Cơ sở pháp lý: Điểm đ Khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền : “Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;”.
Nội dung: Phiên tòa chính là nơi kiểm tra công khai các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và các phán quyết đối với bị cáo. Người bị hại có quyền tham gia phiên tòa để thực hiện các quyền của mình. Người bị hại có thể đưa ra các yêu cầu, các tài liệu chứng minh cho thiệt hại là cơ sở để đề nghị mức bồi thường. Đồng thời việc tham gia cũng đảm bảo cho người bị hại biết được các quyết định của Tòa án để xem xét có nên kháng cáo và thời hạn kháng cáo. Tại phiên tòa họ có thể đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, được trình bày ý kiến, tham gia tranh tụng tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án phải trao giấy triệu tập cho người bị hại để họ có mặt tại phiên tòa. Trong nhiều trường hợp việc có tham gia phiên tòa của người bị hại hay không là căn cứ để hoãn phiên tòa.
Ý nghĩa: Là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được quy định tại Điều 19 BLTTHS.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8553 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời do nhiều nguyên nhân. Cơ quan tiến hành tố tụng chỉ tập trung vào việc trừng trị kẻ phạm tội mà chưa chú trọng tới quyền và lợi ích của người bị hại, phần nữa do nhận thức của người tiến hành tố tụng và người bị hại còn hạn chế. Trong quá trình giải quyết vụ án dường như cơ quan có thẩm quyền chưa xem người bị hại như một bên của quá trình tố tụng . Trong khi đó việc tham gia của người bị hại vào quá trình tố tụng sẽ cung cấp những tình tiết có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Sự thiệt hại của người bị hại khó hoặc không thể khôi phục như ban đầu nên họ phải được bồi thường để bù đắp phần nào cho sự tổn thất của mình. Tuy nhiên vấn đề tham gia tố tụng của người bị hại chưa được đảm bảo. Vì vậy cần có những quy định của luật TTHS rõ ràng và cụ thể để tạo cơ sở cho người bị hại thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH.
Quyền của người bị hại.
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Cơ sở pháp lý: Điểm a Khoản 2 Điều 51 BLTTHSTTHS năm 2003 quy định: “Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu”.
Nội dung: Người bị hại có quyền:
- Thứ nhất, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật: Người bị hại trong nhiều trường hợp là người chứng kiến cụ việc xảy ra, biết các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, cho nên những tài liệu, đồ vật mà người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ đưa ra thường có độ chính xác, có ích cho quá trình giải quyết vụ án. Ví dụ: giấy khám chữa bệnh, hóa đơn tiền viện phí và tiền thuốc...
Thứ hai, quyền yêu cầu: Người bị hại có thể đưa ra những yêu cầu trong các giai đoạn tố tụng khác nhau. Ví dụ: yêu cầu cơ quan điều tra thu thập thêm chứng cứ để định tội, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu giám định hoặc giám định lại nếu có căn cứ cho rằng kết quả giám định trước không đúng sự thật, yêu cầu khởi tố vụ án trong 1 số trường hợp, rút đơn yêu cầu khởi tố.
Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bị hại. Sự đảm bảo này được luật hóa tại điều 122 BLTTHS: “Khi người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.”
Ý nghĩa : Pháp luật quy định người bị hại có quyền đưa ra “tài liệu, đồ vật, yêu cầu” nhằm đảm bảo nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 10 BLTTHS) và nguyên tắc Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án( Điều 19 BLTTHS), qua đó, góp phần giải quyết nhanh chóng vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Quyền được thông báo về kết quả điều tra
Cơ sở pháp lý: Điểm b Khoản 2 điều 51 BLTTHS quy định : Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền “Được thông báo về kết quả điều tra”. Theo đó, người bị hại có quyền được thông báo về kết quả điều tra. Tuy nhiên pháp luật chưa quy định rõ là cơ quan điều tra bắt buộc phải thông báo kết quả điều tra cho người bị hại hay chỉ khi nào người bị hại yêu cầu thì mới phải thông báo kết quả điều tra cho họ. Mặt khác, việc thông báo kết quả điều tra bằng hình thức nào cũng cần phải nói đến.
Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định: Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền : c, Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;”.
Nội dung: Khi có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch không vô tư trong giải quyết vụ án thì người bị hại có quyền thay đổi họ. Điều 42 BLTTHS quy định về những trường hợp người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. Các điều 44,45, 46 và 47 BLTTHS quy định cụ thể những trường hợp thay đổi điều tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm, thư kí tòa án. Điều 60 và Điều 61 BLTTHS đã quy định rõ các trường hợp người giám định, người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng.
Ý nghĩa : Việc pháp luật quy định quyền này cho người bị hại, trước hết do trong vụ án hình sự, quyền lợi của người bị hại luôn đối lập với quyền lợi của người phạm tội, vì vậy họ rất cần người tiến hành tố tụng phải vô tư, khách quan. Mặt khác, quyền này chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc đảm bảo vô tư khách quan của người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng được quy định tại điều 14 BLTTHS.
Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường.
Cơ sở pháp lý: Điểm d Khoản 2 Điều 51 quy định người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền “d) Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường”.
Nội dung: Theo đó, người bị hại có quyền đề nghị mức bồi thường. Tuy nhiên việc đưa ra mức bồi thường như thế nào là thỏa đáng và để Tòa án chấp nhận hiện là một khó khăn cho người bị hại. Bên cạnh quyền được đề nghị mức bồi thường thiệt hại thì người bị hại còn có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm bồi thường như: kê biên tài sản, phong tỏa tài sản, tạm giữ tài sản (Điều 146 BLTTHS).
Ý nghĩa : Người bị hại là người bị thiệt hại về tinh thần, thể chất, tài sản do hành vi phạm tội gây ra do đó việc bồi thường thiệt hại để bù đắp thiệt hại bị xâm phạm là rất cần thiết.
Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa.
Cơ sở pháp lý: Điểm đ Khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền : “Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;”.
Nội dung: Phiên tòa chính là nơi kiểm tra công khai các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và các phán quyết đối với bị cáo. Người bị hại có quyền tham gia phiên tòa để thực hiện các quyền của mình. Người bị hại có thể đưa ra các yêu cầu, các tài liệu chứng minh cho thiệt hại là cơ sở để đề nghị mức bồi thường. Đồng thời việc tham gia cũng đảm bảo cho người bị hại biết được các quyết định của Tòa án để xem xét có nên kháng cáo và thời hạn kháng cáo. Tại phiên tòa họ có thể đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, được trình bày ý kiến, tham gia tranh tụng tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án phải trao giấy triệu tập cho người bị hại để họ có mặt tại phiên tòa. Trong nhiều trường hợp việc có tham gia phiên tòa của người bị hại hay không là căn cứ để hoãn phiên tòa.
Ý nghĩa: Là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được quy định tại Điều 19 BLTTHS.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo.
Cơ sở pháp lý: quyền này được ghi nhận tại Điểm e khoản 2 Điều 51 BLTTHS.
Nội dung:
Thứ nhất, quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Trong quá trình tố tụng nếu người bị hại phát hiện thấy quyết định hoặc hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng có những điểm bất hợp lí, vi phạm pháp luật thì họ có quyền khiếu nại những quyết định, hành vi tố tụng đó theo trình tự, thủ tục quy định tại chương XXXV của BLTTHS. Thông tư liên tịch 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng Hình sự về khiếu nại, tố cáo do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng,Bộ Tư pháp ban hành quy định: “ Khiếu nại trong tố tụng hình sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức đề nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. BLTTHS cũng quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại. Thời hiệu khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng mà người bị hại cho là có vi phạm là 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng đó. Trong một số trường hợp do trở ngại khách quan mà người bị hại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không được tính vào thời hạn khiếu nại.
Thứ hai, quyền kháng cáo: Đây là một quyền quan trọng của người bị hại. Theo hướng dẫn của hội đồng thẩm phán TANDTC trong Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ban hành ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao về Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư : "Xét xử phúc thẩm" của Bộ luật Tố tụng hình sự về thành phần những chủ thể được quyền kháng cáo thì không chỉ người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại mà còn có người được người bị hại ủy quyền cũng có quyền kháng cáo. Khi tội phạm xảy ra, quan hệ pháp luật hình sự xuất hiện là quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội, còn mối quan hệ giữa bị can, bị cáo và người bị hại chỉ là quan hệ dân sự trong việc bồi thường những thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Những thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu không chỉ về thể chất mà còn những thiệt hại về tinh thần vì vậy ngoài phần kháng cáo về mức bồi thường, ngược lại bị hại còn có quyền kháng cáo về phần hình phạt . Về thời hạn kháng cáo bản án quyết định của tòa án là 15 ngày ( Điều 234 BLTTHS) kể từ ngày tuyên án, trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi dấu ở phong bì. Nếu có lý do chính đáng ( thiên tai, lũ lụt, tai nạn bệnh tật..)thì việc kháng cáo quá hạn vẫn có thể được chấp nhận. Việc kháng cáo được thực hiện dưới hình thức là gửi đơn đến tòa án cấp sơ thẩm hay trình bày trực tiếp với tòa án đã xử sơ thẩm. Hậu quả pháp lí của việc kháng cáo là những phần của bản án bị kháng cáo thì chưa được đưa ra thi hành và tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo cho phúc thẩm trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo. Người bị hại cũng có quyền rút kháng cáo theo quy định của BLTTHS.
Ý nghĩa: Việc pháp luật quy định cho người bị hại có quyền khiếu nại là đảm bảo nguyên tắc “Đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS” (Điều 31 BLTTHS). Đồng thời việc người bị hại có quyền kháng cáo chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử”( Điều 20 BLTTHS)
Trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Cơ sở pháp lý: Khoản 3 Điều 51 BLTTHS quy định: “Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại tại điều 105 BLTTHS thì người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.”
Nội dung: Theo đó người bị hại có quyền trình bày lời buộc tội trước phiên tòa. BLTTHS không có quy định về thời điểm người bị hại trình bày lời buộc tội. Tuy nhiên mục 1.7 Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định: “Việc người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa phải thực hiện đúng theo quy định chung của BLTTHS về phiên tòa sơ thẩm, do đó việc người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa được thực hiện theo trình tự phát biểu sau khi tranh luận tại phiên tòa theo quy định tại Điều 271 BLTTHS” . Luật TTHS bên cạnh quy định về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại và đại diện hợp pháp của họ cũng quy định quyền được rút đơn yêu cầu khởi tố, đây là quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại,
Ý nghĩa: Người bị hại là người phải chịu hậu quả do hành vi phạm tội gây ra nên pháp luật để cho người bị hại có quyền phán xét hành vi phạm tội. Việc quy định cho người bị hại có quyền trình bày lời buộc tội trước phiên tòa là thể hiện sự quan tâm tới tâm tư, tình cảm của người bị hại.
Quyền đối với kết luận giám định.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 158 BLTTHS quy định: Bị can, những người tham gia tố tụng khác được trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại..”
Nội dung: Theo đó, người bị hại có quyền trình bày ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại. Đây là một quyền mới của người bị hại. Kết luận giám định là một trong những chứng cứ giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác minh sự thật khách quan của vụ án. Nếu các kết quả giám định không chính xác sẽ ảnh hưởng đến giải quyết vụ án quyền và lợi ích của người bị hại
Ý nghĩa: Việc quy định cho người bị hại có quyền được biết kết quả giám định, được trình bày ý kiến về kết luận giám định, được yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại là cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền lợi cho mình.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 59 BLTTHS quy định: “Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình”
Nội dung: Pháp luật quy định cho người bị hại quyền tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hoặc có thể nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác nhưng phải được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tiễn hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống, điều kiện trở thành bào chữa viên nhân dân cũng không được quy định(1).Trong khi đó luật sư khá phổ biến và đã có cả Luật luật sư điều chỉnh.
Ý nghĩa: Là sự đảm bảo nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân được quy định trong hiến pháp cũng như BLTTHS.
(1) Đinh Văn quế - Pháp luật hình sự thực tiễn xét xử và án lệ, Nxb.LĐXH, 2005
Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 105 BLTTHS quy định: Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”
Nội dung: Quy định này dựa trên sự kết thừa của quy định tương ứng trong BLTTHS năm 1988, điểm mới là ở chỗ người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất cũng có quyền yêu cầu khởi tố vụ án. Pháp luật hiện nay chưa quy định cụ thể về vấn đề xác định nội dung yêu cầu khởi tố của người bị hại. Về yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại có thể bằng văn bản hoặc lời trình bày tại cơ quan điều tra. Về thời hạn giải quyết yêu cầu khởi tố của người bị hại thì theo Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng cùng ban hành là 20 ngày trường hợp có quá nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn tối đa không quá 2 tháng.
Ý nghĩa : Pháp luật quy định người bị hại có quyền làm đơn yêu cầu khỏi tố và có quyền rút đơn “ nhằm mục đích động viên, khuyến khích các công dân tự hòa giải, tự thu xếp, dàn hòa ổn thỏa đồng thời tạo quan hệ đoàn kết, thân ái giữa các công dân với nhau khi xảy ra mâu thuẫn”.
Quyền rút yêu cầu khởi tố.
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 105 BLTTHS quy định: “Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ”. Tuy nhiên quyền này cũng có giới hạn. Chỉ khi người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm vụ án mới bị đình chỉ. BLTTHS 1988 không quy định trường hợp sau một thời gian rút đơn yêu cầu khởi tố thì người bị hại có quyền tiếp tục làm đơn yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng phục hồi điều tra hay không? Khoản 2 Điều 105 quy định “Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. ”. Tuy nhiên điều luật như vô tình bỏ qua người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà chỉ kể đến người bị hại vì họ cũng có quyền yêu cầu và rút yêu cầu.
Nghĩa vụ của người bị hại
Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Cơ sở pháp lý: Khoản 4 Điều 51 BLTTHS quy định: “Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự”
Nội dung: Theo đó, người bị hại phải có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án. Tại đây người bị hại phải khai báo những tình tiết của vụ án mà họ biết được. Nghĩa vụ này của người bị hại còn được BLTTHS 2003 quy định tại Điều 115 về trách nhiệm thực hiện quyết định và yêu cầu của cơ quan điều tra, viện kiểm sát: “Những quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải được cơ quan, tổ chức và công dân nghiêm chỉnh chấp hành”. Bên cạnh đó Điều 183 BLTTHS quy định: “Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa”. BLTTHS cũng quy định nếu sự vắng mặt của người bị hại, tùy từng trường hợp Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc tiếp tục xét xử. Tuy nhiên trong trường hợp người bị hại vắng mặt thì phải chịu trách nhiệm pháp lý như thế nào thì BLTTHS chưa quy định rõ.
Ý nghĩa: Việc người bị hại hợp tác với cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án thì việc xử lí vụ án được tiến hành thuận lợi; ngược lại vì lí do nào đó mà họ không hợp tác sẽ dẫn đến việc xử lí vụ án vô cùng khó khăn thậm chí bế tắc dẫn đến bỏ sót tội phạm.
Nghĩa vụ khai báo
Cơ sở pháp lý: Khoản 4 Điều 51 quy định: người bị hại “nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự”
Nội dung: Người bị hại là người hiểu hơn ai hết về hành vi phạm tội với bản thân mình do đó lời khai và sự có mặt của họ khi cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu là rất cần thiết. Người bị hại có thể khai báo, cung cấp những thông tin liên quan đến vụ án ở bất cứ thời điểm nào của quá trình tố tụng và phải chịu trách nhiệm về những lời khai cũng như thông tin mà họ cung cấp. Hành vi từ chối khai báo thể hiện dưới dạng không chấp nhận yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng về việc khai báo, trốn tránh việc khai báo thông qua các hành vi như: không đến theo giấy triệu tập hoặc đến nhưng không chịu khai báo dù không có lí do chính đáng...
Ý nghĩa: Việc quy định người bị hại có nghĩa vụ khai báo là để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân.
THỰC TRẠNG THỰC THI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ HẠI.
Thực trạng thực thi quyền và nghĩa vụ của người bị hại.
Những kết quả đạt được.
Pháp luật TTHS về quyền và lợi ích của người bị hại qua quá trình tồn tại và phát triển ngày càng được bổ sung, sửa đổi đầy đủ và hoàn thiện hơn. Chẳng hạn phạm vi kháng cáo của người bị hại không chỉ giới hạn trong phạm vi tăng nặng hình phạt mà còn cho phép người bị hại kháng cáo theo hướng giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo; hoặc chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật TTHS năm 1988 và chế định này ngày càng được mở rộng... Nội dung các quyền và nghĩa vụ của người bị hại về cơ bản là phù hợp và được các cơ quan có thẩm quyền nghiêm chỉnh chấp hành, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Trong những năm qua thực tiễn thi hành quy định của pháp luật TTHS về quyền và nghĩa vụ của người bị hại đã đạt được những thành tựu nhất định. Người bị hại ngày càng hiểu được vị trí, vai trò của mình trong quá trình giải quyết vụ án. Họ đã thực hiện khá đầy đủ nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Bên cạnh đó cũng phải kể đến vai trò của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tạo mới điều kiện thuận lợi cho người bị hại thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Có thể nói quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại đã phát huy hiệu quả.
Những tồn tại và nguyên nhân.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, qua quá trình áp dụng luật vào thực tiễn đã bộc lộ một số bất cập trong các quy định pháp luật cũng như một số khó khăn trong thực tiễn áp dụng. Cụ thể là các vấn đề sau đây:
Bất cập trong các quy định của pháp luật:
Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại.
Thứ nhất, khoản 5 Điều 51 Bộ luật TTHSHS quy định: “Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền được quy định tại điều này”. Như vậy trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất khi tham gia tố tụng thì đại diện hợp pháp của họ có được tham gia tố tụng và có được hưởng các quyền của người bị hại không? Theo tinh thần nội dung Điều 51 Bộ luật TTHSHS thì người đại diện hợp pháp của người bị hại trong trường hợp này được tham gia tố tụng nhưng không được thực hiện các quyền của người bị hại. Tuy nhiên, theo tinh thần của quy định tại Điều 59 Bộ luật TTHSHS thì người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại.
Thứ hai, Bộ luật TTHSHS chỉ quy định trường hợp người bị hại chết mà chưa quy định trường hợp người bị hại mất tích. Vậy trường hợp người bị hại được xác định là mất tích thì vấn đề người đại diện hợp pháp của họ được quy định và giải quyết như thế nào.
Thứ ba, trong hai trường hợp nêu trên cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được ai là người đại diện hợp pháp, hoặc người bị hại thực tế cũng không còn ai là người đại diện hợp pháp thì giải quyết như thế nào? Người thân của người bị hại có được tham gia tố tụng không và với tư cách gì? Về vấn đề này chưa có sự nhận thức và áp dụng thống nhất. Thứ tư, trong trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền và nghĩa vụ mâu thuẫn với nhau thì giải quyết như thế nào? Cho đến nay vấn đề này chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể mà chỉ được thể hiện trong kết luận của Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao tại hội nghị tổng kết ngành năm 1990
Vấn đề liên quan đến việc quy định và thực hiện các quyền của người bị hại:
Thứ nhất, phạm vi thực hiện quyền kháng cáo của người bị hại. Tại điểm e khoản 2 Điều 51 Bộ luật TTHSHS quy định: người bị hại có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như về phần hình phạt đối với bị cáo. Như vậy, quy định này chỉ cho phép người bị hại kháng cáo trong phạm vi phần bồi thường và phần hình phạt, những phần khác trong bản án nếu không đồng tình với bản án và quyết định của Tòa án thì người bị hại không có quyền kháng cáo. Trong khi đó tại Điều 231 Bộ luật TTHSHS lại quy định: Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án và quyết định của Tòa án. Như vậy theo quy định này thì người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Điều luật không thể hiện bất cứ sự giới hạn nào như tinh thần của Điều 51 Bộ luật TTHSHS. Như vậy phải chăng nội dung hai điều luật lại mâu thuẫn với nhau và khi gặp trường hợp trên Tòa án sẽ giải quyết như thế nào?
Thứ hai, nghiên cứu các quy định trong Bộ luật TTHSHS hiện hành cho thấy pháp luật TTHSHS chưa khẳng định người bị hại là một bên trong tranh tụng, thực hiện chức năng buộc tội. Theo chúng tôi có lẽ đây cũng là một khiếm khuyết của các quy định pháp luật, thực chất cùng với các chủ thể khác như kiểm sát viên, nguyên đơn dân sự..., người bị hại cũng là một bên trong tranh tụng, hành vi tố tụng của người bị hại góp phần quan trọng trong tiến trình đi tìm sự thật của vụ án, công lý và sự công bằng của pháp luật, đặc biệt là trong những vụ án mà việc khởi tố phải do người bị hại yêu cầu.
Vấn đề liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
So với yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, chế định này cũng đã bộc lộ một số bất cập. Chẳng hạn: Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Bộ luật TTHS, trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về việc người bị hại trình bày lời buộc tội bị cáo tại phiên tòa như thế nào. Trường hợp nếu người bị hại trình bày lời buộc tội thì kiểm sát viên tham gia phiên tòa có trình bày lời buộc tội nữa không? Lời
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại.doc