Sự biến đổi của sản xuất luân theo chiều tiến bộ, và xét cho cùng bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phat triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đương nhiên, khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất của nố cũng phát triển theo.
Trình độ của lực lượng sản xuất là khái niệm nói nên khả năng của con người thực hiện quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình thông qua công cụ lao động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sản phẩm của sự kết hợp giữa các nhân tố: trình độ của công cụ lao động ; trình độ tổ chức lao động xã hội ; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất ; trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động,tri thức của con người; trình độ phân công lao động.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1808 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển khac nhau mà nguyên nhân của sự thay đổi các hình thái kinh tế xã hội là di lực lượng sản xuất phát triển cao mà quan hệ sản xuất không phù hợp dẫn đến cách mạng xã hội hình thành quan hệ sản xuất mới. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chi phối toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử mặt khác nó cũng là một đề tài hay nên muốn tìm hiểu đẻ nắm cvững nội dung của quy luật. Trên cơ sở đó hiểu đựơc phần nào các chủ trương chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Do thời gian và trình độ có hạn chắc không tránh khỏi những sai sót mong cô giáo góp ý giúp em sữa chữa những sai sót
Em xin chân thành cẩm ơn!
Mục lục
A. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ……………………………………………………………………………...3
I. Phương thức sản xuất là gì ? nội dung của phương thức sản xuất………3
1.khái niệm………………………………………………………………..3
2.Nội dung của phương thức sản xuất……………………………………..3
2.1 Lực lượng sản xuất…………………………………………………….3
2.1.1 Đối tượng lao động ………………………………………………….3
2.1.2 Tư liệu lao động……………………………………………………...3
2.2 Quan hệ sản xuất……………………………………………………….4
II. Trình độ của lực lượng sản xuất………………………………………...5
III. Mối quan hệ biện chứng giưa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất...5
1. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi
của quan hệ sản xuất......................................................................................5
2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.................7
3. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất...............................................................................................................8
B. Sự nhận thức và vận dụng quy luật này của Đảng ta trong giai đoạn hiện
nay................................................................................................................10
A. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
I.phương thức sản xuất là gì ? nội dung của phương thức sản xuất.
1.Khái niệm.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng .
2.Nội dung của phương thức sản xuất.
2.1 Lực lượng sản xuất .
Là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, đó là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất bao gồm: đối tượng lao động và tư liệu lao động.
2.1.1 Đối tượng lao động.
Là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào làm
Thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích của con người.
Đối tương lao động có thể chia thành hai loại:
-loại có sẵn trong tự nhiên như gỗ trong rừng , quặng trong lòng đất , tôm,cá dứơi sông biên…con người chỉ cần tách chúng khỏi tự nhiên là dùng được
-loại đã trải qua lao động , được cải biến ít nhiều như bông để kéo sợi , vải để may mặc , than ở trong nhà máy nhiệt điện , sắt thép để chế tạo máy …
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại con người hoàn toàn có thể tạo ra những sản phẩm mới có ý nghĩa quyết định chất lượng cuộc sống và giá trị của nền văn minh nhân loại. Bởi vì loài ngươi không bao giờ chỉ bằng lòng với những thứ hiện có. do đó việc tìm ra những đối tương lao động mới sẽ trở thành động lực thúc đẩy con người và xã hội phát triển.
2.1.2 Tư liệu lao động
Là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của mình .
Tư liệu lao động bao gồm : tư liệu lao động dùng để bảo quản những đối tượng lao dộng gọi chung là “hệ thống bình chứa của sản xuất” như ống ,thùng…
Tư liệu lao động với tư cách là kết cấu hạ tầng sản xuất như đường xá, bến cảng, sân bay, phương tiện giao thông vận tải, điện, nước, thuỷ lợi, bưu điện, thông tin liên lạc …Công cụ lao động hay công cụ sản xuất là tư liệu lao động giữ vị trí là hệ thống “xương cốt và bắp thịt” của sản xuất , là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động là khí quan của bộ óc con người, là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá để làm tăng sức mạnh của con người. Ngày nay, công cụ lao động đã đạt tới trình độ cao, được tin học hoá, tự động hoá … Nên nó có thể trở thành “lực lượng” hết sức to lớn và đáng kể .ở mọi thời đại, công cụ lao động luân được thay đổi, là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất .Sự thay đổi hoàn thiện của công cụ sản xuất do con người thực hiện không ngừng đã thường xuyên gây ra những biến đổi sâu sắc toàn bộ tư liêu sản xuất và cũng là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
Qua đó có thể thấy được trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người và là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Đồng thời sự biến đổi của lực lượng sản xuất cũng sẽ làm biến đổi những quan hệ xã hội của con người .
Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống xã hội. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp tham gia trực tiếp vào việc định hướng tích cực hoạt động sản xuất và hoạt động khoa học.
2.2 Quan hệ sản xuất
Là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt :
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất .
- Quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất.
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm do sản xuất ra .
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất ; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lí sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ khác.
Trong quá trình phát triển của nhân loại có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất là: sở hữu tư nhân và sở hữu cộng. sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lôt và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác giũp đỡ lẫn nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lí sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lí sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lí không thích ứng với quan hệ sở hữu làm biến dạng quan hệ sở hữu.Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ về tổ chức quản lí sản xuất chi phối song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất.
II. Trình độ của lực lượng sản xuất
Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ tinh xảo và hiện đại của công cụ sản xuất ,trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng ,kỹ xảo của người lao động trình độ phân công lao động xã hội ,tổ chức quản lý sản xuất và quy mô của nền sản xuất.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng cao thì chuyên môn hoá và phân công càng sâu .Trình độ phân công lao động và chuyên môn hoá là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
III.Mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi
Của quan hệ sản xuất.
Trong quá trình sản xuất của cải vật chất của xã hội con người đã không ngừng cải tiến, hoàn thiện và chế tạo ra những công cụ sản xuất mới nhằm nâng cao năng suất lao động. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, trình độ chuyên môn và kỹ năng của người lao động ngày càng đươc nâng cao, đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thích ứng với nó. Lưc lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi quan hệ sản xuất, khi quan hệ sản xuất không thích ứng với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới hình thành mâu thuẫn trong xã hội, đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng. Lịch sử loài người đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã có bốn lần quan hệ sản xuất thay đổi gắn với bốn cuộc cách mạng xã hội dẫn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản suất.
Mặc dù bị lực lượng chi phối nhưng quan hệ sản xuất cũng có những tác
động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Một mặt nó kìm hãm lực lượng sản xuất khi không phù hợp, mặt khác khi phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
3.Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách biện chứng và biểu hiện thành một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận động trong đời sống xã hội .
Sự biến đổi của sản xuất luân theo chiều tiến bộ, và xét cho cùng bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phat triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đương nhiên, khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất của nố cũng phát triển theo.
Trình độ của lực lượng sản xuất là khái niệm nói nên khả năng của con người thực hiện quá trình biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của mình thông qua công cụ lao động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sản phẩm của sự kết hợp giữa các nhân tố: trình độ của công cụ lao động ; trình độ tổ chức lao động xã hội ; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất ; trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động,tri thức của con người; trình độ phân công lao động.
Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã hội hoá của tư liệu sản xuất và của lao động.ứng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội được thể hiện thông qua sự phát triển của công cụ lao động , tính chất xã hội của lực lượng sản xuất cũng biến đổi .Tuy vậy, trong nền sản xuất xã hội đôi khi trình độ phát triển của lượng sản xuất không đi đôi với tính chất xã hội hoá của nó.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phản ánh khả năng trinh phục giới tự nhiên của con người ; khả năng này chỉ đạt tới đỉnh cao khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển. Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và kết hợp giưa tư liệu lao động và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng của lực lượng sản xuất.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ chuyển thành không phù hợp. Mâu thuẫn càng trở nên gay gắt tất yếu sẽ dẫn tới việc xã hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay băng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều này sẽ dẫn tới diệt vong của phương thức sản xuất cũ và sự ra đời của phương thức sản xuất mới.
Như vậy, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất, một khi lực lượng sản xuất đã biến đổi thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lưọng sản xuất mới.
Tuy vậy, quan hệ sản xuất cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ. Trên cơ sở đó hình thành một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp, phát trển hợp lý và đồng bộ với lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong trường hợp ngược lại, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo cũng sẽ làm cho lực lượng sản xuất không phát triển khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã trở lên gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Xong con người không phát hiện được hay khi đã phát hiện được mà không giải quyết, hoặc giải quyết một cách sai lầm… thì không thể phát triển được lực lượng sản xuất, thậm chí còn phá hoại lực lưọng sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử loài người từ Xã hội Công xã Nguyên thuỷ đến Xã hội Cộng sản tương lai và là quy luật cơ bản nhất trng quan hệ các quy luật xã hội.
B. Sự nhận thức và vận dụng quy luật này của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
Nước ta tiến hành đổi mới của Đại hội lần thứ VI của Đảng, Đảng ta đã xác định là cần phải khắc phục những quan niệm lạc hậu về cải tạo Xã hội Chủ nghĩa, đánh giá lại những việc đã làm trong thời gian qua từ đó rút ra những kết luận về thực trạng nền kinh tế trong nước, qua đó đưa ra những giải pháp để đưa Đất nước phát triển. Trong đó có giải pháp cho khu vực kinh tế Quốc doanh.
Trong thực tế ở nước ta do quá cường điệu vai trò của quan hệ sản xuất, do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu và các quan hệ khác, do áp dụng một cách máy móc quan hệ sản xuất của nước Nga Xô Viết trong khi nước ta quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa từ một xã hội mà nông nghiệp còn giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế, đa số người dân còn làm nông nghiệp, một nền nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất chưa phát triển. Chúng ta đã đồng nhất chế độ công hữu với Chủ nghĩa Xã hội, lẫn lộn và đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá, không thấy được các bước đi có tính quy luật khi tiến lên Chủ nghĩa Xã hội. Nên đã tiến hành cải tạo Xã hội Chủ nghĩa một cách nhanh chóng. Thực chất của cuộc cải tạo này là đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thiết lập chế dộ công hữu dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, trong khi không nhận thứ được lực lượng sản xuất mới là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất. Trên thực tế chúng ta đã xây dựng thành phần kinh tế Quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể vượt qúa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ quản lý của chúng ta. Có quan điểm cho rằng có thể đưa quan hẹ sản xuất đi trước nhưng cũng đã bị thực tế bác bỏ. Do những quan hệ sản xuất mang tính chất hình thức đã kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển làm xuất hiện mâu thuẫn và nảy sinh những hiện tượng tiêu cực. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất quá xa vời đã kìm hãm nền kinh tế do đó cần phải giải quyết mâu thuẫn trên và khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong nền kinh tế.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ qua trình phát triển của lịch sử loài người. Do đó nó luôn là cơ sở phương pháp luận cho tư duy đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước. Bất cứ sự coi nhẹ nào, mặt này hay mặt khác của quá trình sản xuất đều dẫn đến những hậu quả tiêu cực của nền kinh tế quốc dân. Trong một số năm gần đây, trong tư duy kinh tế của một số người ở cả cấp vĩ mô và vi mô. Dường như đã có xu hướng thiên về những vấn đề của lực lượng sản xuất mà coi nhẹ những vấn đề quan hệ sản xuất xã hội, hoặc chỉ chú ý đến một bộ phận nào đó của quan hệ sản xuất như vấn đề cơ chế thị trường, có vấn đề sao nhãng những vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa của các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
Sau những năm tiến hành đổi mới nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế và sự phát triển của các lực lượng sản xuất xã hội. Nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự phát triển đó là sự phù hợp của các quan hệ sản xuất xã hội do đảng ta điều chỉnh. Nội dung cơ bản của sự phát triển phù hợp đó là việc khôi phục và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, và chuyển dịch nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước là việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phân phối. Trong đó quan hệ phân phối theo lao động là cơ sở nhưng kết hợp các hình thức phân phối theo tài sản, theo tư bản, theo hình thức đóng góp vào kinh doanh. Cơ sở khoa học của sự điều chỉnh của đảng là việc nhận thức lại quy luật quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ ở nước ta, áp dụng một cách sáng tạo lý luận của Lê-nin về vai trò tích cực của kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, quan tâm đến lợi ích vật chất cá nhân của người lao động, coi đó như động lực trực tiếp để phát triển kinh tế xã hội
Hiện nay, đảng và nhà nước ta đang tích cực thực hiện công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước đưa lực lượng sản xuất của đất nước phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên để đưa đất nước phát triển thì các quan hệ sản xuất cần phải đổi mới hơn nữa cho phù hợp với tình hình của đất nước cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần bao gồm những thành phần kinh tế khác nhau ứng với những lực lượng sản xuất khác nhau, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh với nhau vừa hợp tác với nhau trong một nền kinh tế thống nhất. Mỗi thành phần kinh tế đóng một vai trò kinh tế xác định, chỉ khi phát huy được vai trò đó mới thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất, sẽ phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất của nước ta hiên nay. Sự phù hợp này, đến lượt nó lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước như:vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lý, khoa học và công nghệ mới trên thế giới…Tạo điều kiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước, nó như những “ cầu nối” trạm “trung gian” cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế, giữ vị trí then chốt. Tuy nhiên các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thể hiện đượcvai trò của mình, sự biến đổi trong các quan hệ sở hữu và sử dụng tư liệu sản xuất, trong quản lý và phân phối sản phẩm sản xuất bên trong các doanh nghiệp nhà nước diễn ra còn chậm chạp, tình trạng vô chủ trên thực tế vẫn tồn tại, việc cổ phần hoá còn chậm. Mặc dù đảng và nhà nước đã có nhiều biện pháp để điều chỉnh nhưng tình trạng làm ăn thua lỗ, chiếm dụng vốn lẫn nhau vẫn còn. Sự kiểm kê, kiểm soát của người lao động trong nội bộ xí nghiệp chưa thực sự có hiệu quả. Do đó cần phải củng cố và hoàn thiện phát triển khu vực kinh tế nhà nước để xứng đáng với vai trò là đầu tàu của nền kinh tế.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Từ khoán 10, kinh tế tập thể với các hợp tác xã kiểu cũ không còn nữa mà kinh tế hộ gia đình đã chuyển lên đóng vai trò chủ thể tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Tuy nhiên hiện nay sự phát triển của nông nghiệp, của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn đang đòi hỏi cấp bách kinh tế hộ gia đình phải được phát triển song hành và kết hợp với những hình thức kinh tế hợp tác kiểu mới và tất cả các hình thức kinh tế này phải được kinh tế nhà nước và nhà nước giúp đỡ tích cực. Sự chậm trễ trong sự ra đời và phát triển của những quan hệ sản xuất kiểu mới trong nông nghiệp đang bắt đầu gây trở ngại cho các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn. Hộ gia đình tuy năng động, có sức sống nhưng đó vẫn là sản xuất nhỏ, sớm muộn nó cũng phải chuyển lên sản xuất lớn. Đang diễn ra quá trình phát triển của kinh tế tư bản tư nhân trong nông nghiệp và nông thôn. Điều đó là đúng quy luật. Chúng ta không nên cản trở mà phải khuyến khích quá trình đó. Bên cạnh đó cần phải triển khai con đường phát triển kinh tế hợp tác với các hình thức kết hợp. Từ thấp đến cao, tích tụ và tập trung vốn và lao động trong những hình thức kết hợp, thực sự có năng suất và hiệu quả, đảng và nhà nước cần phải nhạy bén tổng kết hoạch định chính sách đưa yếu tố tự giác vào trong phong trào, tạo ra một đà phát triển mới của các lực lượng sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ nông thôn.
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế tư bản nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước. Đó là một thành phần đóng vai trò rất quan trọng trong thời kỳ quá độ ở nước ta, hiện nay liên minh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản trong nước chưa phát triển đúng mức và đúng hướng. Trong những năm qua, sự liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản nước ngoài đã có sự phát triển mạnh mẽ, đem lại những hiệu quả tích cực: vốn tư bản được đầu tư ngày càng tăng vào nước ta, du nhập những công nghệ và kinh nghiệm quản lý mới, hoà nhập vào thị trường thế giới và khu vực, góp phần vào tốc độ tăng trửơng GDP của nước ta. Tuynhiên để phát huy tiềm lực của khu vực kinh tế tư bản nhà nước chúng ta cần phải hoàn thiện những chính sách và biện pháp quản lý. Để khu vực kinh tế này phát triển phù hơp với những lợi ích của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ quá độ. Trong nội dung đổi mới của đường lối kinh tế đảng ta đã khuyến khích các thành phần kinh tế này có lợi cho quốc kế dân sinh. Trong những năm qua khu vực này đã có sự phát triển nhất định. Xong sự phát triển đó chưa xứng với tiềm năng của nó. tích tụ tập trung tư bản của kinh tế tư bản tư nhân trong nước còn chậm chạp, với quy mô nhỏ và vừa, kinh doanh chủ yếu ở khu vực thương nghiệp, dịch vụ, mua đi bán lại lòng vòng ít đầu tư vào sản xuất. Nhiều hoạt động của kinh tế tư bản tư nhân trong nước chệch hướng có tác dụng tiêu cực như: đầu cơ, buôn lậu, sản xuất hàng giả và trốn thuế…Những mặt tích cực và tiêu cực của kinh tế tư bản tư nhân đều gắn lion với bản chất kinh tế của nó, nhưng việc phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực lại thuộc về sự quản lý của nhà nước. Vì thế nhà nước cần phải tạo môi trường kinh doanh lành mạnh để thành phần kinh tế tư bản tư nhân đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta.
Cơ chế vận hành của nền kinh tế cũng là một vấn đề cấp bách hiện nay. Quan điểm cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước của đảng ta là đúng. Đó là quan điểm mới với kinh tế xã hội chủ nghĩa, về thời kỳ quá độ, sử dụng rộng rãi những quan hệ thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là môt quan điểm đang chiếm ưu thế trong kinh tế học hiện đại của thế giới.
Trong những năm qua nước ta đã bước đầu chuyển dịch thành công cơ chế thị trường nền kinh tế đã phát huy nhiều tác động tích cực và năng động hơn. Tuy vậy cơ chế vận hành nền kinh tế vẫn tồn tại những bất cập chưa phù hợp.Trong khi những tàn dư của cơ chế cũ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn chưa khắc phục được triệt để cũng đã xuất hiện quan điểm đề cao cơ chế thị trường, hạ thấp vải trò của nhà nước. Sự buông lỏng quản lý c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12106.doc