạnh
đồng thời thấy được sự ổn định về giá trị của hàng hoá trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta. Trên thực tế, tổng giá trị hàng hoá bán lẻ và doanh
thu dịch vụ năm 2002 tăng tới 12,85 so với năm 2001. Tuy nhiên có sự
khác biệt khá rõ rệt trong diễn biến giá cả giữa các nhóm mặt hàng.
Giá hàng hoá phi lương thực thực phẩm tương đối ổn định. Mức
tăng giá của các mặt hàng này là thấp nhất so với giá cả của các nhóm
mặt hàng khác, đang được coi là dấu hiệu tốt trong mối quan hệ giữa
hàng công nghiệp và nông sản vốn bất lợi cho người sản xuất nông
nghiệp trong những năm qua.
d) Đầu tư và tiết kiệm
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1999 - 2000 đạt khoảng
682.880 tỉ đồng, tăng liên tục từ 6.747 tỷ đồng năm 1990 lên 68.018 tỷ
đồng năm 1995 và 120.600 tỷ đồng năm 2000 (giá hiện hành). Tổng đầu
tư xã hội so với GDP cũng tăng nhanh, từ 15,1% năm 1991 lên 28,3%
năm 1997 là mức cao nhất trong cả giai đoạn. Từ năm 1998 khi khủng
hoảng tài chính châu Á nổ ra, tỷ lệ này có xu hướng giảm chỉ còn 26,3%
năm 1999, là một trong những nguyên nhân chính làm giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế trong 2 năm 1998 và 1999. Năm 2000 mặc dù tốc độ tăng
trưởng kinh tế có dấu hiệu tăng trở lại với mức 6,7% so với mức 4,8%
của năm 1999, nhưng tổng đầu tư xã hội ước tính chỉ đạt khoảng 27,2%
so với GDP.
14
Trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn của tư nhân và vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng chiếm tỉ trọng lớn năm 1990 vốn nhà nước chiếm
43,8%, vốn của tư nhân và vốn của dân cư chiếm 41,5% và vốn GDI
chiếm 14,7%. Năm 1995 tỷ lệ tương ứng của vốn GDI có chiều hướng
giảm mạnh, năm 2000 mặc dù có dấu hiệu tăng trở lại cũng chỉ đạt
khoảng 18,6% của tổng dân cư xã hội. Đầu tư của tư nhân trong nước
không còn ở mức thấp mà còn tăng chậm, kết hợp với xu hướng giảm
của FDI đã ảnh hưởng xấu tới việc tăng trưởng kinh tế. Từ đó gây sức ép
cho đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Tiết kiệm trong nước trên GDP tăng từ 2,9% năm 1990 lên 18,25
năm 1995, năm 1996 có giảm nhẹ và từ 1997 trở đi tăng liên tục, đạt
23,6% năm 1999. Trong cả thập kỷ 90, tỉ lệ tiết kiệm/GDP tăng liên tục,
kích thích đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Điều này còn thể hiện rõ hơn qua tỷ lệ trong đầu tư tăng so với
tổng vốn sử dụng dành cho tiêu dùng, tích luỹ tăng nhanh từ 12,9% năm
1990 lên 24,95 năm 1995 và ước khoảng 27,95 năm 2000. Tiết kiệm
trong nước tăng nhanh đã giảm sức ép, phụ thuộc vào vốn đầu tư từ bên
ngoài, góp phần quan trọng cho tăng trưonửg kinh tế bền vững hơn.
e) Dân số, lao động, việc làm và thu nhập
Một trong những tác động quan trọng nhất của chuyển đối nói
chung và của tăng trưởng kinh tế nói riêng là cải thiện chỉ số GDP bình
quân đầu người. Theo giá hiện hành, GDP bình quân đầu người của Việt
Nam đã tăng từ 222 USD năm 1991 lên 400 USD năm 2000.
Thu nhập của nhóm dân cư tăng đã làm thay đổi cơ cấu chi tiêu
theo hướng tích cực. Tỉ lệ chi tiêu dành cho ăn uống giảm từ mức 665
15
năm 1993 xuống còn 53% năm 1998, đồng thời chi cho sinh hoạt tăng từ
34% năm 1993 lên 47% năm 1998.
So sánh mức thu nhập giữa thành thị nông thôn và các vùng có sự
chênh lệch đáng kể, mức thu nhập ở thành thị đạt 832,5 nghìn
đồng/tháng năm 1999 tăng 17,8% năm so với năm 1996, nếu loại trừ lạm
phát thì mức tăng là 13,1%/năm (theo kết quả của điều tra mức sống dân
cư năm 1999 của Tổng cục Thống kê). Mức thu nhập ở nông thôn đạt
225 nghìn đồng/tháng tăng 6,2% so với cùng kỳ nếu loại trừ yếu tố giá
chỉ còn tăng 1,9%. Như vậy mức thu nhập ở khu vực thành thị gấp 3 lần
mức thu nhập ở khu vực nông thôn. Mức tăng thu nhập ở khu vực thành
thị có xu hướng ngày càng doãng ra so với mức tăng thu nhập ở nông
thôn (17,8%/năm so với 6,2%/năm). Nếu loại trừ mức tăng giá thì mức
thu nhập ở nông thôn trong 4 năm 1996-1999 hầu như không tăng.
Năm 1999, dân số Việt Nam là 76,76 triệu người đứng thứ 12 trên
thế giới. Trong suốt thập kỷ 90 chính phủ đã thành công thực hiện
chương trình kế hoạch hoá gia đình, nhờ vậy tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đã
giảm liên tục, từ 2,33% năm 1991 xuống còn 1,75% năm 1998.
Tổng số lao động làm việc trong ngành kinh tế tăng từ 30,2 triệu
người năm 1990 lên khoảng 40 triệu người vào năm 2000, trung bình
mỗi năm tăng trên 1 triệu lao động. Mặc dù cơ cấu lao động trong khu
vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ giảm tỷ trọng lao động nông -
lâm - ngư nghiệp nhưng chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra với tốc độ
rất chậm. Năm 2000 khu vực nông nghiệp vẫn chiếm 62,5% tổng lực
lượng lao động so với tỷ lệ 73,26% vào năm 1991.
Trong giai đoạn vừa qua, việc làm được tạo ra trong khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh là chính. Tỷ lệ lao động trong khu vực này tăng liên
16
tục từ 89,5% năm 1991 lên 91,72% năm 1998, nhưng năm 1999 lại giảm
còn 90,96%, tức bưàng mức của năm 1993. Tỷ lệ lao động trong khu
vực nhà nước tăng lên chủ yếu trong ngành giáo dục, y tế.
Tăng trưởng kinh tế trong thập kỷ qua đã có tác động tích cực tới
giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, từ 9-10% năm 1990 xuống
còn 5,8% năm 1996. Từ năm 1997, giảm sút về tăng trưởng kinh tế làm
cho số người mất việc làm và không tìm được việc làm tăng lên, đạt mức
cao nhất 6,85% năm 1998 và 6,74% năm 1999. Năm 2000, tình hình
kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, nên tính tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm còn
khoảng 6,5%.
2.1.2. Vai trò của quy luật giá trị
Quy luật giá trị, cùng với sự tác động của cung, cầu quyết định giá
cả có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó điều tiết sản
xuất và lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Như vậy nó đã
góp phần giúp nền kinh tế phát triển mạnh.
Quy luật giá trị tạo ra một môi trường cạnh tranh khốc liệt. Nếu
không có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trường nên nó dần hoàn
thiện cơ chế thị trường đang được xây dựng ở nước ta.
Tuy nhiên quy luật giá trị có tác dụng phân hoá những người sản
xuất nhỏ, phân hoá giàu nghèo, dẫn dến bất công bằng trong xã hội. Từ
đó hình thành nên mâu thuẫn giữa hiệu quả và công bằng trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
2.2. Những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước
ta trong thời gian tới
17
2.2.1. Điều tiết khống chế quản lý vĩ mô đồng thời có sự giám sát
của xã hội, nhằm khắc phục nhược điểm và mặt tiêu cực của thị trường.
Muốn thế nhà nước cần có những giải pháp như: Hoạch định chính sách
ngành nghề dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. Thực hiện quản lý, giám
sát và bảo vệ trật tự thị trường. Hoạch định chính sách thu nhập, điều tiết
phân phối thu nhập v.v..
18
2.2.2. Nâng cao sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập, tham
gia tổ chức thương mại quốc tế WTO.
Trong thời gian tới nước ta sẽ bắt đầu tiến trình hội nhập các tổ
chức kinh tế trong khu vực và thế giới. Vì vậy cần phải nâng cao sức
cạnh tranh trên mọi lĩnh vực. Bao gồm 3 yếu tố: khả năng cạnh tranh của
từng mặt hàng dịch vụ, khả năng cạnh tranh của quốc gia và khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Muốn nâng cao sức cạnh tranh cần đầu tư vào nghiên cứu, ứng
dụng và triển khai khoa học công nghệ (KHCN). Bởi vì đầu tư vào
KHCN làm giảm chi phí cá biệt tăng năng suất lao động, từ đó tăng khả
năng cạnh tranh. Mặt khách kích thích việc nghiên cứu KHCN bằng
nhiều cách như: đầu tư về trang thiết bị, xây dựng văn bản pháp luật về
"bảo hộ sở hữu trí tuệ" v.v..
Hiện nay đất nước ta đang cố gắng hoàn thiện nền kinh tế tiến tới
tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO.
WTO là tổ chức thương mại thế giới điều chỉnh những hoạt động
buôn bán đa phương mang tính chất tương đối tự do, công bằng và tuân
thủ những luật lệ rõ ràng. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng
nhưng cũng không ít thách thức phải đặt ra khi gia nhập tổ chức này.
Trong quá trình gia nhập tổ chức này chúng ta đang gặp phải một
số khó khăn.
Gia nhập WTO có thể là cuộc trắc nghiệm khó khăn nhất đối với
hệ thống pháp luật của Việt Nam. Việt Nam phải cam kết thực hiện
những tiêu chuẩn quốc tế về sự minh bạch, tính đồng bộ, tính công bằng
và tính hợp lý. Công bố công khai: các luật, qui định và các quyết định
19
của toà án liên quan đến thương mại cần phải được công bố công khai để
cho công chúng và thế giới biết trước khi chúng có hiệu lực. Mọi yêu
cầu về thông tin, thắc mắc và bình luận đều có thể được giải đáp. Tính
đồng bộ: có nghĩa là các chính quyền địa phương không được đưa ra
những đạo luật riêng không thống nhất với những nguyên tắc cuả WTO,
tức là chính quyền địa phương phải tuân thủ các nguyên tắc của WTO.
Tính công bằng yêu cầu không chấp nhận bất cứ sự thiên vị nào trong
việc thực hiện luật pháp. Để tuân thủ tính đồng bộ và tính công bằg các
đạo luật cũng phải mang tính chất hợp lý, phù hợp. So với những tiêu
chuẩn quốc tế thì hệ thống luật pháp của Việt Nam còn nhiều yếu kém.
Ngoài ra, Việt Nam đã có luật thương mại và Luật đầu tư nước ngoài,
nhưng chúng ta còn thiếu nhiều luật trong những lĩnh vực thương mại cụ
thể. Điều đó sẽ gây khó khăn đáng kể cho Việt Nam khi làm việc với các
công ty nước ngoài. Chính vì vậy Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng,
hoàn thiện hệ thống luật đặc biệt là luật thương mại và luật đầu tư nước
ngoài. Để thúc đẩy quá trình gia nhập WTO.
Ngoài ra, còn không ít các vấn đề phức tạp khác khi Việt Nam gia
nhập WTO. Chẳng hạn như việc hạ thấ mức thuế và giảm sự bảo hộ đối
với công nghiệp trong nước. Tham gia WTO Việt Nam không chỉ được
lợi từ mức thuế quan thấp và việc giảm bớt các rào cản phi thuế quan
khác đối với hàng công nghiệp từ các nước công nghiệp, mà ngược lại
Việt Nam cũng phải thể hiện sự sẵn sàng đáp lại tương xứng và cam kết
giảm bớt các rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với các công ty
nước ngoài. Tuy nhiên, Việt Nam luôn đứng trước một thực tế khách
quan là khả năng cạnh tranh kém hơn của các công ty trong nước so với
công ty của các nước thành viên. Chính phủ Việt Nam vì vậy vẫn muốn
duy trì sự bảo hộ nhất định đối với các ngành công nghiệp non trẻ nhằm
20
mục đích đảm bảo nguồn thu ngân sách trước mắt và cuối cùng là xây
dựng một cơ cấu công nghiệp hợp lý. Về thủ tục gia nhập WTO, hiện
nay còn rất phức tạp và quá trình gia nhập còn quá kéo dài. Hơn thế nữa,
những mục đích gia nhập thường xuyên thay đổi, trong khi đó những
cuộc đàm phán kéo dài và những lợi ích mới trong mỗi thành viên lại đạt
ra những vấn đề mới. Vì vậy cần phải duy trì các tiêu chuẩn và không
làm mất hiệu lực các luật lệ của WTO. Như vậy vẫn tồn tại một mâu
thuẫn giữa việc kết nạp thêm nhiều nước vào WTO và nhu cầu duy trì
đặc tính của nó.
2.2.3. Giảm bất bình đẳng xã hội, giải quyết mâu thuẫn giữa
hiệu quả và công bằng
Về mặt khách quan bộ phận dân cư cần được hỗ trợ của các chính
sách xã hội được chia thành hai phần. Phần dân cư chịu sự thiệt thòi tự
nhiên so với phần còn lại do họ bị khiếm khuyết mặt nào đó trong năng
lực cá nhân và do đó thường xuyên có thu nhập thấp. Đó chủ yếu là
người tàn tật, thương binh, gia đình chính sách, các dân tộc thiểu số có
trình độ văn hoá thấp. Phần còn lại bao gồm những cá nhân gặp khó
khăn về thu nhập không thường xuyên do biến động của kinh tế, chính
trị, chiến tranh và thiên tai. Bộ phận này luôn thay đổi theo tình hình
phát triển kinh tế của đất nước.
Nhìn chung gánh nặng phúc lợi xã hội của nước ta khá lớn do hậu
quả chiến tranh kéo dài do điều kiện kinh tế xã hội quá thấp và do tốc độ
tăng dân số quá nhanh trong khi đất đai, tài nguyên của nước ta không
giàu có lắm. Chính phủ không thể không gánh vác vấn đề này. Để giải
quyết nó chính phủ cần xây dựng phát huy các chính sách như: tạo ra cơ
21
hội có việc làm, mở các trường dạy nghề, giúp đỡ gia đình neo đơn khó
khăn. Đóng thuế thu nhập cá nhân, gây dựng quỹ phúc lợi xã hội.
Hiện nay việc giải quyết chế độ cho người thất nghiệp ở Việt Nam
còn khá tự phát và lộn xộn tuỳ thuộc chủ yếu vào năng lực taì chính của
doanh nghiệp, vào chế độ lương và việc làm của nhà nước trong từng
thời kỳ, vào chính sách đào tạo của nhà nước cũng như nhiều yếu tố
khác. Chính vì chưa có đường hướng r
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá.pdf