Tiểu luận Quyền và nghĩa vụ của người lao động theo qui định của pháp luật Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

CHƯƠNG I: Nội dung của quan hệ pháp luật lao động 2

I. Quyền và nghĩa vụ của người lao động: 2

II. Khách thể của quan hệ pháp luật lao động: 3

CHƯƠNG II: Quyền và nghĩa vụ của người lao động 4

I. Người lao động có các quền cơ bản sau: 4

1. Người lao động được trả lương theo số và chất lượng lao động: 4

2. Người lao động được đảm bảo an toàn trong khi làm việc: 5

3. Người lao động được bảo hiểm xã hội theo quy định của Nhà nước: 7

4. Người lao động được nghỉ ngơi theo pháp luật quy định và theo thoả thuận giữa các bên: 8

5. Người lao động có quyền được thành lập hoặc gia nhập tổ chức công đoàn: 8

II. Nghĩa vụ mà người lao động phải thực hiện: 9

1. Thực hiện các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và chấp hành kỷ luật lao động: 9

2. Người lao động phải tuân thủ sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động: 11

Kết luận 12

 

 

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 18244 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quyền và nghĩa vụ của người lao động theo qui định của pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Lao động giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử loài người, Ph.Ăngghen đã viết: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người, đến một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng taphải nói rằng: Lao động đã tạo ra chính bản thân con người”. Trong quá trình lao động, con người tác động đến trực tiếp vào thế giới xung quanh và mục đích của quá trình lao động được thể hiện trong kết quả của nó. Nhờ có lao động mà con người tách khỏi thế giơí động vật, đồng thời biết vận dụng quy luật của thiên nhiên để chinh phục nó. Điều đó khẳng định lao động là hoạt động có ý chí, có mục đíchcủa con người nhằm tạo ra một giá trị sử dụng nhất định. Lao động tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Với tư tưởng chiến lược “Vì con người và phát huy nhân tố con người”, các quy phạm của luật lao động thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng là giải phóng và phát triển nguồn nhân lực dồi dào của đất nướ, khuyến khích sử dụng tiềm năng lao động xã hội, tạo điều kiện và môi trtường để mọi người lao động có việc làm, tự do lao động, từng bước cải thiện đời sống vật chất của người lao động, đảm bảo cơ bản tối thiểu về việc làm, trả công lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động, kết hợp hài hoà giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, coi trọng và bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động nhằm phát triển sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, ổn định tình hình kinh tế-xã hội, phục vụ mục tiêu dân giàu,nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Với đề tài tiểu luận: “Quyền và nghĩa vụ của người lao động theo qui định của pháp luật Việt Nam”, em xin phân tích và nêu ra những nội dung cơ bản nhất về quyền và nghĩa vụ của người lao động theo sự hiểu biết của mình. Trong quá trình làm bài do thời gian hạn chế và còn thiếu một số giấo trình để tham khảo nên bài tiểu luận này không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Vậy em rất mong những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài viết của em thêm hoàn chỉnh hơn. CHƯƠNG I NỘI DUNG CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG Nội dung của quan hệ pháp luật lao động là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ. Trong quan hệ pháp luật lao động, quyền lao động của công dân trở thành quyền thực tế và mỗi bên tham gia đều có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Quyền của chủ thể này bao giờ cũng tương ứng với nghĩa vụ chủ thể kia tạo thành mối liên hệ pháp lý thống nhất trong một quan hệ pháp luậtn lao động. Trong quan hệ pháp luật này, không có chủ thể nào chỉ có quyền hoặc chỉ có nghĩa vụ và không có nghĩa vụ của một bên thì cũng không có quyền của bên kia. Ngoài ra, các bên còn phải thực hiện, tôn trọng những quyền và nghĩa vụ nhất định mà pháp luật quy định để đảm bảo trật tự, lợi ích xã hội, bảo đảm môi trường lao động và môi trường sống. I. Quyền và nghĩa vụ của người lao động: Trong quan hệ pháp luật lao động, người lao động có các quyền cơ bản sau: - Được trả lương theo số và chát lượng lao động. - Được đảm bảo an toàn trong lao động. - Được bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. - Được nghỉ ngơi theo pháp luật quy định và theo thoả thuận giữa các bên. - Được thành lập hoặc gia nhập tổ chức công đoàn. - Được hưởng phúc lợi tập thể và tham gia quản lý doanh nghiệp theo pháp luật, nội quy và điều kiện của đơn vị. - Được đình công theo quy định của pháp luật. Đồng thời người lao động phải thực hiện các nghĩa vụ: - Thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể và cháp hành nội quy của đơn vị. - Thực hiện các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và chấp hành kỷ luật lao động. Tuân thủ sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động. II. Khách thể của quan hệ pháp luật lao động: Trong quan hệ pháp luật lao động, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể bao giờ cũng để hướng tới một mục đích, một lợi ích nào đó, và đó là khách thể của quan hệ pháp luật lao động. Việc xác định đúng khách thể của quan hệ pháp luật lao động có ý nghĩa rất lớn vì nó phản ánh lợi ích, mục đích đó ở mức độ nào sẽ là yếu tố quyết định đến sự phát sinh, tồn tại hay chấm dứt quan hệ pháp luật lao động. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật này, người lao động muốn sử dụng sức lao động của mình để có thu nhập đảm bảo cuộc sống cho họ và gia đìng. Còn bên sử dụng lao động cũng muốn có sức lao động để sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh hay dịch vụ. Như vậy, khi thiết lập quan hệ pháp luật lao động với nhau, các bên đều hướng tới sức lao động của người lao động và đó chính là khách thể của mối quan hệ pháp luật này. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp sức lao động đều là khách thể mà chỉ có thể là khách thể khi sức lao động được đặt vào một tình trạng nhất định. Vì vậy, muốn ổn định quan hệ pháp luật lao động, Nhà nước phải có những biện pháp, những quy định để ổn định và tăng cường sức lao độngcho người lao động cũng như đảm bảo sử dụng nó hợp lý,hiệu quả và khoa học. CHƯƠNG II QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG I. Người lao động có các quền cơ bản sau: 1. Người lao động được trả lương theo số và chất lượng lao động: Phân phối theo lao động là một quy luật kinh tế khách quan. Đó là sự vận dụng quy luật giá trị của nền sản xuất hàng hoá vào việc trả công lao động với ý nghĩa sức lao động là hàng hoá, tiền lương (tiền công) lầ giá cả sức lao động, tiền lương (tiền công) trả cho người lao động phải đảm bảo cho họ đủ bù đắp hao phí và duy trì cuộc sống lâu dài. Xuất phát từ quan điểm, nhận thức sức lao động là hàng hoá, tiền lương là giá cả sức lao động, các quy định về tiền lương do Nhà nước ban hành phải phản ánh đúng giá trị sức lao động. Tuỳ từng tính chất, đặc điểm khác nhau của từng loại lao động mà Nhà nước quy định chế độ tiền lương hợp lý và phải quán triệt nguyên tắc: - Lao động có trình độ nghề nghiệp cao thành thạo, chất lượng cao, làm việc nhiều thì được ttrả công cao và ngược lại. - Những lao động ngang nhau thì phải trả công ngang nhau. Tuy nhiên, ngoài việc căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của người lao động được biểu hiện qua thời gian lao động và trình độ nghề nghiệp hoặc số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra, việc trả công lao động còn phải tính đến các điều kiện khác như: Thu nhập quốc dân, hoặc thu nhập của doanh nghiệpp, năng suất lao động đạt được để điều tiết việc trả lương. Việc chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã làm thay đổi nhận thức về lý luận trong xây dựng chính sách tiền lương. Theo cơ chế mới: Thừa nhận người lao động được tự do làm việc theo hợp đồng thoản thuận, tự do giữa các cơ sở sản xuất, nghĩa là công nhận sự tồn tại khách quan của phạm trù sức lao động và như vậy tiền lương không chỉthuộc phạm trù phân phối mà còn là phạm trù trao đôỉo, phạm trù giá trị. Chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, ban hành phải xuất phát từ yêu cầu là quan tâm toàn diện tới mục đích, động cơ làm việc, các nhu cầu cũng như lợi ích kinh tế của người lao động; có như vậy mới khơi dậy được khả năng tiềm ẩn của người lao động để phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Lao động của con người là một trong những yếu tố quan trọng và giữ vai trò quyết định trong quá trình sản xuất, được biểu hiện ở khả năng tư duy sáng tạo. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì xã hội nào, Nhà nước nào càng thu hút sử dụng tốt lao động sáng tạo, chất xám, càng thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính vì vậy, khi hoạch định chính sách tiền lương cần đánh giá đúng vai trò quyết định của con người. Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là biểu hiện bằng tiền giá trịucs lao động, là giá cả sức lao động. Cũng như các thị trường khác thị tỷường sức lao động hoạt động theo quy luật cung cầu. Mọi công dân có quyền thuê mướn, sử dụng sức lao động và trả công phù hợp với giá trị sức lao động theo đúng pháp luật Nhà nước. 2. Người lao động được đảm bảo an toàn trong khi làm việc: Những quy định về an toàn lao động và vệ sinh lao động được Nhà nước thống nhất quy định và tiêu chuẩn hoá. Có hai loại tiêu chuẩn: Tiêu chuẩn cấp Nhà nước và tiêu chuẩn cấp ngành. - Tiêu chuẩn cấp Nhà nước là những tiêu chuẩn bắt buộc thi hành cho nhiều ngành, nhiều nghề trong phạm vi cả nước. Các tiêu chuẩn này do Chính phủ hoặc cơ quan được Chính phủ uỷ quyền ban hành. Đối tượng áp dụng tiêu chuẩn này bao gồm tất cả các cơ sở tư nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh dịch vụ, nghiên cứu khoa học; các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang có sử dụng, vận chuyển, lưu giữ máy thiết bị, vật tư, chất phóng xạ, thuốc nổ, hoá chất, nhiên liệu, điện… có sử dụng lao động trên lãnh thổ Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt quy mô tổ chức lớn hay nhỏ, nhiều hay ít lao động và người quản lý là công dân Việt Nam hay nước ngoài . - Tiêu chuẩn cấp ngành, cấp cơ sở là tiêu chuẩn do cơ quan quản lý cấp ngành ban hành phù hợp với các tiêu chuẩn của Nhà nước và có giá trị bắt buộc thi hành trong phạm vi đối tượng mà tiêu chuẩn quy định áp dụng. Mặt khác, khi xây dựng mới hoặc mở rộng, cải tạo cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ các loại máy thiết bị, vật tư và các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh phải có luận chứng về các biện pháp đảm bảo an toàn lao độn, vệ sinh lao động đối với nơi làm việc của người lao động và môi trường xung quanh. Luận chứng này phải được các cơ quan thanh tra Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động chấp thuận trên cơ sở những quy trình được ghi trong các tiêu chuẩn về an toàn lao động và tiêu chuẩn vệ sinh lao động. Bất cứ đơn vị sử dụng nào, nơi làm việc cũng phải đảm bảo về không gian, độ thoáng, độ sáng, tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về hơi, khí độc, bụi, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung và các yếu tố có hại khác. Các yếu tố đó phải được kiểm tra, đo lường định kỳ. Nghiêm cấm việc thải vào không khí, nguồn nước hoặc đất đai các chất gây độc hại khi việc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép. Nơi làm việc, nơi đặt máy thiét bị, nơi có chất nguy hại phải có bảng chỉ dẫn về an toàn lao động, vệ sinh lao động và phải đặt ở vị trí mọi người dễ thấy, dễ đọc; trong trường hợp có nguy cơ gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, phải thực hiện ngay những biện pháp khắc phục nguy cơ đó hoặc phải ngừng hoạt động. Người lao động làm việc ở những nơi có các yếu tố nguy hiểm, độc hại phải được cung cấp những phương tiện bảo vẹ cá nhân - đó là những trang bị mà người lao động sử dụng để phòng ngừa, hạn chế sự tác động của các yếu tố nguy hiểm, độc hại có thể dẫn đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Các phương tiện bảo vệ cá nhân được Nhà nước tiêu chuản hoá về chất lượng và quy cách. Mọi người lao động, không phân biệt công dân Việt Nam hayb người nước ngoài làm những công việc có yếu tố nguy hiểm, dộc haịi dưới bất kỳ hình thức nào trong mọi thành phần kinh tế đều được người sử dụng lao động trang bị các phương tiện cá nhân cần thiết cho việc phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Người lao động có trách nhiẹm sử dụng, bảo quản tốt các phương tiện bảo vệ cá nhân.. 3. Người lao động được bảo hiểm xã hội theo quy định của Nhà nước: Bảo hiểm xã hội là một hoạt động không thể thiéu được trong đời sống xã hội và càng không thể thiêú đối với người lao động, đó là một đảm bảo rất quan trọng và có ý nghĩa thiết thực, góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động trong những trường hợp rủi ro. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác bảo hiểm và thực hiện bảo hiẻm xã hội đối với người lao động. Quyền được hưởng bảo hiểm xã hội là một trong những quyền cơ bản của người lao động được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Nhà nước và các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện các chế độ bảo hiểm đối với người lao động. Điều 56 Hiến pháp 1992 quy định: “…Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi, và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với ngườinlao động”. Để đảm bảo quyền lợi bảo hiểm xã hội của người lao động, Luật lao động không chỉ quy định quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất, mà còn quy định trách nhiệm của Nhà nước, các đơn vị sử dụng lao động trong việc đóng góp bảo hiểm và thực hiện các chế độ bảo hiểm cho người lao động. Các quyền và nghĩa vụ của người lao động, Nhà nước và các đơn vị sử dụng lao động được ghi nhận, quy định tại các điều 140, 141, 142, 143, 144, 145, 146, và 148 của Bộ Luật Lao động. Thể hiện nội dung của nguyên tắc này, các quy định của Luật lao động phải đảm bảo cho người lao động trong mọi thành phần kinh tế không phân biệt nghề nghiệp, thành phần xã hội, tôn giáo, giới tính, nếu có tham gia vào quan hệ lao động, có đóng góp bảo hiểm xã hội thì đều được đảm bảo các điều kiện về vật chất trong trường hợp tạm thời hoặc vĩnh viễn mất sức lao động, mất việc làm nhằm giúp họ khắc phục khó khăn, ổn định đời sống, tạo điều kiện để họ an tâm lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển. 4. Người lao động được nghỉ ngơi theo pháp luật quy định và theo thoả thuận giữa các bên: Nghỉ ngơi là một nhu cầu không thể thiếu được của cuộc sống. Vì vậy, Nhà nước luôn quan tâm đến quyền được nghỉ ngơi của người lao động. Điều 56 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quy định thời gian lao động… chế độ nghỉ ngơi đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương…”. Căn cứ vào tính chất mỗi ngành, nghề, đặc điểm lao động trong từng khu vực khác nhau, Nhà nước ngoài việc quy định thời gian làm việc hợp lý còn quy định thời gian nghỉ ngơi đối với người lao động nhằm tạo điều kiện cho họ khẳ năng phục hồi sức khoẻ, tái sản xuất sức lao động và tăng năng suất lao động. Thời gian nghỉ ngơi theo chế độ của người lao động được hiểu là thời gian mà người lao động được nghỉ giữa ca làm việc, tuần làm việc, thời gian nghỉ những ngày lễ, tết, nghỉ hàng năm theo quy định của pháp luật. Thời gian đó người lao động không phải thực hiện nghĩa vụ lao động nhưng vẫn được tính là thời gian làm việc và được đảmbảo trả lương. Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động, Nhà nước quy định cụ thể các chế dộ nghỉ, thời gian và quyền lợi của người lao động khi nghỉ tại các điều 71, 72, 73, 74, 75, và 76 Bộ luật lao động. Như vậy quyền được nghỉ ngơi là một quyền cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật lao động khác. Trách nhiệm của Nhà nước và của con người sử dụng lao động là phải tạo mọi điều kiện để người lao động thực hiện đuực quyền đó của mình. 5. Người lao động có quyền được thành lập hoặc gia nhập tổ chức công đoàn: Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp tư nhân hay Nhà nước đều có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp theo nội quy, điều lệ của doanh nghiệpp và quy định của pháp luật; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về sử dụng lao động. Họ thực hiện quyền dó của mình thông qua người đại diện của họ, đó là tổ chức công đoàn. Công đoàn, như điều 10 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội…”. Quyền được thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là một trong những quyền quan trọng của người lao động được pháp luật lao động ghi nhận và đảm bảo thực hiện. II. Nghĩa vụ mà người lao động phải thực hiện: 1. Thực hiện các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và chấp hành kỷ luật lao động: Trong xã hội, nếu con người thực hiện các hoạt động lao động sản xuất đơn lẻ, tách rời nhau thì mỗi người tự sắp xếp quá trình lao động của mình, hoạt động của otj người không liên quan đến hoạt động của những người khác và ngược lại. Song, đó chỉ là giả thiết bởi trong lịch sử, con người xuất hiện cùng với xã hội loài người. Trong cuộc sống, có nhiều lý do khác nhau như yêu cầu, điều kiện của quá trình lao động, mục đích lợi nhuận, thu nhập…khiến người ta luôn có nhu cầu cùng thực hiện một khối lượng công việc nhất định. Chính quá trình lao động chung của con người đòi hỏi phải có trật tự, nề nếp để hường các hoạt động của từng người vào việc thực hiện kế hoạch chung và tạo ra kết quả chung đã định. Cái tạo ra trật tự, nề nếp trong quá trình lao động chung giữa một nhóm người hay trong một đơn vị đó là kỷ luật lao động. Với ý nghĩa này, kỷ luật lao động là yêu cầu khách quan đối với tất cả các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức…hay rộng hơn là với bất kỳ một xã hội, một nền sản xuất nào. Sản xuất ngày càng phát triển, cùng với nó là trình độ phân công, tổ chức lao động trong xã hội ngày càng cao và vì vậy, kỷ luật lao động ngày càng trở nen quan trọng. Dưới góc độ pháp lý, kỷ luật lao dộng là một yếu tố của quan hệ pháp luật lao động, là một chế định không thể thiếu của Luật lao động. Với tư cách là một yếu tố của quan hệ pháp luật lao động, kỷ luật lao động là một nội dung của quan hệ này, vì người lao động khi vào làm việc trong bất cứ một đơn vị sử dụng lao động nàohọ cũng phải chấp hành kỷ luật lao động, tuân thủ nội quy lao động, quy trình công nghệ, an toàn lao động … do pháp luật lao động quy định hoặc đơn vị yêu cầu. - Người lao động phải thực hiện các quy định cụ thể về thời gian làm việc và trật tự trong đơn vị. Các đơn vị sẽ căn cứ vào những quy định chung của pháp luật và những thoả thuận trong thoả ước để quy cụ thể về biểu thời gian làm việc trong ngày, trong tuần, trong mỗi ca, số ngày làm thêm, giờ bắt đầu làm việc, giờ nghỉ giải lao và thời điểm kết thúc ngày, ca làm việc … trên cơ sở các thoả thuận trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể và các quy định trong nội quy lao động, người lao động phải thực hiện các quy định trên, đảm bảo hoạt động nhịp nhàng cho quá trình tổ chức lao động của đơn vị, người lao động phải tuân theo quy định về địa điểm, phạm vi làm việc, đi lại, giao tiếp, ra vào cổng…để giữ gìn trật tự chung trong cơ quan, doanh nghiệp. Nghĩa vụ này vừa đảm bảo kỷ luật, trật tự trong đơn vị, vừa tạo điều kiện cho người lao động sử dụng hợp lý thời gian, nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập cho họ và hiệu quả công việc trong đơn vị. - Người lao động phải thực hiện các quy định về an toàn, vệ sinh nơi làm việc, tuân thủ các quy định về kỹ thuật, công nghệ. Trong quá trình làm việc người lao động phải tuân thủ các chỉ dẫn về an toàn lao động, phải sử dụng, bảo quản trang bị phòng hộ cá nhân, đảm bảo các quy định về vệ sinh lao động và vệ sinh môi trường. Bên cạnh đó các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ cũng phải được thực hiện nghiêm ngặt bởi các quy phạm kỹ thuật, quy trình công nghệ đảm bảo tính đồng bộ, tính liên kết và hiệu quả trong các hoạt động của người lao động cũng như hoạt động của cả tập thể trong một dây truyền sản xuất. - Người lao động phải bảo vệ tài sản, bí mật công nghệ, kinh doanh của đơn vị. Vốn, tài sản của người sử dụng lao động trong sản xuất kinh doanh được Nhà nước bảo hộ vì nó còn để tạo sản phẩm cho xã hội và tạo ra việc làm cho người lao động. Vì vậy mọi người lao động đều có nghĩa vụ bảo vệ, không phân biệt đó là tài sản Nhà nước hay tư nhân; nếu làm thiệt hại, họ phải có trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật. Các tài liệu, tư liệu, số liệu… có liên quan đến bí mật công nghệ hay bí quyết kinh doanh của đơn vị giao cho người lao động trong phạm vi công việc thì người lao động phải có nghĩa vụ giữ gìn. 2. Người lao động phải tuân thủ sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động: Người lao động phải chấp hành những quy định mà người sử dụng lao động đã đề ra. Trong thời gian làm việc người lao động phải tuân theo sự hướng dẫn và chỉ đạo của người sử dụng lao động. Phải chấp hành các nội quy mà đơn vị đó đề ra, phải thực hiện hợp đồng lao động. Người lao động phải tự mình hoàn thành công việc được giao. Vấn đề thực hiện công việc không chỉ liên quan đến tiền lương mà còn liên quan đến hàng loạt các yếu tố khác nhụư các quyền về thân nhân, trách nhiệm nghề nghiệp … Vì vậy, bất cứ bao giờ và ở đâu, dù tham gia quan hệ lao động với ai, người lao động đều phải hoàn thành công việc được giao. Nếu không có sự đồng ý của người sử dụng lao động thì người lao động không được tự chuyển nghĩa vụ cho người khác. Khoản 4 Điều 30 Bộ luật lao động nước ta cũng quy định: “Công việc theo hợp đồng lao động phải do người giao kết thực hiện, không được giao cho người khác, nếu không có sự đồng ý của người sử dụng lao động”. KẾT LUẬN Trong nền kinh tế thị trường có sự tham gia của các thành phần kinh tế ở những mức độ khác nhau, trong những phạm vi khác nhau. Điều 57 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận : “Công dân có quyền tự do kinh doanh”. Như vậy, sản xuất kinh doanh không phải chỉ là quyền của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước mà còn là quyền của mọi công dân. Họ có thể tham gia thị trường một cách độc lập với những quy mô khác nhau hoặc có thể liên doanh, liên kết với các cá nhân và các tổ chức khác để thực hiện mục đích sản xuất kinh doanh của mình. Điều này còn phụ thuộc vào số vốn quỹ, khả năng quản lý tổ chức của các nhà kinh doanh và nhu cầu của xã hội đối với ngành sản xuất king doanh và dịch vụ. Một điều đặc biệt là, khi tham gia vào thị trường, không phải ai và lúc nào cũng đảm đương hết được các công việc, các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh mà họ thường có nhu cầu tuyển thêm lao động xá hội. Nhu cầu đó được xã hội khuyến khích và pháp luật cho phép. Khoản 3, Điều 5 Bộ luật lao động nước ta đã ghi nhận: “Mội hoạt động tạo ra việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao động đều được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giúp đỡ”. Mặt khác, ngay cả các hộ cá thể, các cá nhân và hộ gia đình trong điều kiện sống và phân công lao động hiện nay cũng có nhu cầu sử dụng lao động ở một mức độ nhất định. Điều đó làm cho sản xuất phát triển, các yếu tố “cung” và “cầu” về lao động trong xã hội cân bằng hơn. Song có một điểm thống nhất là khi sử dụng lao động, tất cả các cơ quan. đơn vị, cá nhân… đều phải tuân theo quy định của pháp luật lao động về điều kiện tuyển chọn và sử dụng lao động, mức độ đảm bảo quyền lợi cho người lao động. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc68262.DOC
Tài liệu liên quan