Hoạt động bào chữa hoặc bảo vệ của Luật sư tập trung vào hai nội dung: làm sáng tỏ các tình tiết, góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án và nhận thức áp dụng đúng các quy định của pháp luật vào trường hợp cụ thể. Để làm được điều đó, Luật sư không chỉ nghiên cứu hồ sơ vụ án, mà phải thực hiện việc thu thập chứng cứ, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng là sáng tỏ những nội dung cần thiết, tích cực tham gia vào các hoạt động tố tụng để một mặt có đủ chứng cứ cho việc bào chữa; mặt khác hạn chế các vi phạm tố tụng từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng. Trong thực tế, Luật sư rất ít khi tham gia vào quá trình chứng minh, không thực hiện nghĩa vụ chứng minh theo quy định của BLTTHS; chỉ thoả mãn với việc nghiên cứu hồ sơ vụ án. Nhiều trường hợp, do nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không tham gia vào quá trình tố tụng và nắm nội dung vụ án không chắc, tại phiên toà thay cho việc chứng minh, lập luận để thuyết phục người khác, nhiều luật sư chỉ đưa ra các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Toà án khoan hồng cho bị cáo; thậm chí có trường hợp có lời lẽ và hành động xúc phạm người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3092 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành - Lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của BLTTHS 2003.
Các biện pháp mà pháp luật quy định cho người bào chữa để thực hiện nhiệm vụ của mình là tham gia các cuộc hỏi cung, tham gia vào hoạt động điều tra khác, gặp gỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này để thu thập các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa hoặc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Người bào chữa không được sử dụng các biện pháp bào chữa trái pháp luật như mua chuộc, dụ dỗ người làm chứng, người bị hại, người tiến hành tố tụng...
Việc giao tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án là trách nhiệm của người bào chữa. Pháp luật ghi nhận người bào chữa có quyền thu thập các đồ vật, tài liệu liên quan đến việc bào chữa nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa hoàn thành nhiệm vụ của mình là bào chữa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chứ không phải thu thập các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án nhằm mục đích riêng nào khác của người bào chữa, bởi vậy, khi thu thập được các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan tiến hành tố tụng. Tùy từng giai đoạn tố tụng, những tài liệu, đồ vật đó sẽ được giao cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS năm 2003.
- Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ nhằm bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà với tư cách là người hiểu biết pháp luật họ còn phải giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp của họ như tư vấn cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để họ thực hiện tốt nhất các quyền của mình trong tố tụng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ví dụ, khi điều tra viên có những hành vi xâm hại một cách trái pháp luật tới quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, người bào chữa có thể giúp bị can khiếu nại với hành vi trái pháp luật đó của điều tra viên.
- Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng.
- Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật. Họ chỉ được sử dụng các biện pháp hợp pháp để thực hiện việc bào chữa, không được bóp méo sự thật của vụ án, biến không thành có, biến có thành không; họ phải tôn trọng và triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật và không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp các tài liệu sai sự thật cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Thông thường, người bào chữa tham gia phiên tòa sơ thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Nếu vụ án được xét xử ở cấp phúc thẩm mà có liên quan đến bị cáo hộ nhận bào chữa, tòa án xét xử phúc thẩm sẽ triệu tập người bào chữa tham gia phiên tòa. Đối với thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, chỉ những trường hợp cần thiết thì tòa án mới triệu tập người bào chữa. Khi được triệu tập ở bất cứ cấp xét xử nào người bào chữa có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập. Việc có mặt tại tòa án theo giấy triệu tập của tòa án vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền của người bào chữa. Họ phải có mặt theo giấy triệu tập của tòa án để thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình và đồng thời họ cũng được có mặt tại phiên tòa để thực hiện quyền tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa theo quy định tại điểm h Khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003.
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa, không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. BLTTHS ghi nhận người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, có mặt trong các hoạt động điều tra khác để thu thập các thông tin cần thiết cho việc bào chữa của mình. Trong quá trình tham dự các hoạt động điều tra, người bào chữa có thể biết được những bí mật điều tra, theo quy định tại Khoản 3 Điều BLTTHS năm 2003, người bào chữa không được tiết lộ những bí mật điều tra mà mình biết. Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa, họ chỉ được phép sử dụng những tài liệu, tình tiết đó cho mục đích bào chữa cho bị can, bị cáo mà không được sử dụng vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
- Ngoài việc quy định nghĩa vụ cuả người bào chữa, tại khoản 4 Điều 58 BLTTHS năm 2003 còn quy định quyền, trách nhiệm của người bào chữa khi “làm trái pháp luật”, cụ thể là: “Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.
III. Thực tiễn về sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
1. Thực tiễn về vấn đề thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự
a. Về phía người bào chữa:
Người bào chữa là Luật sư:
BLTTHS được hoàn thiện là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động bào chữa, hoạt động bảo vệ quyền lợi của Luật sư được nâng lên. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử những năm qua cho thấy rằng hoạt động của Luật sư đã góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền lợi của đương sự; góp phần giải quyết đúng đắn, khách quan các vụ án hình sự. Đặc biệt, việc tham gia tố tụng của Luật sư đã thể hiện được tinh thần tranh tụng trong đổi mới, cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta. Các Luật sư đã tích cực nghiên cứu hồ sơ, thu thập chứng cứ, tham gia xét hỏi để xác định sự thật khách quan của vụ án; phát hiện các vi phạm tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng để kiến nghị khắc phục; tích cực tranh luận tại phiên toà… Hoạt động của Luật sư đã làm cho người tiến hành tố tụng có trách nhiệm hơn trong thực thi quyền hạn của mình v.v..Có thể nói rằng, hoạt động bào chữa của các Luật sư những năm qua đã góp phần nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng; hạn chế được oan sai trong tố tụng hình sự; hạn chế vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng không ít luật sư đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, đồng thời bỏ qua các quyền của người bào chữa làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vẫn còn một tỷ lệ rất lớn (80%-85%) các vụ án hình sự được xét xử mà không có sự tham gia của người bào chữa. Trong số các vụ án có người bào chữa tham gia tố tụng thì khoảng 50% số vụ án người bào chữa được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu tham gia theo quy định của pháp luật. Số vụ án có người bào chữa tham gia chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải phòng…nơi tập trung đội ngũ Luật sư cả nước (() Vai trò của luật sư trong giải quyết vụ án hình sự., PGS.TS Trần Văn Độ, thẩm phán Tòa án Quân sự trung ương, nguồn: Tạp chí nghề luật – Học viện tư pháp - 2008.
). Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như thiếu đội ngũ luật sư hành nghề tranh tụng, điều kiện khó khăn của nhiều người không cho phép họ thuê Luật sư bào chữa, bảo vệ cho mình...
Hoạt động bào chữa hoặc bảo vệ của Luật sư tập trung vào hai nội dung: làm sáng tỏ các tình tiết, góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án và nhận thức áp dụng đúng các quy định của pháp luật vào trường hợp cụ thể. Để làm được điều đó, Luật sư không chỉ nghiên cứu hồ sơ vụ án, mà phải thực hiện việc thu thập chứng cứ, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng là sáng tỏ những nội dung cần thiết, tích cực tham gia vào các hoạt động tố tụng… để một mặt có đủ chứng cứ cho việc bào chữa; mặt khác hạn chế các vi phạm tố tụng từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng. Trong thực tế, Luật sư rất ít khi tham gia vào quá trình chứng minh, không thực hiện nghĩa vụ chứng minh theo quy định của BLTTHS; chỉ thoả mãn với việc nghiên cứu hồ sơ vụ án. Nhiều trường hợp, do nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không tham gia vào quá trình tố tụng và nắm nội dung vụ án không chắc, tại phiên toà thay cho việc chứng minh, lập luận để thuyết phục người khác, nhiều luật sư chỉ đưa ra các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Toà án khoan hồng cho bị cáo; thậm chí có trường hợp có lời lẽ và hành động xúc phạm người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác.
Cũng không ít luật sư đã thực hiện nhiệm vụ của mình một cách hình thức, qua loa, đặc biệt chất lượng bào chữa trong các vụ án Luật sư được chỉ định bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng là rất thấp. Có lúc luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng (luật sư chỉ định) bào chữa theo kiểu nghĩa vụ, thậm chí có trường hợp “cãi” nhầm từ vụ này sang vụ khác (() Những hạn chế trong viêc thực hiện quyền bào chữa của ngưởi bị tạm giữ, bị can và bị cáo, TS. Hoàng Thị Minh Sơn, tạp chí luật học số 10/2008, trường Đại học Luật Hà nội.
).
Có trường hợp luật sư lại bào chữa cho bị can, bị cáo bằng những biện pháp trái với quy định của pháp luật. Điều tra viên đôi khi cũng gặp khó khăn trong việc bị can và người bào chữa trao đổi nhau rồi phản cung. Có trường hợp bị can nhận tội, sau khi tiếp xúc với luật sư lại phản cung và kêu là bị tức cung...
Trên đây là một số nét hạn chế dễ thấy của thực trạng người bào chữa là luật sư trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, những hạn chế này xuất phát từ các nguyên nhân chính như: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ Luật sư còn hạn chế, trách nhiệm của một số luật sư chưa cao; nhận thức của những người tiến hành tố tụng về vai trò của Luật sư trong tố tụng chưa đúng với tinh thần cải cách tư pháp ở nước ta v.v..
Người bào chữa là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân:
Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo cũng được pháp luật xác định là người bào chữa trong tố tụng từ khi BLTTHS năm 1988 ra đời. Tuy nhiên, từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời rồi đến BLTTHS năm 2003 thì cho đến nay đã hơn 20 năm nhưng về phương diện pháp lý chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích rõ người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là ai. Năm 1988 có một văn bản đó là Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 18/12/1988 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành, đề cập đến quyền kháng cáo đã hướng dẫn: “Đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên là bố mẹ hoặc người đỡ đầu của họ”. Quy định này đã gián tiếp làm rõ người đại diện hợp pháp nhưng chỉ là người đại diện hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên chứ không phải là người đại diện hợp pháp cho bị can, bị cáo nói chung như quy định trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Trong kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1991 đã khẳng định: “Người thân thích của bị cáo không phải là người bào chữa, nhưng thực tiễn cho thấy có những vấn đề, có những tình tiết thuộc về vụ án, thuộc về nhân thân của bị cáo thì chỉ có những người thân thích mới thấu hiểu và nắm bắt được một cách tường tận và do đó họ có thể giúp cho Hội đồng xét xử cân nhắc việc xử lý được chính xác hơn, bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, người thân thích của bị cáo có quyền làm người bào chữa cho bị cáo” (() “Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng”, Tòa án nhân dân tối cao, Hà nội – 1992, thư viện trường Đại học luật Hà Nội.
). Rõ ràng, nội dung hướng dẫn trên chứa đựng sự mâu thuẫn có tính chất nội tại khi khẳng định người thân thích của bị cáo không phải là người bào chữa nhưng sau đó lại cho phép người thân thích của bị cáo có quyền tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho bị cáo. Hơn nữa, hướng dẫn này cũng đã không làm rõ người thân thích của bị cáo là ai. Đến lúc Nghị quyết 05/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời có đề cập rất nhiều đến người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng vẫn không có quy định nào hướng dẫn thế nào là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thực tiễn tố tụng hình sự những năm qua cũng cho thấy là rất ít có trường hợp người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa.
Người bào chữa trong tố tụng hình sự còn có thể là Bào chữa viên nhân dân. Chức danh Bào chữa viên nhân dân ở nước ta ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949. Sau đó, Nghị định số 01 – NĐ – VY ngày 12/1/1950 của Bộ Tư pháp đã quy định rõ tiêu chuẩn Bào chữa viên nhân dân. Trong suốt thời gian dài ( từ 1949 – 1987) Bào chữa viên nhân dân đã đóng một vai trò rất lớn trong tố tụng hình sự. Đến năm 1987 cả nước có 30 Đoàn Bào chữa với tổng số gần 400 Bào chữa viên nhân dân (() “Luật sư và tư vấn pháp luật trong cơ chế thị trường”, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Hà Nội - 1995, (
). Tuy nhiên từ năm 1989 đến nay khi các Đoàn luật sư được khôi phục lại ở các địa phương thì các Đoàn Bào chữa đã chấm dứt hoạt động và giải thể, do đó chức danh Bào chữa viên nhân dân gần như chỉ tồn tại trên phương diện pháp lý. Và trên thực tế, các vụ án có sự tham gia của bào chữa viên nhân dân với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đếm trên đầu ngón tay.
b. Từ phía cơ quan tiến hành tố tụng:
Vấn đề thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa không chỉ phụ thuộc vào người bào chữa mà nó còn phụ thuộc vào phía cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tạo điều kiện để người bào chữa có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ và bị can, bị cáo trong những năm qua cho thấy nói chung các cơ quan tiến hành tố tụng đã cố gắng tạo điều kiện để người bào chữa thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo luật định, đặc biệt là những trường hợp bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần được các cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo sự tham gia tố tụng của người bào chữa.
Tuy nhiên trên thực tế còn có những trường hợp vai trò của người bào chữa chưa được tôn trọng đúng mức. Có những trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng coi thường, phủ nhận vai trò của luật sư, gây khó khăn cho luật sư khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Khoản 1 Điều 58 BLTTHS 2003 quy định: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ...”. Mặc dù luật quy định như vậy nhưng trong hầu hết các vụ án, luật sư bào chữa chưa được tham gia tố tụng từ giai đoạn này bởi nhiều lý do khác nhau trong đó có sự suy nghĩ của một số điều tra viên là sự tham gia của luật sư từ giai đoạn khởi tố bị can sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra của họ. Thậm chí có điều tra viên còn cho rằng, nếu tham gia từ giai đoạn này người bào chữa sẽ bày đặt cho bị can khai không đúng hoặc giấu tội... Do đó, họ tìm cách đối phó lại bằng cách “từ chối khéo” hoặc “xin ý kiến thủ trưởng cơ quan”. Qua nhiều lần như vậy nên không ít luật sư đành bỏ dở và buộc phải chấp nhận một thực tế như đã nêu trên mà không biết kêu ai. Việc tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can không được bảo đảm nên đã dẫn tới việc thực hiện các quyền khác của họ trong giai đoạn điều tra là rất khó khăn.
Điểm a Khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003 quy định người bào chữa có quyền “Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác”. Theo quy định này thì việc có cho phép được hỏi cung bị can hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của điều tra viên, do vậy có trường hợp điều tra viên không cho người bào chữa hỏi mà chỉ cho “ngồi nghe” hỏi cung. Điều tra viên dường như không để ý đến sự có mặt của người bào chữa và ý kiến đề xuất của họ.
Việc gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam cũng rất khó khăn. Nếu người bào chữa có được gặp thì họ phải chịu sự giám sát trực tiếp của điều tra viên và giám thị trại giam. Điều đó khiến cho người bị tạm giữ, bị can không dám phản ánh những vấn đề cần thiết cho người bào chữa. Sau khi kết thúc điều tra, hầu như cơ quan điều tra không thông báo cho người bào chữa biết về việc kết thúc điều tra. Do đó, việc đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra và trước khi hồ sơ vụ án chuyển sang viện kiểm sát là rất khó khăn và rất ít khi được thực hiện.
Có lúc nhận thức của những người tiến hành tố tụng về vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự còn chưa đúng với tinh thần của pháp luật tố tụng hình sự. Nhiều Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán cho rằng vụ án có được giải quyết tốt hay không là do họ chứ không phải nhờ sự có mặt của Luật sư; rằng sự tham giai tố tụng của Luật sư chỉ là hình thức; rằng Luật sư tham gia tố tụng chỉ làm cho hoạt động tố tụng phức tạp thêm…Vì thế, những người tiến hành tố tụng như vậy đã không chú trọng đến yêu cầu, nội dung bào chữa của Luật sư trong vụ án hình sự. Nhiều Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán không cho rằng vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án không phải là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Ví dụ: trong nhiều trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can là người chưa thành niên, nhưng đến khi Toà án thụ lý lại không cho đó là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng để trả hồ sơ điều tra bổ sung. Chỉ khi có Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân hướng dẫn về vấn đề này thì tình trạng đó mới được khắc phục (() Vai trò của luật sư trong giải quyết vụ án hình sự., PGS.TS Trần Văn Độ, thẩm phán Tòa án Quân sự trung ương, nguồn: Tạp chí nghề luật – Học viện tư pháp - 2008.
).
BLTTHS hiện hành trao thêm cho người bào chữa quyền sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật, tuy nhiên việc sao chụp hồ sơ trong thực tế cũng còn gặp nhiều khó khăn từ phía cơ quan tiến hành tố tụng. Vai trò của người bào chữa tại phiên tòa xét xử còn nhiều hạn chế nhất định vì nhiều lý do khác nhau. Hội đồng xét xử thường chú ý đến các chứng cứ do viện kiểm sát đưa ra hơn là chứng cứ do người bào chữa đưa ra. Có trường hợp thẩm phán xem sự tham gia của luật sư chỉ là để “cho đủ lệ bộ, thủ tục” chứ không phải để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo (() Những hạn chế trong viêc thực hiện quyền bào chữa của ngưởi bị tạm giữ, bị can và bị cáo,TS. Hoàng Thị Minh Sơn, tạp chí luật học số 10/2008, trường Đại học Luật Hà Nội.
).
Vị trí, vai trò của luật sư bào chữa tại phiên toà rất mờ nhạt và chưa được coi trọng đúng mức. Cá biệt có thẩm phán còn coi thường và phủ nhận vai trò của luật sư, gây khó khăn cho hoạt động bào chữa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Bản bào chữa cùng các đề nghị của luật sư ít được hội đồng xét xử xem xét.
Như vậy, từ thực tiễn nêu trên chúng ta thấy quyền bào chữa của bị cáo trong phiên tòa vẫn chưa được thực hiện tốt, do đó việc người bào chữa thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng cũng khó được đảm bảo.Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hạn chế đó là do vẫn còn hiện tượng “án tại hồ sơ” (() “Vai trò của luật sư, người bào chữa - thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố tụng hình sự”. PGS.TS.LS Phạm Hồng Hải. (
).
2. Một số hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa và kiến nghị hướng hoàn thiện
Qua việc khái quát tình hình thực tiễn về thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trên đây có thể thấy, hiện nay các quy định của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa đang có những vướng mắc, bất cập mà điều đó đã tạo nên những rào cản pháp lý khiến người bào chữa gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng.
Thứ nhất, xuất phát từ thực trạng hiện nay đó là hiện tượng người bào chữa là luật sư không làm hết trách nhiệm của mình, không toàn tâm, toàn ý để thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo...Điều này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân như đã nêu qua ở trên, có thể thấy pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể, rõ ràng các trách nhiệm pháp lý để ràng buộc người bào chữa phải có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ tố tụng của mình. Vấn đề nghĩa vụ của người bào chữa cũng như việc thực hiện nghĩa vụ đó trong thực tế chưa được các nhà làm luật quan tâm đúng mức, khi mà thực tiễn đã diễn ra nhiều trường hợp người bào chữa tham gia vào tố tụng với tư cách là người bào chữa để cho đúng thủ tục, có khi là vì lợi ích cá nhân...mà quên đi nhiệm vụ của một người bào chữa. Việc pháp luật quy định nghĩa vụ của người bào chữa làm sáng tỏ các tình tiết vụ án, nhưng lại quy định việc có mặt khi hỏi cung, thu thập chứng cứ, xét hỏi và tranh luận chỉ là quyền của họ vô hình chung đã tạo cơ sở pháp lý cho Luật sư thực hiện không đầy đủ, hiệu quả nghĩa vụ tố tụng của mình.
Có ý kiến cho rằng người bào chữa là luật sư khi đã nhận lời hoặc được phân công tham gia tố tụng thì không chỉ có nghĩa vụ tố tụng, mà còn có nghĩa vụ trước thân chủ của mình, và để Luật sư phát huy hết khả năng và trách nhiệm của mình thì nghĩa vụ đó phải được pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể ((7) “Vai trò của luật sư, người bào chữa - thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố tụng hình sự”. PGS.TS.LS Phạm Hồng Hải. (
(8) Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự, Luật sư. Nguyễn Văn Chiến - Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội. Nguồn: Về sự tham gia của người bào chữa vào quá trình tố tụng hình sự theo BLTTHS năm 2003, TS. Nguyễn Duy Hưng, Tạp chí Khoa học pháp lý Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
). Em đồng ý với quan điểm này, bởi vì đây sẽ là một giải pháp hiệu quả về mặt pháp lý để khắc phục những hạn chế trong hoạt động bào chữa của luật sư hiện nay (như đã phân tích ở phần trên). Việc vi phạm các nghĩa vụ đó phải được xử lý bằng các chế tài khác nhau và có thể quy định bổ sung thành một điều luật riêng trong pháp luật nội dung (có thể là Luật luật sư, Luật dân sự...), có như vậy mới tránh được tình trạng bào chữa một cách hình thức trong các vụ án Luật sư được các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu, tình trạng luật sư không làm hết trách nhiệm của mình trước thân chủ làm cho kết quả bào chữa bị hạn chế như không tham gia hỏi cung, tại phiên toà không xét hỏi, tranh luận phiến diện, chủ yếu xin giảm nhẹ, bào chữa trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ mà không chú trọng thu thập thêm chứng cứ, tình trạng vắng mặt tại phiên toà v.v..
Đồng thời để quy định về nghĩa vụ của người bào chữa hoàn chỉnh hơn, em đồng ý với quan điểm rằng bổ sung vào khoản 4 của Điều 58 cụm từ “nếu tiết lộ bí mật điều tra và” vào sau cụm từ “người bào chữa” nhằm đảm bảo cho việc giữ bí mật điều tra mà người bào chữa biết được khi tham gia tố tụng (
). Điều này dẫn tới tính khả thi của sự cho phép người bào chữa tham gia sớm hơn trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Nếu vẫn quy định chung chung là không được tiết lộ bí mật điều tra mà không kèm theo quy định khả năng áp dụng chế tài nếu có sự vi phạm thì cơ quan điều tra e ngại và cho việc giữ bí mật điều tra là cái cớ để không tạo điều kiện luật sư tham gia làm cho quy định đó thiếu tính khả thi.
Thứ hai, xuất phát từ thực trạng phía cơ quan tiến hành tố tụng có lúc không coi trọng vai trò của luật sư, coi thường, phủ nhận vai trò của luật sư, gây khó khăn cho luật sư khi thực hiện nhiệm vụ của mình...(như đã nêu trên), có thể thấy một một vấn đề là pháp luật tố tụng hình sự trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.doc