Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phân tích quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần của nước ta

Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, Quan hệ sản xuất ra đời bằng những hình thức lao động tập trung khổ sai, thích ứng với trình độ của Lực lượng sản xuất lúc ấy.

Trong xã hội phong kiến, Quan hệ sản xuất ra đời giải phóng sức lao động của nô lệ, Lực lượng sản xuất có bước tiến đáng kể. Nhưng bản thân Quan hệ sản xuất không thích ứng với Lực lượng sản xuất hiện có đã dẫn đến sự ra đời của Quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa.

Quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa ra đời đã giải phóng sức lao động của người nông dân, tạo ra khả năng phát triển mạnh mẽ Lực lượng sản xuất. Song tính chất xã hội hoá ngày càng cao của phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa gắn liền với lao động tập thẻ sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt với chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa. Chính tính chất xã hội hoá của Lực lượng sản xuất dẫn đến xung đột với Quan hệ sản xuất hiện có. Quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa sẽ bị thay thế bởi Quan hệ sản xuất Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội.

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phân tích quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần của nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất gồm có Tư liệu sản xuất và Quan hệ sản xuất. 1.1.1 Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận: Đối tượng lao động và Tư liệu lao động. Đối tượng lao động xét về phương diện cấu tạo thì gồm 3 phần: Thứ nhất: Là toàn bộ những vùng của bản thân giới tự nhiên được con người trực tiếp sử dụng và đưa vào sản xuất. Đó là những hầm mỏ, khoáng sản, hải sản. . . Thứ hai: Đó là những sản phẩm không có sẵn trong giới tự nhiên mà do con người bằng lao động của mình tạo ra như các loại hợp chất, sợi tổng hợp, . . . Thứ ba: Là những vùng tự nhiên không thuộc về giới hạn của đối tượng lao động trực tiếp, những vùng hoàn toàn chưa mang dấu ấn của con người nhưng lao động của con người sẽ hướng tới. Chẳng hạn, 97 % tài nguyên dưới đáy biển, các hành tinh xung quanh chúng ta, . . . . Chính việc tìm kiếm ra những đối tượng lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn hút mọi hoạt động của con người. Tư liệu lao động là những vật hay phức hợp các vật có thể nối con người với đối tượng lao động và dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Thông thường trong quá trình sản xuất, Tư liệu lao động còn được gọi là cơ sở hạ tầng của một nền kinh tế. Theo ứac, trong bất kỳ một nền sản xuất nào, công cụ sản xuất bao giờ cũng là hệ thống xương cốt và là chỉ tiêu quan trọng nhất. Công cụ sản xuất được con người không ngừng cải tiến và hoàn thiện, do đó công cụ sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất của Lực lượng sản xuất. 1.1.2 Người lao động Theo Lênin viết chính là " Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại. Với tư cách là một bộ phận của Lực lượng sản xuất xã hội, người lao động phải là người có thể lực, trí lực, văn hoá, chuyên môn kinh nghiệm cao, phẩm chất và tư cách lành mạnh . . . . Công cụ sản xuất và người lao động là những bộ phận quan trọng nhất không thể tách rời của Lực lượng sản xuất. Trước đây, đã có lúc chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của công cụ sản xuất, bất chấp giới hạn của nhân tố lao động. Đồng thời lại có lúc ta muốn tiến nhanh, mạnh, vững chắc lên Xã hội chủ nghĩa, lại nhấn mạnh vai trò thuần tuý của nhân tố lao động, bất chấp khả năng hiện có của công cụ sản xuất. 1.2 - Xét về mặt xã hội, thì để có sản xuất vật chất thì cần phải có quan hệ giữa con người với nhau, hệ thống các mối quan hệ ấy tạo nên Quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm: +) Quan hệ sở hữu đối với Tư liệu sản xuất. +) Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất. +) Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Ba mối quan hệ trên là một thể thống nhất hữu cơ, trong đó Quan hệ sở hữu có ý nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác. 1.2.1 - Quan hệ sở hữu đối với Tư liệu sản xuất quyết định bản chất của Quan hệ sản xuất. Lịch sử xã hội loài người đã có hai loại hình sở hữu cơ bản đối với Tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. -) Sở hữu xã hội là sở hữu mà trong đó những Tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên trong xã hội. Trên cơ sở đó, họ có vị trí bình đẳng nhau trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm. Sở hữu xã hội thực hiện điển hình ở hai hình thức cơ bản: +) Sở hữu của bộ tộc , thị lạc trong phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ. +) Sở hữu tập thể ( Sở hữu hợp tác xã ) và sở hữu toàn dân ( Sở hữu quốc doanh ) trong phương thức sản xuất Công sản Chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Xã hội Chủ nghĩa. -) Sở hữu Tư nhân tức quyền sở hữu đối với những Tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc cá nhân riêng biệt trong xã hội. Lịch sử đã có ba loại sở hữu tư nhân điển hình: +) Sở hữu Chiếm hữu +) Sở hữu Phong kiến. +) Sở hữu Tư bản Chủ nghĩa. Tương ứng với ba hình thức sở hữu trên là ba chế độ người bóc lột người, nguồn gốc sản sinh ra mọi bất bình đẳng trong xã hội. 1.2.2 - Quan hệ sản xuất trong tổ chức và quản lý sản xuất: Thích ứng với một kiểu sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất nhất định . Mặc dù phụ thuộc vào Quan hệ sản xuất nhưng tổ chức và quản lý sản xuất có tác động lớn đối với quá trình sản xuất. Chính nó là nhân tố tham gia quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền kinh tế. 1.2.3 - Đối với quan hệ về phân phối sản phẩm lao động, phụ thuộc vào trên nhưng thông qua tổ chức và quản lý, nó là chất xúc tác quan trọng đặc biệt trong sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần cần có cơ chế phân phối sản phẩm hợp lý. Nhận thức được các loại hình sở hữu trên là 1 vấn đề cần thiết, từ đó không được tuyệt đối hoá bất kỳ một quan hệ nào mà phải chú ý đến tính đồng bộ của cả ba mặt trong Quan hệ sản xuất. 1.3 - Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. Sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lương sản xuất là một trong những quy luật cơ bản nhất của đời sống xã hội. Quy luật này chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử. 1.3.1 - Tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của Tư liệu sản xuất và sức lao động. Khi công cụ sản xuất được sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để sản xuất ra những sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động của nhiều người thì Lực lượng sản xuất có tính chất các thể. Khi công cụ sản xuất được nhiều người sử dụng để sản xuất ra một sản phẩm thì Lực lượng sản xuất mang tính xã hội. Trình độ sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh xảo và hiện đại của công cụ sản xuất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng - kỹ xảo của người lao động, trình độ phân công lao động xã hội , tổ chức quản lý sản xuất và quy mô của nền sản xuất. Trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng sâu. Trình độ phân công lao động và chuyên môn hoá là thước đo trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. 1.3.2 - Lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, phát triển và biến đổi của Quan hệ sản xuất. Lực lương sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung là cái quyết định, nội dung thay đổi trước, hình thức thay đổi sau và phụ thuộc vào nội dung. Lực lượng sản xuất phát triển thì Quan hệ sản xuất thay đổi phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho Lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển . Khi tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với Quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ Quan hệ sản xuất cũ để hình thành Quan hệ sản xuất mới phù hợp với Lực lượng sản xuất đang phát triển, phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời. Sự phát triển của Lực lượng sản xuất từ thấp tới cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định sự thay thế Quan hệ sản xuất cũ bằng Quan hệ sản xuất mới cao hơn đưa xã hội loài người qua nhiều hình thái xã hội khác nhau với những kiểu Quan hệ sản xuất khác nhau. Lịch sử đã chứng minh rằng, do sự phát triển của Lực lượng sản xuất,loài người đã bốn lần thay đổi Quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội. Như vậy, Lực lượng sản xuất nào thì Quan hệ sản xuất tương ứng như thế. 1.3.3 - Vai trò của Quan hệ sản xuất đối với Lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất, sẽ tạo ra địa bàn rộng lớn cho Lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc đẩy, mở đường cho Lực lượng sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất thì sẽ trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất có thể tác động ( thúc đẩy hoặc kìm hãm ) sự phát triển của Lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất, ảnh hưởng quết định đến trình độ người lao động của quảng đại quần chúng, kích thích hoặc hạn chế sự cải tiến công cụ, sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác phân công lao động. 1.3.4 - Quan niệm khoa học về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. Cả ba mặt của Quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa Tư liệu sản xuất và sức lao động, bảo đảm tái sản xuất mở rộng. Mở ra những điều kiện thích hợp cho việc kích thích người lao động. Trong các xã hội, Quan hệ sản xuất đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, Quan hệ sản xuất ra đời bằng những hình thức lao động tập trung khổ sai, thích ứng với trình độ của Lực lượng sản xuất lúc ấy. Trong xã hội phong kiến, Quan hệ sản xuất ra đời giải phóng sức lao động của nô lệ, Lực lượng sản xuất có bước tiến đáng kể. Nhưng bản thân Quan hệ sản xuất không thích ứng với Lực lượng sản xuất hiện có đã dẫn đến sự ra đời của Quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa ra đời đã giải phóng sức lao động của người nông dân, tạo ra khả năng phát triển mạnh mẽ Lực lượng sản xuất. Song tính chất xã hội hoá ngày càng cao của phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa gắn liền với lao động tập thẻ sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt với chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa. Chính tính chất xã hội hoá của Lực lượng sản xuất dẫn đến xung đột với Quan hệ sản xuất hiện có. Quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa sẽ bị thay thế bởi Quan hệ sản xuất Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội. Quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa ra đời đã có những đóng góp đáng kể vào việc phát triển Lực lượng sản xuất, giải phóng người lao động khỏi áp bức bóc lột, xác lập quyền con người cho họ. Quan hệ sản xuất Chủ nghĩa xã hội hình thành mở ra một kỷ nguyên mới định hướng cho sự vận động phát triển của xã hội văn minh. 2. Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. 2.1 - Giai đoạn 1954 - 1975. Đưa Quan hệ sản xuất " đi trước một bước mở đường" cho Lực lượng sản xuất, đặc biệt là sai phạm trong cải cách ruộng đất: Thủ tiêu thành phần Địa chủ, Tư sản.Đồng hoá Quan hệ sở hữu với Quan hệ sản xuất, công nghiệp nặng và xây thể ).Đó là biểu hiện của nhận thức không đúng về quy luật Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. 2.2 - Giai đoạn 1975 - 1986. Thực hiện thời kỳ đóng cửa, tự cô lập với thế giới. Bộ máy chính quyền quan liêu bao cấp, hoạt động kém hiệu quả hoàn toàn không phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất, lại ảo tưởng rằng thiết lập Quan hệ sản xuất mới sẽ dẫn đến sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố nội tại của Quan hệ sản xuất, đồng nhất Quan hệ sản xuất với sở hữu Tư liệu sản xuất, hoặc đồng nhất với phân phối sản phẩm, công tác quản lý và tổ chức lỏng lẻo, trình độ thấp. Tóm lại: Với nhận thức sai lầm về mô hình Xã hội chủ nghĩa do cách làm duy ý chí, nóng vội, chủ quan, muốn đốt cháy giai đoạn, coi sở hữu toàn dân là mục đích nên đã mau chóng thiết lập chế độ công hữu và Tư liệu sản xuất, một Quan hệ sản xuất quá xa, quá "tiên tiến" một cách giả tạo so với Lực lượng sản xuất. Điều này làm cho nền kinh tế kém phát triển, xã hội khủng hoảng nặng nề. 2.3 - Cơ sở khách quan tồn tại nhiều thàh phần kinh tế ở nước ta hiện nay. Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra, còn có phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước để lại và phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị. Mặt khác, trong thời kỳ quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác , mà chúng chỉ là những mảng, những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội trong một hệ thống nhất biện chứng. Tất yếu khách quan là tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là vì: +) Thứ nhất: Khi giai cấp công nhân và nhân dânlao động giành được chính quyền, tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về Tư liệu sản xuất. Thực tế có hai loại tư hữu lớn gồm có nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, . . . của các chủ tư bản trong và ngoài nước - đó là kinh tế Tư bản chủ nghĩa; Tư hữu nhỏ gồm nông dân, buôn bán nhỏ - đó là sản xuất nhỏ cá thể. Thái độ của chính quyền mới đối với hai loại tư hữu trên là khác nhau. Đối với tư hữu lớn - kinh tế tư bản tư nhân chỉ có phương pháp duy nhất là quốc hữu hoá. Đối với tư hữu nhỏ thì có con đường hợp tác hoá theo các nguyên tắc mà V. I . Lênin đã vạch ra là tự nguyện, quản lý dân chủ, cùng có lợi, . . . đồng thời tuân theo quy luật khách quan. +) Thứ hai: Sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan, nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều giữa Lực lượng sản xuất và các ngành ,vùng, doanh ngiệp . . . . Chính sự phát triển không đồng đều đó quy định Quan hệ sản xuất, trước hết là hình thức, quy mô và Quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó, nghĩa là tồn tại Quan hệ sản xuất không giống nhau đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau. +) Thứ ba: Để phát triển kinh tế, củng cố Kinh tế - Chính trị - Xã hội, Nhà nước xây dựng những cơ sở kinh tế mới, hình thành thành phần kinh tế Nhà nước. Mặt khác, trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế thông qua hợp tác và đầu tư nước ngoài, Nhà nước cùng các nhà Tư bản, công ty trong và ngoài nước hình thành kinh tế Tư bản Nhà nước. 2.4 - Tác động của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh tế nước ta hiện nay. Tính tích cực của nền kinh tế nhiều thành phần biểu hiện qua các khía cạch: +) Có khả năng khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước, tận dụng vốn và công nghệ của nước ngoài. Do đó phát huy được cả nội lực và ngoại lực. +) Giải quyết phần lớn công ăn việc làm cho nhân dân, phát triển làng nghề truyền thống, tận dụng vốn và nhân công nhàn rỗi có hiệu quả, phát huy thế mạnh vốn có của con người Việt Nam, đẩy mạnh phát triển Lực lượng sản xuất. +) Tạo ra sự đa dạng về quy mô và trình độ kỹ thuật phù hợp với hiện trạng về cơ sở vật chất và trình độ kỹ thuật của nước ta. Tạo sự liên kêt, liên doanh với nước ngoài với chiều nhiều hướng có lợi hơn. +) Khi các thành phần kinh tế đều phát huy sức mạnh, hoạt động tích cực làm cho năng suất lao động phát triển, từ đó nhanh chóng tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống nhân dân. Là bước khởi đầu, đặt nền móng cho thời kỳ quá độ với cơ sở vật chất kỹ thuật chắc chắn để đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn Chủ nghã tư bản. Bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, việc thi hành chính sách kinh tế nhiều thành phần cũng nảy sinh ra những yếu tố tiêu cực như tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, tệ nạn hàng giả, trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng đang là những vấn đề nhức nhối cần giải quyết. Những yếu tố tiêu cực phát sinh đó được cộng hưởng với chiến lược "Diễn biến hoà bình" của các thế lực đế quốc hòng tiêu diệt chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tạo nên nguy cơ chệch hướng Xã hội chủ nghĩa rất đáng lo ngại. Tuy nhiên, kết quả thực tế từ công cuộc đổi mới từ 15 năm đã cho thấy mặt tích cực của cơ chế kinh tế nhiều thành phần là rất to lớn. Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu đã trở thành một nước có nền kinh tế tăng trưởng vững chắc với tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP từ năm 1991 - 1996 là 8,4 %; năm 1997 là 8,8%; thu nhập đầu người tăng 5,2% năm. Lạm phát giảm từ 800% ( năm ) xuống 2,1 % ( năm ) và năm 2000 là 0 %. Tích luỹ trong nước tăng 5 lần so với GDP từ 3 % lên 17 % của GDP ( năm ) . Đầu tư tăng gấp ba lần, từ 11,6 % của GDP năm 1989 đến 28 % của GDP năm 1996. Sản lượng nông nghiệp tăng 2 lần, Việt Nam trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Trong 5 năm ( 1991 - 1995 ), hàng năm , nông nghiệp tăng 4,5 % , công nghiệp tăng 13,5 %, xuất khẩu tăng 20 %, đời sống nhân dân được cải thiện, tỉ lệ nghèo giảm 35 % trong vòng 10 năm từ năm 1986. 2.5 - Sự hoàn thiện Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt nam. Cần phải khẳng định rằng: Phát triển Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa là kết quả của tiến trình lịch sử, tiến trình đó được quy định bởi quy luật Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. Có nghĩa là: Cùng với từng bước phát triển Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất được hoàn thiện tương ứng, trong đó nội dung cốt lõi là hoàn thiện Quan hệ sản xuất theo hướng tập trung hoá hoặc xã hội hoá. Thật vậy, Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất thể hiện hai đặc trưng tác động biện chứng trong quá trình xã hội hoá Quan hệ sở hữu kinh tế. Khi Lực lượng sản xuất còn ở mức thấp, ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu nhỏ và phân tán. Lực lượng sản xuất từng bước phát triển sẽ tỉ lệ thuận với tiến trình tập trung hoá và xã hội hoá Quan hệ sở hữu mà đỉnh cao của nó là sở hữu toàn dân, sự hình thành các tập đoàn kinh tế, công ty cổ phần,công ty đa quóc gia, các đại nông trại, . . . được coi là biểu hiện của quá trình xã hội hoá Quan hệ sở hữu ở một mức độ nhất định do kết quả tác động biện chứng của Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất. Với cách nhìn đó thì chế độ công hữu Xã hội Chủ nghĩa được xác lập như một tất yếu khách quan bởi sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ cao của Lực lượng sản xuất. Nhìn trên giác độ khác, trong mối quan hệ giữa Kinh tế thị trường và định hướng Xã hội Chủ nghĩa, có thể thấy rằng Kinh tế thị trường biểu thị nổi bật như phương thức vận động của Lực lượng sản xuất, còn định hướng Xã hội Chủ nghĩa thể hiện như Quan hệ sản xuất cần đạt tới phương thức vận động đó. Chủ nghĩa Xã hội cũng có thể hiểu đó là một nền tảng kinh tế xã hội được dựa trên chế độ đổi mới thực hiện được ý tưởng cao đẹp do lịch sử giao phó là xây dựng một xã hội công bằng, văn minh với ý nghĩa đích thực của nó. Có lẽ do quy luật này mà Đảng ta khẳng định tính nguyên tắc của phát triển Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa 2.6 - Điều kiện đảm bảo xây dựng và phát triển kinh tế theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Để đạt được Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, điều quan trọng là phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản kiên định, sáng tạo, cách mạng. Sau đó là hệ thống chính trị phù hợp mà hạt nhân của nó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. 2.6.1 - Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam với truyền thống cách mạng được nhân dân tín nhiệm đã trở thành thế lực nắm quyền lãnh đạo đất nước. Đảng lãnh đạo, trước hết là xác định mục tiêu chính trị, định hướng cho sự phát triển xã hội bằng cương lĩnh, đường lối, chiến lược, bằng nguyên tắc và chính sách lớn, bằng công tác tổ chức cán bộ, kiểm tra cán bộ trong việc thực hiện đường lối của đảng. Yêu cầu của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa đòi hỏi Đảng phải có bản lĩnh vững vàng, có trí tuệ, năng động, sáng tạo. Vấn đề đặt ra là phải tiếp tục đổi mới lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, với xã hội mà khâu quan trọng là đối với Nhà nước và nâng cao phẩm chất Đảng viên trong cơ chế thị trường. 2.6.2 - Vai trò quản lý của Nhà nước. Một Nhà nước của nhân dân vững mạnh, trong sạch, quản lý kinh tế xã hội ngày càng có hiệu quả. Sự hình thành và phát triển Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa không thể thiếu vai trò bà đỡ, khởi xướng và nuôi dưỡng của Nhà nước. Vai trò quản lý của Nhà nước càng trở nên cực kỳ quan trọng với các chức năng sau: +) Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển. +) Khởi xướng, hướng dẫn và hỗ trợ nỗ lực phát triển thông qua các công cụ như Pháp luật, Kế hoạch hoá, Chính sách Tài chính - Tiền tệ. +) Sử dụng hiệu quả Ngân sách Nhà nước, quản lý tốt vốn và tài sản công. +) Thực thi chính sách xã hội, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. 2.6 - Các thành phần kinh tế theo nghị quyết Đại hội IX và sự đóng góp của chúng trong nền kinh tế nước ta. Từ năm 1986 đến nay, thực hiện chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, cơ cấu doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã có sự chuyển biến lớn. +) Kinh tế Nhà nước: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về Tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm các đơn vị kinh tế mà tất cả vốn thuộc về Nhà nước hoặc phần lớn của Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Sau một quá trình sắp xếp lại, từ năm 1986 đến nay, các doanh nghiệp Nhà nước đã giảm 55 % số lượng doanh nghiệp, hiện còn 5.700 doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp độc lập, doanh nghiệp trực thuộc các Tổng Công ty 90 , Tổng Công ty 91. Năm 2000, doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1tỷ chiếm 25 %, trên 10 tỷ chiếm 20 %, đóng góp 40 % tổng nộp Ngân sách và trên 50 % kinh nghạch xuất khẩu của cả nước. Tỷ lệ đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước trong Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) tăng từ 36,5 % đến 40,2 %, tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước tăng 6,8 % ( 1993 ) đến 12 % ( 2000 ). +) Kinh tế hợp tác: Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm các đơi vị kinh tế do những người lao động tự nguyện đóng góp vốn và góp sức để kinh doanh. Trong thời gian từ năm 1986 đến năm 1996 đã giải thể 3.623 Hợp tác xã và 37. 787 Tập đoàn sản xuất nông nghiệp, hơn 42.000 Hợp tác xã Tiểu thủ công nghiệp . Năm 1996 là thời điểm kết thúc mô hình Hợp tác xã kiểu cũ, chuyển sang thời kỳ xây dựng và phát triển Hợp tác xã theo mô hình mới, đánh dấu bằng việc ban hành Luật Hợp tác xã tháng 3 năm 1996 ( có hiệu lực từ tháng 1 năm 1997 ). +) Kinh tế Tư bản Nhà nước: Là thành phần kinh tế mà chủ thể là các nhà Tư bản và Nhà nước cùng góp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 1988, sau khi Nhà nước ban hành Luật đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã có 3 dự án đầu tư được cấp phép dưới hình thức doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 366 triệu USD, chỉ riêng năm 1995 đã có 404 dự án với 6,6 tỷ USD vốn đăng ký. Đến tháng 12 năm 2000, số dự án được cấp giấy phép lên tới 3.112 dự án với vốn đăng ký là 43,16 tỷ USD, trong đó có 27 dự án ( 156 triệu USD ) đã kết thúc đúng thời hạn hợp đồng, 452 dự án ( 3,24 tỷ USD ) bị giải thể trước thời hạn, 668 dự án xin tăng vốn ( 4,25 tỷ USD ). +) Kinh tế tư nhân: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu Tư bản Chủ nghĩa, gồm các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Năm 1991, ở Việt Nam có 122 doanh nghiệp Tư bản, Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn. Năm 1993, sau khi ban hành Nghị định 60/ HĐBT đã có khoảng 900.000 cá nhân, nhóm kinh doanh được cấp đăng ký theo loại hình đơn vị có vốn dưới mức pháp định. Cuối năm 2001 có hơn 30.000 doanh nghiệp Tư nhân được thành lập theo Luật Doanh nghiệp. +) Kinh tế cá thể, tiêủ chủ: Là thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của bản thân là chính. Từ khi bước vào thời kì đổi mới, thành phần kinh tế này đã không ngừng phát triển cả về số lượng cũng như chất lượng quy mô hoạt động. +) Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Nghị quyết đại hội IX đã căn cứ vào điều kiện thực tiễn của nền kinh tế dẫ đưa thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhằm mục đích khai thác những tiềm năng , lợi thế so sánh và các nguồn ngoại lực từ phía các đối tác bên ngoàinhằm thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đất nước. Hoạt động đầu tư nước ngoài diễn biến khá sôi động trong năm 1998. Cuối năm 2000 cả nước có khoảng 3.000 dự án của hơn 700 doanh nghiệp thuộc 62 nước và lãnh thổ với tổng vốn đăng ký là 36 tỷ USD, vốn thực hiện 16,89 tỷ US (chưa tính đến liên doanh dầu khí Vietsovpetrol), hoạt động đầu tư nước ngoài đã nộp ngân sách 1,52 tỷ USD, tạo 21,6 tỷ USD hàng hoá xuất nhập khẩu, giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và 1 triệu lao động gián tiếp. FDI và ODA đã giải ngân là 7 tỷ USD và trở thành nguồn vốn lớn của nền kinh tế, đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển ổn định của các ngành sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Năm 1999, FDI tạo ra được 10,7% GDP; 25% giá trị xuất khẩu, góp phần quan trọng phát huy nội lực của toàn bộ nền kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện hợp tác và mở cửa. Phần III Kết luận và những giải pháp Rõ ràng Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất là một quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi phương thức sản xuất, không loại trừ một quốc gia, một dân tộc nào. Điều đó, đòi hỏi chúng ta muốn phát triển kinh tế đất nước thì phải nhận thức đúng để hoạt động phù hợp với quy luật khách quan. ở nước ta, trong cơ chế hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây, đã có lúc chúng ta tưởng rằng có thể thiết lập được một quan hệ sản xuất cao hơn đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Song kết quả diễn ra lại trái với mong muốn của chúng ta. Đó là lực lượng sản xuất không phát triển, tình trạng trì trệ kéo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60392.DOC
Tài liệu liên quan