MỤC LỤC
I. Khái niệm rủi ro tỷ giá Trang 3
II. Biểu hiện của rủi ro tỷ giá Trang 3
III. Nguyên nhân rủi ro tỷ giá Trang 5
1. Nguyên nhân chủ yếu Trang 6
2. Nguyên nhân do kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn Trang 7
3. Các quy định pháp lí về cách xác định trạng thái ngoại hối
chưa hoàn thiện gây rủi ro tỷ giá Trang 8
4. Cơ chế tỷ giá hiện nay chưa phản ánh được quy luật cung cầu
trên thị trường Trang 8
5. Nguyên nhân chủ quan Trang 9
6. Nguyên nhân khách quan Trang 9
7. Nguyên nhân của ví dụ trên Trang 9
IV.Một số giải pháp hạn chế rủi ro ở các ngân hàng thương mại Trang 10
1. Giải pháp công nghệ Trang 10
2. Giải pháp về tổ chức và nhân sự Trang 10
3. Sử dụng các phương pháp dự báo tỷ giá Trang 11
4. Lựa chọn ngoại tệ thanh toán Trang 12
5. Sử dụng quỷ dự phòng rủi ro tỷ giá Trang 12
6. Sử dụng thị trường tiền tệ Trang 12
7. Giải pháp về kỷ thuật kinh doanh Trang 13
8. Giải pháp cho ví dụ trên Trang 16
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8721 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Rủi ro tỷ giá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiệt hại).
Ví dụ minh hoạ :
Vietcombank là định chế tài chính hàng đầu có uy tín nhất Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối.
Ngày 30/12/2010 ngân hàng Vietcombank đã nhận gửi của khách hàng A khoản tiền 50.000 USD kỳ hạn 6 tháng đồng thời cho khách hàng vay 70.000 USD cùng kỳ hạn. Ngoài ra ,doanh số mua bán ngoại tệ của ngân hàng Vietcombank là: mua vào từ khách hàng C 135.000 USD và bán ra cho khách hàng D 900.000 USD kỳ hạn 6 tháng.Tình hình thị trường tiền tệ trong năm 2010 có một số thông tin như sau(số liệu của ngày 30/12/2010 của ngân hàng VCB):
Đơn vị %/năm
Tỷ giá
Mua
Bán
Lãi suất (kỳ hạn 6 tháng )
Gửi
Vay
USD/VND
19495
19500
VND
11
11,5
GBP/USD
1,6299
1,6663
USD
1,2
5
Lưu ý tất cả các giao dịch ngoại tệ của Vietcombank đều bằng USD và có cùng thời hạn 6 tháng. Trước tiên chúng ta xác định trạng thái ròng giao dịch ngoại tệ cùng kỳ hạn của Vietcombank như sau:
Nhận gửi của khách hàngA 50.000USD kỳ hạn 6 tháng. Như vậy Vietcombank có khoản phải trả cho khách hàng 6 tháng nữa đến hạn cả gốc và lãi:
50000.(1+0,012 x 6/12) = 50300 USD.
Cho vay khách hàngB 70.000USD kỳ hạn 6 tháng. Như vậy Vietcombank có khoản phải thu từ khách hàng 6 tháng nữa đến hạn cả gốc và lãi:
70000.(1+0,05 x 6/12) = 71750 tỷ USD.
Mua của khách hàng C kỳ hạn 6 tháng : 135000 USD
Bán của khách hàng D kỳ hạn 6 tháng : 900000 USD
Trạng thái ròng ngoại tệ giao dịch cùng kỳ hạn tính theo công thức:
NEUSD = (AUSD – LUSD) + (CLUSD – CSUSD)=(71750– 50300)+(135000 – 900000)=-743550 USD < 0. Như vậy Vietcombank có trạng thái ròng giao dịch ngoại tệ kỳ hạn 6 tháng âm 743550 USD. Với trạng thái âm này, nếu USD lên giá Vietcombank bị tổn thất giao dịch, ngân hàng sẽ rơi vào trạng thái ngoại tệ đoản
III_Nguyên nhân của rủi ro tỷ giá:
- Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tỷ giá đối với các NHTMNN.
Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên qua các năm theo chiều hướng đồng Việt Nam có giá trị sụt giảm so với các đồng tiền nước ngoài.
Qua theo dõi cho thấy: Trong suốt một quãng thời gian khá dài, tỷ giá VND/USD chỉ biến động tăng một chiều với một biên độ hẹp, thêm vào đó thị trường ngoại hối Việt Nam luôn rơi vào tình trạng khan hiếm ngoại tệ.Các doanh nghiệp nhập khẩu chỉ muốn tìm mọi cách kí hợp đồng kì hạn mua ngoại tệ để đảm bảo thanh toán hợp đồng xuất nhập khẩu.
Sự biến động tỷ giá trong giai đoạn 2000-2004 được thể hiện qua bảng sau:Ta thấy mức dao động năm 2000 biến động + 490 đồng (3,5%),
năm 2001 biến động + 550 đồng (3,8%),
năm 2002 biến động +321 đồng (2,13%),
năm 2003 biến động +265 đồng (1,72%),
năm 2004 là năm Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá biến động liên tục nhằm hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của các NH nhưng mức độ biến động cũng không vượt quá 140 đồng (+ 0,89%).
Như vậy, tỷ giá VND/USD có biến động nhưng không nhiều trong giai đoạn 2000-2004 và mức biến động cao nhất đạt ở mức 3,8%.
1. Nguyên nhân chủ yếu do cán cân vốn thặng dư, lượng kiều hối khá dồi dào hơn nữa do USD mất giá so với EURO và một số đồng tiền khác, lãi suất USD vẫn duy trì ở mức thấp đáng kể so với lãi suất VND dẫn đến nhu cầu USD không tăng.
- Những biến động này đã gây rủi ro cho các NHTMVN. Rủi ro ở đây phụ thuộc vào trạng thái ngoại tệ mà NH đang duy trì. Rủi ro tỷ giá là rủi ro tiềm tàng đối với các NHTMVN. Rủi ro này thể hiện qua:
- Trong hai năm 2003, 2004, 4 NHTM Nhà nước hàng đầu đều có trạng thái ngoại hối mở tuy nhiên về cơ bản vẫn nằm trong giới hạn quy định của NHNN (không vượt quá 30% vốn tự có). Tuy nhiên, vị thế của các NH không hề giống nhau, một số NH có vị thế trường về ngoại tệ và một số NH có vị thế đoản về ngoại tệ. Điều đó có nghĩa là dù tỷ giá có biến động theo chiều hướng nào đều gây bất lợi cho các ngân hàng. Nếu tỷ giá tăng thì những NH có vị thế đoản ngoại tệ bị thiệt hại và ngược lại nếu tỷ giá giảm thì những NH có vị thế trường về ngoại tệ sẽ bị thiệt hại.
- Hầu như doanh số mua vào thấp hơn doanh số bán ra cũng do các NHTM thường duy trì trạng thái ngoại tệ tạm thời là đoản, do đó, phải đối mặt với rủi ro khi tỷ giá tăng. Điều này cũng cho thấy thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển theo hướng một chiều, luôn ở tình trạng cầu lớn hơn cung.
Thực tế Việt Nam cho thấy sự thay đổi mặt bằng lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ giá giữa VND và USD. Từ năm 2000 trở đi, đồng USD liên tục tăng giá so với VND, điều này thúc đẩy tâm lý muốn găm giữ ngoại tệ, các NHTM sẽ có nhận định là duy trì trạng thái ngoại hối trường ròng sẽ có lợi. Tuy nhiên do chênh lệch lãi suất VND và USD quá lớn dẫn đến người nắm giữ USD lại có thu nhập thấp hơn người nắm giữ VND. Điều đó có nghĩa là nếu ngân hàng huy động USD với lãi suất thấp và bán ngoại tệ trên thị trường để cho vay với lãi suất cao, duy trì vị thế đoản ngoại tệ không những bị thiệt hại mà còn có lợi mặc dù USD có tăng giá. 2. Nguyên gây do kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn:
- Kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn để vận hành giao dịch và đo lường rủi ro quá yếu kém, kĩ năng xử lí dữ liệu bằng điện toán chưa cao, chưa có những bộ phận nghiên cứu dự đoán sự thay đổi tỷ giá trên thị trường.
Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các NHTMVN chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích thanh toán, cho vay ngoại tệ mà quên đi yếu tố bảo hiểm tỷ giá nên trong kinh doanh tiền tệ NH đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn là nhà tạo lập thị trường. Cũng chính vì tư tưởng trên nên NH rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc biệt là rất yếu về phân tích kĩ thuật. Hầu như rất ít NH sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm cho phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít NH mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu các NH chỉ kinh doanh cho khách hàng. Thật sự thì cho dù NH kinh doanh với NH hay kinh doanh đầu cơ cho chính họ thì việc phân tích tốt sự biến động tỷ giá cũng như dự báo được sự biến động tỷ giá sẽ giúp cho NH quản lý rủi ro tỷ giá một cách hiệu quả. Một điểm bất lợi của các NHTMVN so với NH ở những nước phát triển như: Singapore, Hong Kong là tại VN chưa có hệ thống EBS (Electronic Brokerage System) nên giá mà các NH được cung cấp bởi Reuters hay các hãng tin khác cũng chỉ là tỷ giá tham khảo chứ chưa phải là tỷ giá giao dịch thật sự trên thị trường. Bởi lẽ chỉ có thông qua EBS các nhân viên kinh doanh ngoại tệ (dealer) mới có thể thấy được các luồng tiền dịch chuyển trên thị trường, thứ hai, thông qua EBS các NHTMVN có thể thấy được lệnh trên thị trường bán/ mua ở mức giá nào, từ đó có thể biết được đâu là vùng cản (resistance), đâu là vùng nâng đỡ (support)và các lệnh ngăn lỗ (stop loss order –SL ODA) được đặt ở đâu. Hơn nữa, các NHTM nên đầu tư cho bộ phận phân tích và dự báo tỷ giá. Việc phân tích và dự báo tỷ giá của các NHTM cũng chỉ mới mang tính ngắn hạn và cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích cơ bản và rất ít dealer giỏi phân tích kĩ thuật, còn hầu như không ai tại VN sử dụng mô hình phân tích hồi quy để dự báo tỷ giá trong dài hạn. Thường thì các dealer tại hầu hết các NHTMVN đều giao dịch trong ngày là chính nên họ cần phải đẩy mạnh khả năng phân tích kĩ thuật để tìm ra đâu là vùng cản, vùng nâng đỡ của thị trường và phối hợp với phân tích cơ bản và phân tích thông tin trên thị trường nhằm đưa ra các quyết định chuẩn xác về mua/bán một đồng tiền nào đó vào một thời điểm nhất định.
3. Các qui định pháp lí về cách xác định trạng thái ngoại hối chưa hoàn thiện gây rủi ro tỷ giá.
Mặc dù NHNN đã thay đổi phương pháp xác định trạng thái ngoại tệ theo QĐ 1081/2002/QĐ -NHNN cho phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam, tuy nhiên, việc tính toán trạng thái ngoại tệ cuối tháng được tính trên cơ sở số dư tại thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng chỉ xét đến trạng thái ngoại tệ được hình thành do các giao dịch mua bán ngoại tệ của NH mà chưa tính đến thu và chi phí trả lãi phát sinh từ các Tài sản Có và Tài sản Nợ sinh lời. Nếu các khoản thu và chi này cộng dồn sẽ ảnh hưởng đến giá trị giữa trạng thái ngoại tệ thực tế và trạng thái ngoại tệ báo cáo gây rủi ro lớn.
4. Cơ chế tỷ giá hiện nay chưa phản ánh được quy luật cung cầu trên thị trường. Mặc dù thời gian qua NHNN đã xoá bỏ sự áp đặt chủ quan, duy ý chí trong việc thiết lập tỷ giá, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường “chợ đen” dần dần được thu hẹp. Tuy nhiên, diễn biến tỷ giá trong những năm qua còn nhiều phức tạp. Từ tháng 2/1999, tỷ giá đã được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; nhưng, trong thực tế, NHNN vẫn chưa thực hiện triệt để nguyên tắc này. Cơ chế điều hành tỷ giá còn quy định biên độ mua bán làm cho việc yết giá của các NHTM bị cứng nhắc, chưa phản ảnh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Hiện nay, có 2 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tỷ giá tại các NHTMVN.5. Nguyên nhân chủ quan: dẫn đến rủi ro tỷ giá của các NHTMVN là do trạng thái ngoại hối không cân xứng, tức là có sự chênh lệch giá trị tài sản Có và tài sản Nợ ngoại hối hoặc chênh lệch giữa doanh số mua vào và bán ra của đồng tiền nước ngoài.
Ø Trạng thái ròng ngoại tệ (i) = Trạng thái ròng nội bảng + Trạng thái ròng ngoại bảng.
Ø Trạng thái ròng nội bảng (i) = TS bằng ngoại tệ (i) – Nợ bằng ngoại tệ.
Ø Trạng thái ròng ngoại bảng (i) = doanh số ngoại tệ (i) mua vào – doanh số ngoại tệ (i) bán ra.
6. Nguyên nhân khách quan: khác là do sự biến động tỷ giá theo chiều hướng bất lợi đối với ngân hàng. Nguyên nhân của sự biến động này là : cung - cầu ngoại tệ trên thị trường, cán cân thanh toán quốc tế, chính sách thuế quan, năng suất lao động, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước, lãi suất đồng ngoại tệ và nội tệ.
7. Nguyên nhân xảy ra rủi ro ở ví dụ trên:
Do sự chênh lệch giữa giá trị tài sản Có và tài sản Nợ ngoại hối , doanh số mua và bán ngoại tệ của ngân hàng ( sự không cân xứng ngoại hối), dẫn đến khi giá của đồng ngoại tệ tăng ( giảm) giá so với bản tệ tức tỷ giá tăng ( giảm ) thì ngân hàng sẽ dễ rơi vào 1 trong 2 trạng thái biểu hiện của rủi ro tỷ giá đó chính là trạng thái đoản (trường).
IV_Một số giải pháp để hạn chế rủi ro tỷ giá ở các ngân hàng thương mại:
1. Giải pháp về công nghệ Công nghệ là chìa khoá để nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngoại tệ và hạn chế rủi ro, vì vậy:
- Cần trang bị thêm hệ thống EBS nếu được sự cho phép của NHNN để hệ thống thông tin được toàn diện hơn. Đây là hệ thống giao dịch khớp lệnh tự động cung cấp cho các nhà kinh doanh một mức tỷ giá thực đang giao dịch trên thị trường mà các nhà kinh doanh chỉ cần nạp lệnh vào hệ thống này và nếu có NH nào đó yết giá khớp với lệnh trên thì lệnh đó sẽ được thực hiện.
- Tạo lập được những nền tảng cần thiết để phát triển các dịch vụ và hoạt động giao dịch cầu nối (BTRS - Bridge Trading Room System) tận dụng dữ liệu thị trường để phục vụ cho các giao dịch KDNT hằng ngày
- Chú trọng đầu tư các trang thiết bị hiện đại cho bộ phận phân tích và dự báo.2. Giải pháp về tổ chức và nhân sự
Nên xây dựng phòng Kinh doanh ngoại tệ theo mô hình đạt tiêu chuẩn quốc tế bao gồm các bộ phận sau:
- Bộ phận kinh doanh trực tiếp: Bao gồm các nhà kinh doanh tiền tệ là những người ra các quyết định mua bán một đồng tiền nào đó. Thông thường trong bộ phận gồm hai nhóm nhân viên kinh doanh chính: các nhà kinh doanh phụ trách khách hàng (dealer) và những nhà kinh doanh ngoại hối chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi vị thế hối đoái của ngân hàng (trader).
Dealer có một số nhiệm vụ sau:
1/ Trực tiếp kinh doanh với khách hàng và yết giá khi cần thiết;
2/ Marketing cho bộ phận kinh doanh tiền tệ của ngân hàng tức là hỗ trợ cho khách hàng những thông tin cần thiết về khả năng đồng tiền đó sẽ tăng hay mất giá;
3/ Tư vấn trong giao dịch mua bán tiền tệ cho khách hàng của mình. Trader có nhiệm vụ: 1/ Trả lời các câu hỏi về yết giá của các dealer; 2/ Kinh doanh đầu cơ
bằng cách mua thấp bán cao; 3/ Theo dõi các lệnh mua bán của khách hàng. - Bộ phận kế toán điều vốn: Là bộ phận chịu trách nhiệm về việc thanh toán cho NH đối tác cho mỗi giao dịch đã được thực hiện tại bộ phận kinh doanh. Họ cũng chịu trách nhiệm về việc theo dõi hạn mức tín dụng, hạch toán các bút toán cần thiết.
- Bộ phận trung gian là bộ phận hoàn toàn chịu trách nhiệm theo dõi hạn mức tín dụng, hạn mức giao dịch, theo dõi lãi lỗ trong kinh doanh tiền tệ, chịu trách nhiệm phối hợp với hai bộ phận kiểm tra nội bộ và kiểm toán để theo dõi và quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.
+ Phân tích cơ bản (Fundamental analysis) là phương pháp phân tích tập trung vào việc nghiên cứu các lý do hoặc nguyên nhân làm cho giá tăng lên hoặc giảm xuống. Nó chú ý đến các lực lượng tác động đến cung cầu tiền tệ trên thị trường: lãi suất, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu, đầu tư…
Ý tưởng của phương pháp này là tiến đến một giá trị dự đoán về giá trị sinh lời tiềm ẩn của một thị trường để xác định xem thị trường được đánh giá cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thực. Phần khó nhất của phương pháp này là quyết định xem thông tin nào và bao nhiêu tiền đã được tính vào cơ cấu giá hiện hành.
Các lý thuyết chính của phân tích cơ bản là :Lý thuyết đồng giá sức mua (PPP), lý thuyết ngang giá lãi suất (IRP), mô hình cán cân thanh toán quốc tế, mô hình thị trường vốn,…
+ Phân tích kỹ thuật (Technical analysis) đơn giản là một phương pháp dự báo dựa vào nghiên cứu về quá khứ, tâm lý và quy luật xác suất. Phân tích kỹ thuật chủ yếu là dựa vào đồ thị tỉ giá và số lượng mua bán của quá khứ đã được tập hợp lại để dự đoán khuynh hướng của tỉ giá trong tương lai. Phân tích kỹ thuật có tính linh hoạt, dễ sử dụng và nhanh chóng, những nhà kinh doanh ngắn hạn, trung hạn, dài hạn được tự do chọn lựa.
Điều lưu ý là phân tích kỹ thuật có thể là công cụ giúp ta dự báo xu hướng đúng, nhưng nó phải được sử dụng theo nguyên tắc đã được tính toán chứ không phải theo cảm tính. Thời gian lập biểu đồ phân tích là do mỗi nhà kinh doanh lựa chọn có thể sử dụng phân tích kỹ thuật trong ngày (các dạng 5 phút, 30 phút hay mỗi giờ), trong tuần hoặc trong tháng. Các lý thuyết chính của phân tích kỹ thuật là: lý thuyết Dow, lý thuyết Fibonacci, lý thuyết Elliott Wave… Trong phân tích kỹ thuật có các giả định: thị trường phản ứng trước mọi sự kiện xảy ra, giá cả biến động theo một khuynh hướng nhất định, sự biến động giá cả thường lập lại theo chu kỳ và có sự lập lại của giá cả trong quá khứ vào tương lai. Như vậy mỗi loại hình phân tích có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Vì vậy nhà kinh doanh phải linh hoạt sử dụng các công cụ này cộng với quyết định trực quan của mình để ra quyết định nhanh chóng và chính xác.
4. Lựa chọn ngoại tệ thanh toán
Sự biến động tỷ giá của từng loại ngoại tệ khác nhau, phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi quốc gia. Như vậy mức độ rủi ro tỷ giá phát sinh với mỗi loại ngoại tệ cũng không giống nhau. Việc lựa chọn loại ngoại tệ có giá trị tương đối ổn định sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu tác động của biến thiên tỷ giá.
Theo dự báo của các chuyên gia tiền tệ, xu hướng đồng đôla giảm giá so với các ngoại tệ mạnh khác, trong đó có euro sẽ còn kéo dài ít nhất là đến hết năm nay. Bởi trên thực tế, Mỹ vẫn đang lún sâu vào tình trạng thâm hụt kép (thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai). Để cải thiện tình hình này, Washington sẽ phải duy trì đồng đôla yếu trong một thời gian nữa.
5. Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tỷ giá
Theo phương pháp này, khi nào kiếm được phần lợi nhuận dôi thêm do biến động tỷ giá thuận lợi ngân hàng sẽ trích phần lợi nhuận này lập ra quỹ dự phòng bù đắp rủi ro tỷ giá. Khi nào tỷ giá biến động bất lợi khiến ngân hàng bị tổn thất, thì sử dụng quỹ này để bù đắp, trên cơ sở đó hạn chế tác động tiêu cực đến kết quả hoạt động kinh doanh. Cách này cũng khá đơn giản và chẳng tốn kém chi phí khi thực hiện. Vấn đề là thủ tục kế toán và công tác quản lý quỹ dự phòng sao cho quỹ này không bi lạm dụng vào việc khác.
6. Sử dụng thị trường tiền tệ
Sử dụng thị trường tiền tệ để tự bảo hiểm rủi ro tỷ giá là cách thức vận dụng kết hợp các giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối với các giao dịch vay và cho cho vay trên thị trường tiền tệ để cố định các khoản phải thu hoặc phải trả sao cho chúng khỏi lệ thuộc vào sự biến động tỷ giá.
Gần đây NHNN đã cho phép áp dụng một công cụ phái sinh mới Option (giao dịch quyền lựa chọn): Là giao dịch giữa bên mua quyền và bên bán quyền, trong đó bên mua quyền có quyền nhưng không có nghĩa vụ mua hoặc bán một lượng ngoại tệ xác định ở một mức tỷ giá xác định trong một khoảng thời gian thỏa thuận trước. Nếu bên mua quyền lựa chọn thực hiện quyền của mình, bên bán quyền có nghĩa vụ bán hoặc mua lượng ngoại tệ trong hợp đồng theo tỷ giá thỏa thuận trước. Loại giao dịch này tối ưu hóa việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá, đây được coi là công cụ hiệu quả nhất và được sử dụng khá phổ biến trên thế giới.
Việc sử dụng các công cụ phái sinh này ở Việt Nam hiện nay còn hạn chế do trình độ kinh doanh quốc tế, cán bộ quản trị tài chính hiện đại của doanh nghiệp trong nước, nhất là khu vực vừa và nhỏ còn yếu kém. Và bản thân các nhà cung cấp (ngân hàng) còn chưa tìm được cách thức giúp khách hàng tiếp cận nhanh chóng những nghiệp vụ này.
7. Giải pháp về kỹ thuật kinh doanh
- Duy trì sự cân xứng về trạng thái ngoại hối giữa tài sản Có và tài sản NợThứ nhất, đối với các khoản cho vay bằng ngoại tệ NH nên sử dụng một nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ tương ứng. Khi số dư tiền gửi ngoại tệ tại NHTM tăng lên do khách hàng gửi nhiều ngoại tệ vào NH, NH chủ động tìm kiếm khách hàng có nhu cầu vay ngoại tệ, mở rộng cho vay ngoại tệ hoặc mua các giấy tờ có giá phát hành bằng ngoại tệ tương ứng với phần tiền gửi ngoại tệ tăng thêm tại NH. Ngược lại, khi khách hàng rút tiền gửi bằng ngoại tệ ra nhiều làm giảm số dư tiền gửi ngoại tệ, NH nên hạn chế cho vay, tích cực thu hồi các khoản vay quá hạn.
Thứ hai, NH nên tham gia các giao dịch về ngoại tệ sao cho tổng các giá trị hợp đồng mua vào một ngoại tệ nào đó bằng tổng giá trị các hợp đồng bán ra của ngoại tệ đó. Tuy nhiên, việc duy trì sự cân xứng các khoản mục trong Bảng cân đối tài sản một cách tuyệt đối là hết sức khó khăn và các NHTM không thể chủ động được vì điều này phụ thuộc vào nhu cầu vay, gửi của khách hàng.
Thứ ba, NH không nên duy trì trạng thái mở của một đồng tiền ở mức độ lớn để tránh những tổn thất lớn khi tỷ giá biến động. Bởi lẽ, theo QĐ 1081/2002/QĐ-NHNN, tổng trạng thái ngoại hối mở ở mức 30% vốn tự có của NH, trong đó không phân biệt đồng USD (trước đây quy định đồng USD không vượt +/-15% VTC). Thực ra việc quy định cũng xuất phát từ thực tế giao dịch trong NH xuất phát từ đồng USD nhiều, giải quyết được nhu cầu căng thẳng trong NH. Tuy nhiên, đứng ở góc độ quản lý rủi ro không nên lạm dụng điều này quá sẽ gây rủi ro tỷ giá.
- Xây dựng tỉ giá các loại ngoại tệ so với VND một cách linh hoạt, đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh và lợi nhuận, tăng trưởng nguồn vốn và có ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của khách hàng.
- Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Đa dạng hoá lại là một kiểu chiến lược kinh doanh khác bằng cách giữ nhiều tài sản mang tính rủi ro thay vì tập trung vào một hay một vài loại tài sản nhất định. Lựa chọn danh mục đầu tư bên cạnh việc tính toán mức lợi nhuận cao nhất phải tính toán đến tổng mức rủi ro của danh mục. Chiến lược này cần phải được thiết kế và chú trọng vào 3 phương diện: Loại hình nghiệp vụ; Loại ngoại tệ, Thị trường và các giải pháp tương ứng sau:
+ Giải pháp thứ nhất là phải đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh. ở nước ta hiện nay, đồng tiền dùng trong giao dịch ngoại thương chủ yếu là USD, do vậy trong hoạt động của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như của các NH đều lựa chọn đồng tiền này. Trong điều kiện đa phương hóa và đa dạng hóa các mặt hoạt động kinh tế đối ngoại, các đồng tiền của các quốc gia khác như GBP, JPY, EUR, AUD... ngày càng được sử dụng nhiều trong thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại tệ ở các nước thì việc sử dụng chủ yếu một loại ngoại tệ như hiện nay đã ảnh hưởng đến sự mở rộng giao lưu kinh tế hàng hoá với nhiều nước trên thế giới. Do vậy, khi tỷ giá của USD thay đổi thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ bị ảnh hưởng nặng nề, hiệu quả kinh doanh ngoại tệ hầu như bị phụ thuộc vào sự tăng, giảm của tỷ giá. Hơn nữa, việc kinh doanh nhiều loại ngoại tệ khác ngoài USD cũng là một phương pháp tăng lợi nhuận trong kinh doanh ngoại tệ do chênh lệch giữa giá bán ra, mua vào các loại ngoại tệ này lớn hơn nhiều so với USD. + Giải pháp thứ hai là đa dạng hoá loại hình nghiệp vụ kinh doanh. Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM chủ yếu mới thực hiện nghiệp vụ giao ngay, còn các nghiệp vụ khác như mua bán có kỳ hạn, Swap quyền chọn thì mới được triển khai với số lượng khiêm tốn và chỉ giới hạn ở một số NH. Vì vậy, hoạt động kinh doanh ngoại tệ mang tính đơn giản, chưa có sự kết hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ và hoạt động dự trữ, đầu cơ còn dừng ở mức độ nhất định. Căn cứ vào tình hình thực tế thực hiện các loại hình kinh doanh ngoại tệ hiện nay, trước mắt, các NHTMVN nên đẩy nhanh việc kí thoả thuận ISDA với các đối tác nước ngoài để thực hiện các giao dịch Option trên thị trường quốc tế. Xúc tiến việc thực hiện nghiệp vụ Option ở trong nước và xây dựng mối quan hệ về mặt nghiệp vụ chặt chẽ với nước ngoài là một việc làm hết sức cần thiết mang tính chất quyết định để thực hiện thành công và phát triển nghiệp vụ này. Sau khi kí thoả ước ISDA thì các NHTMVN nên thực hiện ngay nghiệp vụ Swap lãi suất cho các khoản tiền lớn để phòng ngừa rủi ro (ví dụ khoản vay 275 triệu USD thời hạn 10 năm của Bộ Tài chính) bởi vì với xu hướng biến động lãi suất như hiện nay nếu không triển khai ngay nghiệp vụ này thì các NH có khả năng đối mặt với rủi ro rất lớn về lãi suất, nếu lãi suất quốc tế tăng mỗi năm 1% thì NHTMVN sẽ mất 2,75 triệu USD mỗi năm và ngược lại nếu lãi suất trên thị trường quốc tế giảm thì sẽ được hưởng lợi một khoản tương ứng. Ngoài ra, để góp phần thêm phong phú các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng trong và ngoài nước tốt hơn thì bên cạnh việc phát triển các nghiệp vụ bán kì hạn, các NHTMVN cũng nên tăng cường thêm cả nghiệp vụ mua kì hạn. Đa dạng hoá các loại hình giao dịch trên thị trường sẽ tạo ra các công cụ phòng ngừa rủi ro trước những biến động của tỷ giá và lãi suất trên thị trường trong tương lai giúp cho các nhà xuất nhập khẩu, các đơn vị kinh tế chủ động trong kinh doanh, thúc đẩy và phát triển các giao dịch hối đoái để góp phần hoàn thiện thị trường hối đoái Việt Nam. + Giải pháp thứ ba là phải có định hướng, kế hoạch để tiến hành mở rộng mạng lưới hoạt động của mình trên cả thị trường trong và ngoài nước. Trước hết, đối với thị trường trong nước, việc mở rộng mạng lưới giao dịch nên tập trung vào các vùng có tiềm năng phát triển kinh tế, có hiệu quả đầu tư cao, đặc biệt có hoạt động xuất nhập khẩu, vì đó là nơi có nhu cầu cao về sử dụng các dịch vụ NH. Càng nhiều chủ thể kinh doanh xuất nhập khẩu, qui mô kinh doanh của NH càng lớn, nhu cầu về vốn và chuyển đổi ngoại tệ càng nhiều, đồng thời sự tích luỹ vốn tiền gửi cho NH càng lớn. Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế, cần nhanh chóng nghiên cứu các thị trường khu vực, nâng cấp và mở rộng các văn phòng đại diện, công ty tài chính đồng thời triển khai thành lập mới các chi nhánh và văn phòng đại diện tại Châu á, Châu Âu, Châu Mỹ. Mở rộng thị trường sẽ giúp các NHTMVN đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh của mình, có điều kiện học hỏi thêm để chuẩn hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ, mặt khác sẽ góp phần tăng thêm doanh số và lợi nhuận từng bước phát triển và hội nhập với các NH quốc tế.
8. Giải pháp cho ví dụ trên:
-Ngân hàng nên kinh doanh nhiều loại ngoại tệ khác ngoài USD cũng là một phương pháp tăng lợi nhuận trong kinh doanh ngoại tệ do chênh lệch giữa giá bán ra, mua vào các loại ngoại tệ này lớn hơn nhiều so với USD.
-Ngân hàng cần đáp ứng nhu cầu khách hàng trong và ngoài nước tốt hơn, phát triển các nghiệp vụ bán kì hạn, các NHTMVN cũng nên tăng cường thêm cả nghiệp vụ mua kì hạn.
- Duy trì sự cân xứng về trạng thái ngoại hối giữa tài sản Có và tài sản Nợ
Thứ nhất, đối với các khoản cho vay bằng ngoại tệ NH nên sử dụng một nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ tương ứng. Khi số dư tiền gửi ngoại tệ tại NHTM tăng lên do khách hàng gửi nhiều ngoại tệ vào NH, NH chủ động tìm kiếm khách hàng có nhu cầu vay ngoại tệ, mở rộng cho vay ngoại tệ hoặc mua các giấy tờ có giá phát hành bằng ngoại tệ tương ứng với phần tiền gửi ngoại tệ tăng thêm tại NH. Ngược lại, khi khách hàng rút tiền gửi bằng ngoại tệ ra nhiều làm giảm số dư tiền gửi ngoại tệ, NH nên hạn chế cho vay, tích cực thu hồi các khoản vay quá hạn.
Thứ hai, NH nên tham gia các giao dịch về ngoại tệ sao cho tổng các giá trị hợp đồng mua vào một ngoại tệ nào đó bằng tổng giá trị các hợp đồng bán ra của ngoại tệ đó. Tuy nhiên, việc duy trì sự cân xứng các khoản mục trong Bảng cân đối tài sản một cách tuyệt đối là hết sức khó khăn và các NHTM không thể chủ động được vì điều này phụ thuộc vào nhu cầu vay, gửi của khách hàng.
Thứ ba, NH không nên duy trì trạng thái mở củ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Rủi ro tỷ giá.doc