MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu 1
Phần nội dung đề tài 3
I. Quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất 3
1. Lực lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành nên nó 3
2. Quan hệ sản xuất 5
3. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất 6
II. Quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất với việc phát triển đường lối đổi mới kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam. 9
1. Những thiếu sót trong đường lối đổi mới kinh tế trước đại hội Đảng VI 9
2. Đường lối phát triển quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa 9
3. Điều kiện đảm bảo xây dựng và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 14
4. Những thành tựu đạt được. 15
Kết luận và giải pháp. 16
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9208 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất với việc phát triển đường lối đổi mới kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển để hoà nhập.
Hiện nay trong sự nghiệp đổi mới nền kinh tế, đảng ta chủ trương phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường trong đó kinh tế nhà nước trở thành thành phần kinh tế giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo định hướng XHCN. Nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, kinh tế phát triển mạnh mẽ LLSX để xây dựng cơ sở kinh tế của CNXH, từng bước xã hội hoá XHCN.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ xã hội mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù hợp (văn kiện đại hội VIII) Như vậy đổi mới nền kinh tế được bắt đầu từ xây dựng và phát triển LLSX ngày càng lớn mạnh, trên cơ sở đó liên tục cải tạo và củng cố QHSX mới cho phù hợp.
Tóm lại: Để thực hiện việc phát triển đường lối đổi mới kinh tế; ĐCSVN đã vận dụng triệt để và sáng xuất quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Phần nội dung đề tài
I. Quy luật: “QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX”
1. LLSX và các yếu tố cấu thành nên nó.
1.1. Khái niệm.
Lực lượng sản xuất là tất cả các yếu tố kỹ thuật của một quá trình SXXH, nó biểu hiện quan hệ giữa con người với giới tự nhiên được hình thành trong SX, biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
LLSX bao gồm TLSX và người lao động.
1.2. Tư liệu sản xuất.
TLSX được cấu thành từ hai bộ phận: đối tượng lao động và tư liệu lao động.
1.3. Đối tượng lao động.
- Đó là một bộ phận của giới tự nhiên được con người trực tiếp sử dụng và đưa vào sản xuất. Ví dụ như hầm mỏ, khoáng sản, hải sản, đất, rừng, biển....
- Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động bằng lao động của mình như: hoá chất, hợp kim, giống mới, ....
- Ngoài ra đối tượng lao động còn là những vùng tự nhiên không thuộc về giới hạn của đối tượng lao động trực tiếp, những vùng hoàn toàn chưa mang dấu ấn của con người nhưng lao động của con người sẽ hướng tới. Ví dụ 97% tài nguyên dưới biển, tài nguyên trong thế giới vũ trụ.....
1.4. Tư liệu lao động.
Là những vật hay phức hợp vật thế nối con người với đối tượng lao động và dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào ĐTLĐ.
Trong TLLĐ, CCLĐ, là hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất. Công cụ lao động được C. Mác định nghĩa. Là những bộ phận trực tiếp dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào giới tự nhiên và sản phẩm của giới tự nhiên.
Còn các bộ phận khác gồm cơ sở vật chất kỹ thuật như nhà xưởng, đường xá, cầu cống, kho bãi, sàn ga.... phục vụ và liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất gọi là phương tiện lao động và gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế.
Theo Mác, trong bất kỳ một nền sản xuất nào, CCLĐ bao giờ cũng là chỉ tiêu quan trọng nhất, nó được con người không ngừng cải tiến và hoàn thiện do đó nó luôn là yếu tố động nhất, cách mạng nhất của LLSX.
Trình độ phát triển của LLSX mà đặc biệt CCLĐ là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người và là cơ sở xác định trình độ của sản xuất, là chỉ tiêu đánh giá sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế, các chế độ chính trị sản xuất chính TLLĐ kết hợp với lao động sáng tạo của con người là yếu tố quyết định năng xuất lao động.
Lênin nói: xét đến cùng năng xuất lao động là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ của LLSX trong một sản xuất.
1.5. Người lao động.
Lênin viết: “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công dân, người lao động” [giáo trình: NXB chính trị quốc gia].
- Người lao động không chỉ là sản phẩm của quá trình sản xuất mà bằng những kinh nghiệm và trí tuệ được tích luỹ đã chế tạo ra CCLĐ và sử dụng nó để sản xuất ra của cải vật chất cho sản xuất. TLLĐ dù có tinh xảo và hiện đại đến đâu nhưng nếu tách khỏi người lao động thi cũng sẽ không phát huy tác dụng tích cực của nó.
Vì vậy, con người chính là sản phẩm phát triển của CCLĐ phải thích ứng và gắn liền với trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, thể chất năng lực và trí tuệ của con người.
CCLĐ và người lao động là hai bộ phận quan trọng không thể tách rời của LLSX.
Ngày nay khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp và người lao động giờ đây không chỉ bao gồm lao động chân tay, mà còn bao gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư, các cán bộ khoa học chuyên ngành tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất cùng với nó là sự phát triển nhảy vọt của CCLĐ.
2. Quan hệ sản xuất.
2.1. Khái niệm.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Cũng như LLSX, QHSX thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội. Tính vật chất của QHSX biểu hiện ở chỗ nó tồn tại khách quan độc lập với ý thức con ngườiQHSX là quan hệ kinh tế cơ bản và tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội.
Những quan hệ này phù hợp với tính chất và trình độ phát triển nhất định của các LLSX vật chất.
QHSX bao gồm những mặt cơ bản sau:
- Quan hệ sở hữu đối với TLSX.
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt trên là một thể thống nhất hữu cơ, tạo thành QHSX, trong quá trình đó quan hệ sở hữu về TLSX có ý nghĩa quyết định.
2.2. Quan hệ sở hữu đối với TLSX.
Quan hệ sở hữu đối với TLSX quy định bản chất của QHSX.
Lịch sử của xã hội loài người đã có 2 loại hình sở hữu cơ bản đối với TLSX: sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
- Sở hữu xã hội: Những TLSX chủ yếu thuộc về mọi thành viên trong xã hội, họ có vị trí bình đẳng tỏng tổ chức LĐXH và phân phối sản xuất mục đích của nền sản xuất dưới chế độ công hữu là bảo đảm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
Sở hữu xã hội thể hiện điển hình ở hai hình thức cơ bản:
+ Trong phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ: sở hữu của thị tộc bộ lạc.
+ Trong phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH: sở hữu tập thể (hợp tác xã) và sở hữu toàn dân (quốc doanh).
Ngày nay trong CNXH cần phải tồn tại đa dạng hoá tất cả các loại hình sở hữu kể cả hình thức tư bản Nhà nước và tư bản tư nhân.
- Sở hữu tư nhân: TLSX chủ yếu thuộc về cá nhân riêng biệt trong xã hội lịch sử có 3 loại hình sở hữu tư nhân điển hình.
+ Sở hữu chiếm hữu nô lệ.
+ Sở hữu phong kiến.
+ Sở hữu TBCN.
ứng với chúng là 3 chế độ bóc lột người, nguyên nhân của mọi bất bình đẳng xã hội.
2.3. Quan hệ trong tổ chức và quản lý.
- Thích ứng với một kiểu sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất nhất định. ví dụ:
Trong chế độ tư hữu về LLSX người sơ hữu TLSX là người quản lý con người lao động không có TLSX là người bị quản lý.
- Mặc dù phụ thuộc vào quan hệ sở hữu nhưng tổ chức và quản lý sản xuất có tác dụng lớn đối với quá trình sản xuất. Chính nó là nhân tố tham gia quyết định trực tiếp đến quy môm, tốc độ, hiệu quả của nền kinh tế.
2.4. Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
- Quan hệ này phụ thuộc vào 2 quan hệ trên nhưng không thông qua tổ chức và quản lý nó là chất xúc tác quan trọng đặc biệt trong sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần cần có cơ chế phân phối sản phẩm hợp lý.
chúng ta không được tuyệt đối hoá bất kỳ một quan hệ nào mà phải chú ý đến tính đồng bộ của ba mặt quan hệ trong QHSX.
3. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX.
3.1 Tính chất và trình độ của LLSX.
- Tính chất của LLSX là tính chất của TLSX và sức lao động.
+ Khi công cụ sản xuất được áp dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội thì LLSX có tính chất cá thể.
+ Công cụ sản xuất được nhiều người sử dụng để sản xuất ra sản phẩm thì LLSX mang tính chất xã hội.
- Trình độ của LLSX thể hiện ở trình độ tinh xảo và hiện đại của CCLĐ, của kỹ thuật, trình độ chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo của người lao động trình độ phân công LĐXH, tổ chức quản lý sản xuất và quy mô nền sản xuất.
Trình độ phát triển của LLSX cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu. Chúng là thước đo trình độ phát triển của LLSX.
3.2. LLSX quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của QHSX.
- Do LLSX là nội dung, QHSX là hình thức xã hội. Nội dung quyết định, hình thức nên theo phép biện chứng: LLSX quyết định QHSX.
- Ngày nay do nhu cầu giảm nhẹ công việc, nâng cao hiệu quả lao động, con người không ngừng cải tiến và chế tạo những CCLĐ mới. Đồng thời kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kiến thức khoa học, kỹ năng của người lao động cũng tiến bộ. Chính sự phát triển không ngừng của các yếu tố này làm cho LLSX trở thành yếu tố “động”, yếu tố cách mạng, thường xuyên thayđổi, trong khi đó QHSX mang tính “tĩnh”, tương đối ổn định. Khi LLSX phát triển đến một trình độ nào đó mà QHSX không theo kịp sẽ trở thành lạc hậu, kìm hãm thậm chí phá hoại sự phát triển của LLSX, mâu thuẫn giữa chúng tất yếu nảy sinh. Sự phát triển khách quan đó dẫn đến xoá bỏ QHSX cũ, thiết lập QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của LLSX.
- Lịch sử chứng minh rằng: do sự phát triển của LLSX: loài người đã bốn lần thay đổi QHSX găn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy LLSX nào thì QHSX tương ứng.
3.3. Vai trò của QHSX với LLSX.
- Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX nó sẽ là động lực thúc đẩy, định hướng và tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Ngược lại nếu QHSX lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của LLSX.
- Sở dĩ QHSX tác động mạnh mẽ tới LLSX vì nó quy định mục đích và phương hướng của sản xuất do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của người lao động - LLSX chính của xã hội.
3.4. Sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
- Thế nào là phù hợp.
+ Cả 3 mặt của QHSX phải thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
+ QHSX phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa TLSX và sức lao động, đảm bảo tái sản xuất mở rộng.
- Trong các xã hội, QHSX đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của LLSX.
- Xã hội chiếm hữu nô lệ.
QHSX ra đời bằng những hình thức lao động tập trung khổ sai, thích ứng với trình độ của LLSX lúc ấy.
+ Xã hội phong kiến: QHSX phong kiến ra đời khiến.
Người nô lệ lao động thay bằng người nông nô. Sức lao động của nô lệ được giải phóng, LLSX có bước tiến đáng kể. Sau đó bản thân QHSX phong kiến không thích ứng được với LLSX hiện có đã đẫn đến sự ra đời của QHSX, TBCN.
+ QHSX, TBCN ra đời đã giải phóng sức lao động của người nông dân tạo ra những khả năng phát triển mạnh mẽ LLSX song tính chất xã hội hoá ngày càng cao của phương thức sản xuất TBCN gắn liền tập thể sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN. Chính tính chất xã hội hoá của LLSX dẫn đến xung đột đối với QHSX hiện có. QHSX TBCN sẽ bị thay thế bởi QHSX mới tiến độ phù hợp với xu thế phát triển của LLSX: QHSX cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH.
QHSX XHCN ra đời đã có những đòng góp đáng kể vào việc phát triển LLSX giải phóng người lao động khỏi áp bức bóc lột, xác lập quyền con người do họ.
QHSX XHCN hình thành mở ra kỹ nguyên mới định hướng cho sự vận động phát triển của xã hội văn minh.
Tóm lại: Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX là quy luật chung của sự phát triển xã hội qua sự thay thế kế tiếp nhau từ thấp lên cao của các phương thức sản xuất.
II. Quy luật quan hệ sản xuất - LLSX với việc phát triển đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Những thiếu sót trong đường lối đổi mới kinh tế trước đại hội Đảng VI.
1.1. Giai đoạn 1954 - 1975.
+ Đưa QHSX “đi trước một bước mở đường ” cho LLSX, đặc biệt sai phạm trong cải cách ruộng đất: thủ tiêu thành phần địa chủ, tư sản.
+ Đồng hoá quan hệ sở hữu với QHSX, công nghiệp nặng với xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH (đồng nhất bộ phận với tổng thể).
Đó là biểu hiện của nhận thức không đúng về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
1.2. Giai đoạn 1975 - 1986.
+ Đóng cửa, tự cô lập với thế giới.
+ Bộ máy chính quyền quan liêu bao cấp, kém hiệu quả hoàn toàn không phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, lại ảo tưởng rằng thiết lập QHSX mới sẽ dẫn đến sự phát triển của LLSX.
+ Không thấy được mối quan hệ, biện chứng giữa các yếu tố nội tại của QHSX. Đồng nhất QHSX với sở hữu TLSX hoặc đồng nhất QHSX với phân phối sản phẩm, trong khi công tác quản lý lỏng lẻo, ở trình độ thấp.
Tóm lại: Do không nhận thức đúng quy luật QHSX - LLSX dẫn đến thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước đại hội Đảng VI biểu hiện của sự không phù hợp: trong khi LLSX còn yếu kém về trình độ thì QHSX lại được xây dựng một cách chủ quan, duy ý chí, vượt quá xa, “tiên tiến” một cách giả tạo so với LLSX. Điều này làm cho nền kinh tế kém phát triển, xã hội khủng hoảng nặng nề.
2. Đường lối phát triển QHSX - LLSX theo định hướng XHCN.
2.1. Sự cần thiết phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN ở Việt Nam là một xu hướng khách quan.
kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế, nó được hình thành và phát triển do đòi hỏi khách quan của sự phát triển LLSX sự phát triển của LLSX, của KH - CN kéo theo những biến đổi lớn trong cơ cấu xã hội - giai cấp, đang tạo ra xu hướng phát triển mới của nhân loại.
+ Do LLSX và KHCN phát triển nên thế giới giàu có rất nhanh nhưng đi liền đó là bất công xã hội mở rộng. Vì vậy tăng tưởng kinh tế phải đi liền với giải quyết công bằng xã hội. Công bằng xã hội đã trở thành đòi hỏi tất yếu của sự phát triển kinh tế hiện đại.
+ Thế giới đang có sự mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội rất nhiều nước tư bản khi tăng trưởng kinh tế đi kèm với khủng hoảng xã hội về đạo lý và đời sống tinh thần. Yêu cầu khách quan cuộc sống là tăng trưởng kinh tế đi liền với tiến bộ xã hội.
+ Ngày nay, tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải bảo vệ môi trường sinh thái tăng trưởng kinh tế ở các nước CNTB đã tàn phá môi trường, có nguy cơ tàn phá môi trường trầm trọng.
+ Nền kinh tế phát triển gắn liền với sự phát triển lành mạnh của hệ thống chính trị quốc gia.
Sự phát triển của LLSX. KHCN đòi hỏi hệ thốn chính trị, giai cấp cầm quyền phải tuân theo đại đa số các thành viên trong xã hội. Hệ thống chính trị có lành mạnh mới tránh được các bệnh quan liêu, tham nhũng.
+ Sự phát triển của LLSX, KHCN đang có xu hướng quốc tế hoá đời sống nhân loại: Xu thế này đòi hỏi có sự giao lưu hợp tác, hiểu biết lẫn nhau và hướng tới sự hình bình đẳng giữa các quốc gia, các dân tộc.
+ Một xã hội không chỉ tồn tại bằng kinh tế, mà văn hoá cũng là mục tiêu, động lực và là yếu tố nơi sinh của sự phát triển kinh tế thực tiễn đã chứng minh, sự phát triển TBCN không chỉ khắc phục được các xu hướng khác, xu hướng XHCN [tạp chí cộng sản số 10].
CNXH không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường mà là một nấc thang, phát triển cua loài người được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội của sự phát triển nó là thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh.
Vì vậy sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân loại lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội của cả dân tộc, đó là sự phát triển mang tính chất XHCN, là sự phát triển hiện đại.
Phát triển mang tính chất XHCN, là sự phát triển hiện đại.
Nghĩa là chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dưới một trật tự xã hội công bằng văn minh mà điều kiện đảm bảo thực hiện sự định hướng đó chính là nhà nước XHCN “của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam [tạp chí cộng sản số 18] .
2.2. Đặc điểm nền kinh tế định hướng XHCN ở Việt Nam.
Thứ nhất: nền KTTT định hướng XNCN mà nước ta xây dựng là nền KTTT hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (XH XHCN). Thế giới đang trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CHXN cho nên sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta theo định hướng XHCN là cần thiết, khách quan.
Sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Thứ hai: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước. Trong một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Nền KTTT chúng ta xây dựng là nền KTTT hiện đại, cần có sự tham gia bởi “bàn tay hữu hình” của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó, thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước.
Đồng thời coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất, không tách rời .
Thứ ba: Nhà nước, quản lý nền KTTT theo hướng XHCN ở nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế là thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền KTTT hiện đại.
Nhà nước ta có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN. Trong việc phát triển nền KTTT hiện đang ở nước ta.
Thứ tư: Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý điều tiết của nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Cơ chế hoạt động của nền kinh tế là: thị trường điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ nhà nước - thị trường - các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất.
Thứ năm: Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của KTTT ở nước ta. Quá trình phát triển của KTTT gắn liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội.
Để phát triển trong điều kiện của KTTT hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới trên ba nội dung: thương mại, đầu tư và chuyển giao KHCN. Đó là xu hướng chung của cuộc cách mạng KHCN hiện nay.
Thứ sáu: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung quan trọng trong nền KTTT ở nước ta.
Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển KTTT nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, cần thấy rõ rằng sự bảo đảm công bằng trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta không phải là chủ nghĩa bình quân, “chia đều sự nghèo đói” cho mọi người. Mức độ công bằng xã hội phụ thuộc nhiều vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia.
Thứ bảy: Giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn) thông qua phân phối thu nhập trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta được thực hiện theo kết quả lao động kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác nhau giữa nền KTTT trong CNTB với nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Tóm lại, quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ nhân ái, có văn hoá, kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” [chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000]
2.3 Sự hoàn thiện LLSX và QHSX theo đường lối của đảng cộng sản Việt Nam cần phải khẳng định rằng. Phát triển KTTT theo định hướng XHCN là kết quả của tiến trình lịch sử. Tiến trình đó được quy định bởi quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX có nghĩa là cùng với từng bước phát triển của LLSX, QHSX được hoàn thiện tương ứng, trong đó nội dung cốt lõi là hoàn thiện quan hệ sở hữu theo hướng tập trung hoá xã hội hoá.
Thật vậy, LLSX và QHSX thể hiện như hai đại lượng tác động biện chứng trong quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu kinh tế
Sở hữu toàn dân.
Khi LLSX còn ở mức thấp, ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức nhỏ và phân tán.
LLSX từng bước phát triển sẽ là tỉ lệ thuận với tiến trình tập trung hoá và xã hội hoá quan hệ sở hữu mà đỉnh cao của nó là sở hữu toàn dân. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế, công ty cổ phần, công ty đa quốc gia, các đại nông trại được coi là biểu hiện của quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu ở một mức độ nhất định do kết quả tác động biện chứng của QHSX và LLSX.
Với cách nhìn đó thì chế độ công hữu XHCN được xác lập như một tất yếu khách quan bởi sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ cao của LLSX.
Nhìn trên góc độ khác trong mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN, có thể thấy rằng. KTTT biểu thị nổi bật như phương thức vận động của lực lượng sản xuất, còn định hướng XHCN thể hiện như QHSX cần đạt tới của phương thức vận động đó.
CNXH cũng có thể hiểu đó là một nền tảng kinh tế xã hội được dựa trên chế độ đổi mới thực hiện được ý tưởng cao đẹp do lịch sử giao phó là xây dựng một xã hội công bằng, văn minh với ý nghĩa đích thực của nó có lẽ bắt nguồn từ quy luật này mà Đảng ta khẳng định tính nguyên tắc của phát triển KTTT theo định hướng XHCN.
3. Điều kiện đảm bảo xây dựng và phát triển kinh tế theo định hướng XHCN.
Để có được KTTT theo định hướng XHCN điều quan trọng phải có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản kiên định sáng tạo, cách mạng. Sau đó là hệ thống chính trị phù hợp mà hạt nhân của nó là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
3.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
* Đảng cộng sản Việt Nam với truyền thống cách mạng được dân tín nhiệm nên đã trở thành thế lực mạnh quyền lãnh đạo đất nước Đảng lãnh đạo đất nước trước hết là xác định mục tiêu chính trị, định hướng cho sự phát triển xã hội bằng cương lĩnh, đường lối, chiến lược, bằng những nguyên tắc và chính sách lớn, bằng công tác tổ chức cán bộ, kiểm tra cán bộ trong việc thực hiện đường lối của Đảng.
Cương lĩnh, đường lối của Đảng được nhà nước quán triệt, thể chế hoá thành hiến pháp, pháp luật cho mọi công dân, tổ chức thi hành đường lối của Đảng và linh hồn của hiến pháp và pháp luật.
Yêu cầu của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN đòi hỏi Đảng phải có bản lĩnh vững vàng, có trí tuệ, năng động, sáng tạo. Vấn đề đặt ra là phải tiếp tục đổi mới lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, với xã hội mà khâu quan trọng là đối với nhà nước và nâng cao phẩm chất Đảng nên trong cơ chế thị trường .
3.2. Vai trò quản lý của nhà nước.
Một nhà nước của nhân dân vững mạnh, trong sạch, quản lý kinh tế - xã hội ngày càng có hiệu quả. Sự hình thành và phát triển KTTT theo định hướng XHCN không thể thiếu vai trò khởi xướng và nuôi dưỡng của nhà nước. Vai trò quản lý của nhà nước càng trở nên cực kỳ quan trọng với các chức năng sau:
+ Tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển.
+ Khởi xướng, hướng dẫn và hỗ trợ nỗ lực, phát triển thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như công cụ, pháp luật, công cụ kế hoạch hoá, công cụ của chính sách tài chính tiền tệ.
+ Sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước, quản lý tốt và tài sản công.
+ Thực thi các chính sách xã hội, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.
3.3. Những chính sách đổi mới từ sau nghị quyết của đại hội VI.
+ Coi trọng nền kinh tế nhiều thành phần, coi nó còn tồn tại lâu dài.
+ Coi cách mạng hoá - hiện đại hoá là phát triển LLSX xã hội. Coi nó là nhiệm vụ trung tâm vì tính quyết định của nó là LLSX.
+ Coi trọng cách mạng KHKT.
3.4. Tinh thần làm chủ, ý thức cách mạng của nhân dân ta.
Những năm đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tích cực phấn đấu, tạo cục diện và thời cơ mới cho đất nước.
Mọi chủ trương chính sách liên quan đến lợi ích của nhân dân đất nước phải để dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, vì thế nhân dân luôn tin tưởng và Đảng, đi theo Đảng, bảo vệ Đảng của chính mình.
4. Những thành tựu đạt được sau công cuộc đổi mới.
Việt Nam là một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP từ 1991 - 1996 là 8,4% năm 1997 là : 8,8% thu nhập đầu người tăng 5,2% năm.
Lạm phát giảm từ 80% năm xuống còn 2,1% năm.
Tích luỹ trong nước tăng 5 lần so với GDP từ 3% lên 17% của GDP đầu tư tăng gấp 3 lần từ 11,6% của GDP năm 1989 đến 28% của GDP năm 1996 sản lượng nông nghiệp tăng gấp đôi, Việt Nam trở thành một trong 3 nước xuất khẩu lúa gạo lớn nhất thế giới [niên giá thống kê 1995, 1996, 1997] trong năm năm (1991 - 1995) hàng năm, nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp tăng 13,5%, xuất khẩu tăng 20%.
Đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm 35% trong 10 năm từ 1986.
Kết luận và giải pháp
Tóm lại từ những ý tưởng được trình bày xuyên suốt trong bài viết chúng ta thấy rằng phát triển KTTT theo định hướng XHCN là một quyluật khách quan với cách nhìn trong mối quan hệ vận động biện chứng giữa LLSX và QHSX.
Để có được KTTT theo định hướng XHCN điều quan trọng là phải có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản kiên định, sáng tạo và cách mạng, sau nữa là 1 hệ thống chính trị phù hợp mà hạt nhân của nó là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Ngoài ra cần chú ý đến một số giải pháp sau:
- Phát triển LLSX bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, coi con người là nhân tố trung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.DOC