Tiểu luận Quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng hình sự phục vụ việc góp ý sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003

Hiện nay Bị cáo phản cung với lý do bị bức cung, ép mớm, nhục hình là vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt Nam , làm giảm uy tín của cơ quan điều tra, truy tố. Chủ tọa cắt không cho họ nói thì bị xem là mất dân chủ, không khách quan Sở dĩ có tình trạng trên một phần là do Bộ luật tố tụng chưa có quy định cơ chế cứng tạo điều kiện cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra, có mặt tại các buổi hỏi cung bị can. Hầu hết quá trình điều tra luật sư chỉ được tham gia một vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác không có mặt luật sư. Về nguyên tắc, khi luật sư tham gia đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa và có văn bản đề nghị được tham gia tất cả các buổi hỏi cung và các hoạt động điều tra khác thì những hoạt động này bắt buộc phải có luật sư mới có giá trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện hành có quy định rất mâu thuẫn và tạo ra những rào cản. Ví dụ: Luật sư muốn hỏi bị can phải được điều tra viên đồng ý. Phiên tòa xét xử trẻ vị thành niên không có luật sư bào chữa thì phải hoãn, bản án tuyên trong điều kiện đó thì phải hủy, nhưng bản cung buộc tội ghi lời khai của bị can vị thành niên vắng mặt luật sư (mặc dù Điều 305 BLTTHS quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định luật sư) nhưng họ không thực hiện hoặc tìm cách bảo bị can viết đơn từ chối luật sư trong khi họ chưa hề thực hiện Điều luật là chỉ định luật sư thì bản cung lại được chấp nhận là hợp pháp, Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng vẫn có giá trị pháp lý buộc tội. Tôi nghĩ đây là lỗ hổng lớn mà lần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự tới đây phải đặc biệt quan tâm, giải quyết thấu đáo.

doc6 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2552 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng hình sự phục vụ việc góp ý sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Tháng Chín 21, 2009 Để lại phản hồi Go to comments Hướng tới hội thảo khoa học ” Bộ luật tố tụng hình sự – những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung” THAM LUẬN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Luật sư. Nguyễn Văn Chiến Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội I. Mục Đích Mục đích quan trọng của việc sửa đổi BLTTHS 2003 lần này là đề cao trách nhiệm và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan và người tiến hành tố tụng, nhất là xác định trách nhiệm cụ thể của từng chức danh tố tụng, phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng nhằm nâng cao trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Đồng thời xác định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Hay nói cách khác, cần phải tìm ra nguyên nhân những quy định này của BLTTHS vì sao đã có thực tiễn áp dụng hơn 5 năm qua nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của những Nguyên tắc cơ bản được quy định cụ thể tại Chương IV Bộ luật nhằm tìm ra giải pháp khắc phục trong lần sửa đổi lần này. Với ý nghĩa quan trọng đó, chúng tôi rất ủng hộ cuộc tọa đàm của Ban học tập Đoàn luật sư Hà Nội về chủ đề: “Quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng hình sự phục vụ việc góp ý sửa đổi Bộ luật TTHS 2003″. Hy vọng cuộc tọa đàm sẽ tập trung được trí tuệ, kinh nghiệm quý báu của các diễn giả luật sư để góp thêm tiếng nói quan trọng vào công tác cải cách tư pháp hiện nay của Đảng và Nhà nước ta. II. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bào chữa. Trong tham luận này, chúng tôi xin đóng góp một vài ý kiến về quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bào chữa. Trong 15 điều của Chương III về Người tiến hành tố tụng, chỉ có một điều quy định về trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. 14 điều còn lại, nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ hơn các quyền của người tham gia tố tụng, góp phần nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Từ khi những quy định này được sửa đổi bổ sung những quy định cũ còn thiếu và chưa đầy đủ của BLTTHS 1988 nhằm nâng cao vị thế và vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự nhưng thực tế còn nhiều bất cập do không có cơ chế đảm bảo giám sát thực thi những quy định này của luật. Thực tế hơn 5 năm thi hành Bộ luật TTHS nhưng cho đến nay các ngành hữu quan vẫn chưa ban hành được một thông tư liên tịch để đảm bảo sự hướng dẫn thống nhất trong qúa trình thực thi luật mặc dù nhà nước cũng đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc chi phí cho các cuộc Hội thảo để bàn về dự thảo thông tư liên tịch này nhưng không thành. Từ thực tế ấy, tiến tới góp ý cho việc sửa đổi Bộ luật lần này, cần có quy định cụ thể hơn trách nhiệm của các cơ quan THTT và người THTT, theo đó quyền của luật sư và những người tham gia tố tụng khác sẽ được quy định cụ thể hơn và có tính pháp lý bắt buộc cao hơn. 1.       Các nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan đến người bào chữa: Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) quy định người bào chữa có thể là: (a) Luật sư; ((b) Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; và (c) Bào chữa viên nhân dân. Như vậy, về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ giống hay khác luật sư ở mức nào?! Mặc dù có một số người tham gia với tư cách bào chữa viên nhân dân có những đóng góp nhất định trong việc bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo là thành viên tổ chức Mặt trận, nhưng nhìn chung chất lượng hành nghề của phần đông những người này không cao, gặp rất nhiều cản ngại, vướng mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp luật, lại không được đào tạo chuyên sâu về các kỹ năng hành nghề trong tranh tụng vụ án hình sự, không được tập sự trong các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp. Thực tiễn xét xử những người này tham gia tố tụng rất hạn chế, hãn hữu mới có người được Tòa án chấp nhận tham gia. Trong giai đoạn điều tra, truy tố thì hoàn toàn vắng bóng họ, vì thực tế luật sư tham gia còn rất khó khăn. Do đó, theo quan điểm của chúng tôi, chế định bào chữa viên nhân dân và người khác đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó. Hiện nay, cùng với việc thực thi Luật Luật sư năm 2006, Liên đòan luật sư Việt Nam ra đời đã khẳng định sự lớn mạnh và vị thế của đội ngũ luật sư Việt Nam, hướng tới việc xây dựng một đội ngũ luật sư chuyên nghiệp thực hiện các phạm vi hành nghề tư vấn, tranh tụng và cung cấp các dịch vụ pháp lý phủ kín các mặt của đời sống xã hội và đời sống tư pháp, nên chăng cần xem xét lại và bỏ chế định bào chữa viên nhân dân là người bào chữa trong BLTTHS sửa đổi, bổ sung sắp tới. Các nhà lập pháp cần tập trung quy định có hiệu lực về hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự vào chủ thể tư pháp duy nhất có đủ phẩm chất, kỹ năng và đạo đức hành nghề là luật sư. Điều đó cũng phù hợp với xu thế phát triển khách quan của nghề luật sư và chủ trương cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. -         Quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Các điều 48,49, 50), cần quy định cụ thể về quyền của họ được giải thích quyền có luật sư ngay khi bị bắt và có quyền im lặng khi không có sự tham gia của luật sư bào chữa. -         Quyền của người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi Quyết định tạm giữ, khởi tố bị can và được ghi chép,  sao chụp tài liệu cần thiết cho việc bào chữa; xem các biên bản về hoạt động tố tụng khi có mặt của họ và xem các quyết định tố tụng có liên quan đến người mà họ bào chữa; được thông báo trước về thời gian,địa điểm lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người thân thích của họ cũng như những cơ quan tổ chức nếu không thuộc bí mật Nhà nước hoặc bí mật công tác (các điều 56, 58, 65). Vấn đề từ chối người bào chữa được quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 cần hoàn thiện thêm vì quy định như vậy còn có bất cập, không hợp lý. Việc không phân biệt quyền từ chối người bào chữa của hai nhóm đối tượng được quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 điều luật này là một sự không chặt chẽ về mặt lý luận. Đối tượng được quy định tại điểm a hoàn toàn khác với đối tượng quy định tại điểm b. Những đối tượng được quy định tại điểm a nhận thức được đúng đắn và đầy đủ hành vi từ chối người bào chữa của mình và họ biết được khả năng và hậu quả có thể xẩy ra khi họ từ chối người bào chữa. Và vì vậy để cho họ có quyền chủ quan tuyệt đối từ chối người bào chữa là hợp lý. Còn những đối tượng được quy định tại điểm b là những đối tượng chưa đủ trình độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần hoặc là những người bị khiếm khuyết về thể chất hoặc khiếm khuyết về tâm thần thì liệu họ có nhận thức được đầy đủ và đúng đắn về hành vi từ chối người bào chữa của mình hay không? Với những ý kiến nói trên, tôi cho rằng cần phải sửa đổi, bổ sung đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 như sau: “Những trường hợp được quy định tại điểm a khoản 2 điều này sau khi luật sư tham gia bào chữa bị can, bị cáo vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối luật sư bào chữa. Còn đối với những trường hợp được quy định tại điểm b khoản 2 điều này thì bị can, bị cáo và đại diện hợp pháp của họ sau khi luật sư tham gia bào chữa vẫn có quyền yêu cầu thay đổi luật sư bào chữa và nếu họ từ chối luật sư thì cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản ghi rõ lý do từ chối trước khi quyết định”. Bên cạnh đó cần mở rộng phạm vi bào chữa bắt buộc đối với bị can, bị cáo bị xử lý về tội có khung hình phạt lên đến 20 năm tù. Về Điều 58 (quyền và nghĩa vụ của người bào chữa) Hiện nay Bị cáo phản cung với lý do bị bức cung, ép mớm, nhục hình… là vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt Nam , làm giảm uy tín của cơ quan điều tra, truy tố. Chủ tọa cắt không cho họ nói thì bị xem là mất dân chủ, không khách quan… Sở dĩ có tình trạng trên một phần là do Bộ luật tố tụng chưa có quy định cơ chế cứng tạo điều kiện cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra, có mặt tại các buổi hỏi cung bị can. Hầu hết quá trình điều tra luật sư chỉ được tham gia một vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác không có mặt luật sư. Về nguyên tắc, khi luật sư tham gia đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa và có văn bản đề nghị được tham gia tất cả các buổi hỏi cung và các hoạt động điều tra khác thì những hoạt động này bắt buộc phải có luật sư mới có giá trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện hành có quy định rất mâu thuẫn và tạo ra những rào cản. Ví dụ: Luật sư muốn hỏi bị can phải được điều tra viên đồng ý. Phiên tòa xét xử trẻ vị thành niên không có luật sư bào chữa thì phải hoãn, bản án tuyên trong điều kiện đó thì phải hủy, nhưng bản cung buộc tội ghi lời khai của bị can vị thành niên vắng mặt luật sư (mặc dù Điều 305 BLTTHS quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định luật sư) nhưng họ không thực hiện hoặc tìm cách bảo bị can viết đơn từ chối luật sư trong khi họ chưa hề thực hiện Điều luật là chỉ định luật sư thì bản cung lại được chấp nhận là hợp pháp, Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng vẫn có giá trị pháp lý buộc tội. Tôi nghĩ đây là lỗ hổng lớn mà lần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự tới đây phải đặc biệt quan tâm, giải quyết thấu đáo. Để khắc phục, tôi cho rằng luật cần chi tiết theo hướng ngoài điểm điều luật đã quy định điều tra viên thông báo cho luật sư thời gian, địa điểm hỏi cung bị can; cách thức trao đổi, liên hệ để thông báo với luật sư, những nguyên tắc và trách nhiệm bảo mật thông tin điều tra. Khi tham gia hỏi cung, luật sư được hỏi sau mỗi vấn đề, nội dung điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền giải thích pháp luật cho bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời vấn đề điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền phản đối câu hỏi mớm cung, bức cung của điều tra viên; xem xét và có ý kiến về nội dung biên bản hỏi cung có đúng nội dung trả lời của bị can hay không; xác định tình trạng sức khỏe và tâm thần của bị can khi hỏi cung. Điểm e khoản 2 Điều 58 cần bổ sung theo tinh thần: luật sư có quyền gặp riêng làm việc với người bị tạm giữ,bị can, bị cáo khi cần thiết. trong trường hợp đặc biệt, một số tội cụ thể luật sư có quyền làm việc với bị can trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của cán bộ tố tụng.  Không bị hạn chế về số lượng lần gặp và thời gian gặp chứ không phải quy định chung chung là được gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời gian được gặp. Cần bổ sung quy định lời khai của bị can trong quá trình điều tra, truy tố mà không có sự tham gia của luật sư thì không được công nhận là chứng cứ. Sự bổ sung này hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay của nước ta. Ở những nước có nền dân chủ tư pháp phát triển, bị can, bị cáo có quyền từ chối cung khai nếu vắng mặt luật sư. Sự có mặt của luật sư trong các buổi lấy cung có 2 ý nghĩa: giám sát, không để xảy ra việc mớm cung, bức cung, nhục hình; và không để xảy ra tình trạng phản cung, bác lời khai tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát bởi việc lấy cung đã có người thứ ba chứng kiến. Để quy định về nghĩa vụ của người bào chữa hoàn chỉnh hơn, tôi cho rằng cần bổ sung vào khoản 4 của Điều 58 cụm từ “nếu tiết lộ bí mật điều tra và” vào sau cụm từ “người bào chữa” nhằm đảm bảo cho việc giữ bí mật điều tra mà người bào chữa biết được khi tham gia tố tụng. Điều này dẫn tới tính khả thi của sự cho phép người bào chữa tham gia sớm hơn trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Nếu vẫn quy định chung chung là không được tiết lộ bí mật điều tra mà không kèm theo quy định khả năng áp dụng chế tài nếu có sự vi phạm thì cơ quan điều tra e ngại và cho việc giữ bí mật điều tra là cái cớ để không tạo điều kiện luật sư tham gia làm cho quy định đó thiếu tính khả thi. Luật không qui định cụ thể cơ quan tố tụng phải chịu chế tài thế nào nếu không tạo điều kiện cho luật sư hành nghề nên nhiều quyền của người bào chữa không được thực hiện và hầu như bị vi phạm. Luật cần quy định các chế tài cụ thể đối với các hành vi cản trở của ĐTV cũng như CQ ĐT đối với sự tham gia của luật sư. 2.       Một vài nhận xét Sẽ là không quá nếu nói rằng những điều luật “chết” trong BLTTHS hiện hành về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa sẽ được làm sống lại với những sửa đổi bổ sung cụ thể hơn đo là thêm nôi dung ghi nhận tính pháp lý từ khi người bào chữa tham gia tố tụng với đầy đủ các thủ tục giấy tờ theo quy định tại Điều 27 Luật Luật sư thì việc hỏi cung bị can chỉ có giá trị pháp lý khi có luật sư tham dự. Những hoạt động tố tụng khác cơ quan Tiến hành tố tụng không được từ chối sự tham gia của lật sư khi luật sư có yêu cầu được tham gia. Như vậy NBC sẽ có “đất” ngay trong Luật để thực hiện quyền và nghĩa vụ cao cả của mình là bảo vệ pháp chế và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, một sự sửa đổi, bổ sung ” cơ bản và toàn diện ” những quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa như phạm vi, mục đích, yêu cầu của người tham gia tố tụng là luật sư chúng ta dều xuất phát từ thực tiễn tố tụng nên cần phải góp ý, phân tích một cách khoa họ, đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn để chứng minh rằng người bào chữa có vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự, họ là một mắt xích quan trọng trong cơ chế giám sát hoạt động tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, là người giúp cho chế độ dân chủ trong một xã hội văn minh, tiến bộ được thực thi, giúp cho quyền con người được tôn trọng, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền của chúng ta. Điều này là khẳng định thống nhất ý kiến, quan điểm của giới luật sư nói chung và đường lối thống nhất xuyên suốt trong nội dung cải cách tư pháp mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra. Nếu thực tế chúng ta chưa thấy hết được vai trò quan trọng của luật sư là tranh tụng để đảm bảo quyền cơ bản của bị can, bị cáo nhằm tránh oan sai và hạn chế vi phạm trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng thì nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế và xây dựng thành công nhà nước pháp quyền của giới luật sư chúng ta sẽ không thể hoàn thành. Tuy nhiên còn có nhiều ý kiến cho rằng, việc mở rộng các quyền của người bào chữa sẽ gây nhiều “khó khăn” cho các cơ quan tiến hành tố tụng? Theo quan điểm của chúng tôi, điều đó chỉ đúng một phần nhỏ khi ở phương diện là người tiến hành tố tụng năng lực và trình độ còn hạn chế ở mấy năm trước khi sửa đổi BLTTHS năm 2003. Nay để đáp ứng yêu cầu cải cách đồng bộ hệ thống các cơ quan tư pháp thì đội ngũ cán bộ tư pháp đã được tăng cường về năng lực chuyên môn và nhận thức nghề nghiệp để đáp ứng xu thế hội nhập của đất nước. Đến nay phải nói rằng vấn đề này không còn là hạn chế không thể khắc phục mà chúng ta phải coi đó là những “khó khăn cần thiết” để bảo đảm một nền tư pháp trong sạch, góp phần chống oan sai trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, và chính ý nghĩa và mục đích lớn lao đó thì chúng tôi cho rằng từ việc mở rộng  quyền của người bào chữa ở lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 thì nay cần quy định thêm cơ chế đảm bảo quyền ngay trong luật bằng cách quy định sự tham gia của luật sư là bắt buộc. Quy định này sẽ khắc phục sự phân biệt và hướng dẫn không bình đẳng của mỗi cơ quan THTT về việc đảm bảo quyền của luật sư  trong trường hợp luật sư mời khác luật sư chỉ định. Cần phải nhìn nhận một thực tế tích cực là có sự tham gia của luật sư trong các hoạt động tố tụng thì người THTT phải thận trọng và kỹ càng hơn trong mọi hoạt động của mình. Mặt khác, luật sư là người hiểu luật, thông thạo về tố tụng nên sẽ là nhà “tư vấn” quan trọng cho cơ quan và người THTT mỗi khi họ “làm theo thói quen” hoặc do quá bận mà “lỡ quên” quy định của BLTTHS mà không thực hiện đúng trình tự bắt buộc của quy trình tố tụng. Như vậy, sự sửa đổi , bổ sung theo hướng phân tích trên sẽ là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đồng thời đảm bảo quyền của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS hiện hành vẫn còn hạn chế quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Quy định của luật hiện hành cho phép luật sư chỉ thu thập chứng cứ từ người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người thân thích của họ; từ cơ quan, tổ chức nếu không thuộc bí mật quốc gia, bí mật công tác. Nhưng thực tế chứng cứ không chỉ tồn tại ở những người và các cơ quan, tổ chức nêu trên mà còn tồn tại ở những người khác có lưu giữ hoặc biết về những tình tiết liên quan có lợi cho họ. Bộ luật quy định người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi những người này là quy định quyền nhưng không đảm bảo quyền cho luật sư. Vì vậy cần quy định luật sư tham gia hỏi cung được hỏi bị can và những người khác (nếu là đối chất) sau khi cán bộ điều tra đã hết câu hỏi như trình tự hỏi tại phiên tòa là phù hợp. Thực tế hiện nay Điều 58 BL TTHS hiện hành đã quy định quyền của người bào chữa có quyền có mặt trong các hoạt động điều tra khác ” quyền có mặt..” này của người bào chữa chỉ là người “chứng kiến” nhưng cũng không được đảm bảo. Vậy tại sao sự “chứng kiến” của luật sư lại khó khăn như vậy trong khi luật sư để sẵn sàng tham gia. Rõ ràng khi quy định cho luật sư quyền này nhà làm luật phải xuất phát từ nguyên tắc chung là đảm bảo quyền của bị can trong mọi hoạt động và mọi giai đoạn tố tụng họ đều có quyền có luật sư. Đồng thời sự có mặt của luật sư nhằm đảm bảo hạn chế sự vi phạm tố tụng của cơ quan THTT dù ở bất cứ giai đoạn nào. Bộ luật TTHS 2003 đã mở rộng quyền của người bào chữa nhưng những quy định đảm bảo cho các quyền ấy được thực hiện trên thực tế vẫn chỉ là lý thuyết. Điều 62 quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng và cả Chương XXXV quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự chủ yếu vẫn chỉ là những quy định về thủ tục, chưa có những chế tài cụ thể xử lý những người tiến hành tố tụng cố ý không thực hiện các yêu cầu, kiến nghị hợp pháp đó của người bào chữa. Những quy định chế tài này không chỉ chỉ là những “quy định ngành” chỉ những người tiến hành tố tụng biết mà cần phải được quy định cụ thể trong BLTTHS để những người tham gia tố tụng cũng biết và thực hiện vai trò giám sát của mình một cách hiệu quả hơn. Chúng ta đã có Nghị Quyết số 388 và nay đã được cụ thể hóa vấn đề bồi thường oan sai vào Luật bồi thường nhà nước. Vậy những vấn đề do cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực thi đầy đủ trách nhiệm của mình dẫn đến hồ sơ phải trả đi trả lại, phiên tòa hoãn, hủy kéo dài gây tốn kém, thiệt hại đến tài sản của nhà nước, quyền lợi của bị can và luật sư thì trách nhiệm thế nào? Tóm lại, với những nội dung nêu trên mới chỉ là một phần nhỏ những bất cập trong thực tiễn áp dụng BL TTHS trong 5 năm qua liên quan đến quyền của luật sư và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Chúng tôi mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự của Việt Nam trong thời gian tới, đảm bảo nền tư pháp Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xin cám ơn quý vị đã chú ý lắng nghe

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự.doc
Tài liệu liên quan