Tiểu luận Rủi ro và tính thanh khoản trong lý thuyết lượng cầu tiền tệ

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: RỦI RO 6

1.1.Định nghĩa 6

1.1.1 Các khái niệm rủi ro theo nghĩa thông thường: 6

1.1.2. Tài sản rủi ro và tài sản phi rủi ro: 7

1.1.3.Hai đặc trưng của rủi ro: 7

1.1.4. Một số thuật ngữ khác liên quan đến rủi ro: 9

1.2. Phân loại rủi ro: 12

1.3. Những phương pháp đo lường rủi ro (định lượng rủi ro): 13

1.4. Sự kết hợp cân nhắc giữa suất sinh lời và rủi ro: 18

1.5. Tóm lược các rủi ro đặc trưng của bốn lĩnh vực đầu tư chính tại Việt Nam và hướng hạn chế rủi ro: 19

1.5.1 Tóm lược các rủi ro đặc trưng của bốn lĩnh vực đầu tư chính tại Việt Nam 19

CHƯƠNG 2: THANH KHOẢN 26

2.1. Một số khái niệm và vai trò của tính thanh khoản 26

2.1.1. Một số khái niệm về thanh khoản 26

2.1.2 Các vụ khủng hoảng tính thanh khoản nổi tiếng trong lịch sử 29

2.2. Tính thanh khoản của một số loại tài sản, công cụ 30

2.2.1. Tính thanh khoản của vàng 30

2.2.2 Tính thanh khoản của thị trường ngoại hối 31

2.2.3. Tính thanh khoản của chứng khoán 32

2.2.4. Tính thanh khoản của bất động sản 36

2.2.5. Tính thanh khoản của 1 số công cụ trên thị trường tiền tệ 37

2.5.1. Tính thanh khoản của tín phiếu kho bạc 38

2.5.2. Tính thanh khoản của chứng chỉ tiền gửi (CD) 39

2.5.3. Tính thanh khoản của thương phiếu 39

2.5.4.Tính thanh khoản của chấp phiếu 40

2.5.5. Tính thanh khoản của Eurodolla 40

Chương 3: Lý thuyết lượng cầu tài sản 40

3.1. Lý thuyết lượng cầu tài sản với yếu tố rủi ro 40

3.1.1. Lý thuyết 40

3.1.2. Các ví dụ 41

3.2. Lý thuyết lượng cầu tài sản với tính thanh khoản 42

3.2.1. Lý thuyết 42

3.2.2. Các ví dụ 42

3.3. Lý thuyết lượng cầu tài sản với các yếu tố khác 43

3.3.1. Thông tin: 43

3.3.2. Dự tính 43

3.3.3. Sự biến động tương quan so sánh giữa các thị trường 44

 

 

doc48 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4029 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Rủi ro và tính thanh khoản trong lý thuyết lượng cầu tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sánh danh mục A (nằm trên đường biên hiệu quả) và danh mục C (không nằm trên đường biên hiệu quả), Chúng ta có thể nói rằng danh mục A trong hình tốt hơn danh mục C bởi vì danh mục A có tỷ suất sinh lợi bằng với danh mục C nhưng lại có rủi ro ít hơn. Tương tự, danh muc B chiếm ưu thế hơn danh mục C bởi vì nó có rủi ro bằng nhau nhưng lại có tỷ suất sinh lợi cao hơn. Hình biểu diễn đường biên hiệu quả đã minh họa hai nguyên tắc rất quan trọng trong đầu tư tài chính: - Rủi ro tỷ lệ thuận với suất sinh lời: rủi ro cao thì suất sinh lời cao và ngược lại. -Với cùng một suất sinh lợi, người ta ưa thích tài sản nào có tính rủi ro thấp hơn. Tương tự, với cùng một mức độ rủi ro, người ta ưa thích những tài sản có suất sinh lợi cao hơn. 1.6. Tóm lược các rủi ro đặc trưng của bốn lĩnh vực đầu tư chính tại Việt Nam và hướng hạn chế rủi ro 1.6.1. Tóm lược các rủi ro đặc trưng của bốn lĩnh vực đầu tư chính tại Việt Nam Đầu tư vàng: Rủi ro mà nhà đầu tư trên sàn vàng ở Việt Nam thường xuyên phải đương đầu chủ yếu gồm ba loại: Rủi ro đến từ biến động giá vàng thế giới. Do chịu tác động cùng lúc từ rất nhiều yếu tố như tình hình kinh tế, chính trị thế giới, thị trường chứng khoán, tỷ giá đồng USD, giá dầu, tình hình cung cầu, thậm chí cả hoạt động thao túng thị trường vàng quốc tế của những quỹ đầu tư lớn mà những yếu tố này cũng thường xuyên có những diễn biến bất ngờ, nên dự báo giá vàng gặp phải nhiều khó khăn. Phiên giao dịch ngày 18/3/2009 tại thị trường New York là một bằng chứng rõ ràng cho thấy tính biến động khó lường của thị trường vàng thế giới. Ở nửa đầu của phiên giao dịch, giá vàng tiếp tục giảm sâu, kéo dài đà giảm sẵn có của hai phiên trước, khiến không ít nhà đầu tư tin chắc thị trường vàng có thể lặp lại chuỗi ngày giảm giá lên tới 8 phiên liên tục. Nhưng ngay sau đó, từ mức đáy 882,8 USD/oz, giá vàng lại tăng vọt lên 950,6 USD/oz. Rủi ro từ giá vàng trong nước. Giữa giá vàng trong nước và thế giới nhiều khi có những biến động “lệch pha”, khiến các nhà đầu tư không thể chỉ tham khảo giá thế giới khi quyết định đầu tư vàng. Do khác biệt địa lý nên khi sàn vàng ở Việt Nam đóng cửa cũng là lúc sàn vàng ở Mỹ thường có những thay đổi lớn. Giá vàng thường biến động nhiều nhất vào buổi tối. Rủi ro đến từ phía các sàn giao dịch. Những sự cố như trục trặc kỹ thuật, nghẽn mạng, sập sàn… hoàn toàn có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Chỉ cần vài phút sàn vàng ngừng giao dịch, giá vàng thế giới đã có thể đổi chiều từ tăng sang giảm và ngược lại, làm mất đi cơ hội chốt lãi hoặc cắt lỗ của nhà đầu tư. Năm 2007, sự cố sập sàn đã xảy ra vài lần ở sàn vàng ACB, khiến các nhà đầu tư gặp nhiểu khó khăn. Năm 2008, sàn vàng Phương Nam thuộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Nam cũng xảy ra sự cố sập mạng. Đầu tư bất động sản: Nhà đầu tư chọn bất động sản tại Việt Nam làm kênh đầu tư sẽ phải đối mặt với những rủi ro chính sau: Rủi ro thanh khoản: khi thị trường bất động sản đóng băng, nghĩa là nhà đầu tư không tìm được người mua hoặc người muốn mua không đủ khả năng tài chính để mua, với tốc độ lạm phát cao, nhà đầu tư bất động sản sẽ bị thiệt hại so với các kênh đầu tư khác. Rủi ro liên quan đến biến động giá vàng, USD: Do đặc thù của lĩnh vực bất động sản, thời gian thanh toán của khách hàng khi mua sản phẩm thường kéo dài 2-3 năm, do vậy giá bất động sản thường được niêm yết bằng vàng hay USD. Việc vàng và USD tăng giá khiến những nhà đầu tư đang tiến hành mua bất động sản thiệt hại. Ngược lại, việc giá vàng và giá USD giảm khiến những nhà đầu tư đang cần bán bất động sản bị thiệt hại. Rủi ro liên quan đến thông tin: Tính minh bạch của thị trường bất động sản Việt Nam là rất thấp. Đội ngũ môi giới nhà đất thường cố tình tạo thông tin sai lệch nhằm can thiệp giá bất động sản một cách chủ quan, tùy tiện. Giá bất động sản qui định trong bảng giá đất được UBND cấp tỉnh, thành phố ban hành hằng năm hầu như không có ý nhĩa đáng kể trên thị trường. Sự thiếu thông tin dễ dẫn đến bất lợi cho nhà đầu tư khi mua cao hơn giá thực nhiều lần. Tình trạng “quy hoạch treo” là một nguyên nhân khiến nhà đầu tư bất động sản bị thiệt hại khi đã mua lô đất nằm trong vùng quy hoạch đang kỳ vọng tăng giá. Đầu tư ngoại tệ Việc đầu tư vào ngoại tệ ở Việt Nam có nhiều rủi ro do cung-cầu ngoại tệ phụ thuộc vào quá nhiều nguyên nhân: Giá ngoại tệ trồi sụt phụ thuộc tình hình xuất nhập khẩu của đất nước, vào chính sách can thiệp tỷ giá hối đoái của Nhà nước (vd: chính sách phá giá đồng nội tệ, chính sách neo giữ tỷ giá) Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài, việc giá ngoại tệ bị động và phụ thuộc vào đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài là điều khó tránh khỏi. Do lượng kiều hối có tỷ trọng đáng kể trong GDP quốc gia nên biến động lượng kiều hối cũng là tác nhân gây biến động giá ngoại tệ. Cung-cầu ngoại tệ dễ bị bóp méo bởi giới đầu cơ, bọn buôn ngoại tệ khiến tỷ giá hối đoái thay đổi không thể lường trước. Những nguyên nhân chính trên lại kết hợp nhằng nhịt, chồng chéo không có nguyên lý chính xác, cụ thể nào nên việc nhà đầu tư dự đoán sai biến động tỷ giá hối đoái dẫn đến thua lỗ là điều khó tránh khỏi. Đầu tư chứng khoán: Để dễ theo dõi, nhà đầu tư có thể tham khảo thứ tự sắp xếp mức độ rủi ro sau: Loại hình đầu tư có mức độ rủi ro thấp nhất là trái phiếu Chính phủ và tiền gửi tiết kiệm. Trái phiếu Chính phủ thường được coi là có mức độ rủi ro thấp nhất vì Chính phủ luôn có khả năng in tiền và thu thuế để trả nợ nhưng ngược lại lợi nhuận cũng thấp hơn. Loại hình đầu tư có mức độ rủi ro lớn hơn là trái phiếu của các công ty lớn, kinh doanh ổn định, khả năng phá sản thấp. Doanh thu của các doanh nghiệp tồn tại nhiều yếu tố rủi ro hơn nên công ty phải trả mức lãi suất cao hơn một chút so với trái phiếu Chính phủ và tiền gửi tiết kiệm. Tiếp đến là trái phiếu của các công ty nhỏ, ít tên tuổi, hoạt động không ổn định bằng những công ty lớn. Do khả năng phá sản của những công ty này cao hơn nên lãi suất trái phiếu mà công ty này trả cho nhà đầu tư phải cao hơn. Cổ phiếu nói chung có mức độ rủi ro cao hơn trái phiếu do mức độ dao động giá cổ phiếu lớn hơn trái phiếu rất nhiều. Cổ phiếu các công ty lớn có thể đem lại tiềm năng tăng trưởng giá trị cao nhưng cũng có thể sẽ không thu hồi được vốn. Cuối cùng, cổ phiếu các công ty nhỏ, ít tên tuổi có mức độ rủi ro rất cao, nhưng lại hứa hẹn tiềm năng tăng trưởng cao. Cụ thể hơn, ta hãy xem xét các rủi ro chính mà nhà đầu tư gặp phải khi đầu tư vào trái phiếu và cổ phiếu: Đầu tư trái phiếu: Rủi ro về lãi suất thị trường: khi lãi suất thị trường tăng, giá trái phiếu sẽ giảm và ngược lại. Rủi ro tín dụng: khi công ty phát hành không có khả năng chi trả mệnh giá và lãi đúng hạn thì công ty chịu rủi ro tín dụng. Rủi ro lạm phát :nếu nhà đầu tư mua một trái phiếu có lãi suất 8%/năm, nhưng tỷ lệ lạm phát là 9%/năm, thì thực tế, sức mua lưu lượng tiền mặt của trái phiếu đã giảm. Rủi ro về tỷ giá :một nhà đầu tư mua trái phiếu dựa vào đơn vị đồng bảng Anh. Nếu đồng bảng Anh mất giá so với đồng USD, thì người đầu tư sẽ nhận được ít USD hơn. Rủi ro ở đây được gọi là rủi ro về tỷ giá hay rủi ro tiền tệ. Rủi ro thanh lý: xảy ra khi không thể bán trái phiếu hay bán với giá thấp hơn mong đợi. Rủi ro do biến cố bất ngờ: đôi khi khả năng chi trả lãi và mệnh giá của nhà phát hành thay đổi lớn lao và bất ngờ bởi vì một biến cố nào đó. Đầu tư cổ phiếu: Rủi ro lãi suất Lãi suất thị trường càng tăng, giá cổ phiếu càng giảm và ngược lại. Rủi ro thanh khoản Khi nhà đầu tư cổ phiếu cần tiền mặt mà thị trường lại thiếu tính thanh khoản, sẽ khó lòng tìm được người sẵn sàng mua lại cổ phiếu, hoặc nếu tìm được thì phải bán lại với giá rẻ hơn so với giá trị thực của cổ phiếu. Rủi ro khi thị trường chứng khoán sụt giá mạnh Giá cổ phiếu trên thị trường luôn biến động và chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau từ kinh tế, chính trị, đến tâm lý v.v... Nhà đầu tư thiệt hại lớn từ rủi ro này. Rủi ro liên quan đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty niêm yết cổ phiếu. Nhà đầu tư phải chấp nhận một thực tế là khoản đầu tư của họ có thể bị mất, một phần hay thậm chí toàn bộ giá trị. Trường hợp xấu nhất xảy ra khi công ty mà họ mua cổ phần bị phá sản, tờ cổ phiếu mà họ sở hữu trở thành một tờ giấy lộn và họ không nhận lại được một xu nào cả. Rủi ro liên quan đến thông tin: Những cổ phiếu giao dịch trên thị trường OTC có mức độ rủi ro liên quan đến thông tin rất cao. Hiện tại không có kênh thông tin chính thống nào từ các doanh nghiệp chưa niêm yết đến với nhà đầu tư mà chủ yếu là trên diễn đàn. Rất ít công ty chưa niêm yết thực hiện việc công khai sớm và đầy đủ thông tin, hoạt động kinh doanh trên trang web của mình. Ngoài ra, thông tin từ những đơn vị này đưa ra không được kiểm soát chặt chẽ. Không ít công ty đã tự thổi phồng, quảng bá mình quá mức với mục đích bán cổ phần để huy động vốn. Hướng hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư: Đối với nhà đầu tư qui mô nhỏ có thể kể đến bốn nguyên tắc chính giảm thiểu rủi ro khi đầu tư: Nhà đầu tư phải tự bảo vệ mình qua việc trang bị kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, theo dõi sát sao các diễn biến trên thị trường. Một số website thông tin tài chính hàng đầu có thể tham khảo bao gồm Bloomberg, Reuters, CNBC…và các bản tin tài chính hàng ngày trên các kênh đại chúng. Hiện nay, các sàn giao dịch vàng, chứng khoán đều cung cấp cho các nhà đầu tư rất nhiều thông tin bổ trợ như các chỉ số kinh tế quan trọng sẽ công bố trong ngày, diễn biến giá dầu, tỷ giá USD,… Tuân thủ nguyên tắc “chốt lời cắt lỗ” dứt khoát, tránh dây dưa để tình hình trở nên ngoài kiểm soát. Cảnh giác, cân nhắc kĩ lưỡng, xác nhận lại tính đúng đắn của thông tin vừa tiếp nhận, tránh hội chứng “đầu tư theo đám đông”. Đa dạng hóa danh mục đầu tư.Riêng đối với nhà đầu tư vàng, cổ phiếu, bất động sản có những lưu ý riêng: Với đầu tư vàng: Tham khảo các bản tin tư vấn thị trường vàng hàng ngày của các sàn vàng lớn ACB, Eximbank,... Sàn SBJ mới thành lập nhưng đã có một cuốn cẩm nang “Đầu tư vàng” dành cho các nhà đầu tư. Theo dõi sát biến động vàng nhiều thời điểm, nhất là buổi tối khi giá vàng thế giới có nhiều biến động nhất. Hiện nay, nhiều sàn giao dịch vàng đang kéo dài thời gian giao dịch sang buổi tối, như sàn SJC-Eximbank có thời gian giao dịch kéo dài tới 20h, hoặc mở thêm phiên tối từ 18h đến 23h như sàn SBJ... Với đầu tư bất động sản: Khi mua phải tìm hiểu thấu đáo vị trí dự án, lô đất, thủ tục pháp lý, giá cả trong tương quan so sánh với các bất động sản tương đương. Mọi thủ tục, quy trình phải làm theo đúng pháp luật, không vội vàng nôn nóng mua bán trên giấy tờ bởi đây là hình thức ít có giá trị thực, gây nhiều rủi ro và thiệt thòi cho khách hàng nhiều nhất. Nếu là đất dự án thì cần phải đợi chủ đầu tư xây xong móng đàng hoàng, hoạt động ổn định thì lúc đó mới tiến hành giao dịch. Đầu tư vào đất thổ cư là an toàn nhất bởi đây là loại đất ít có rủi ro. Đối với loại đất này, người mua cần chú ý đất phải có giấy tờ thật, lô đất đàng hoàng, không nằm trong quy hoạch. Với đầu tư cổ phiếu, trái phiếu công ty: Nhà đầu tư chỉ nên đầu tư vào những doanh nghiệp mà mình thật sự hiểu, có chính sách công bố thông tin minh bạch và phải hiểu rõ về ngành nghề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Không đặt giá theo phong trào. Đến với các công ty chứng khoán nhờ tư vấn, nhà đầu tư có khả năng xác định đúng giá trị thị trường cổ phần doanh nghiệp. Khi đó, nhà đầu tư có thể quyết định việc đặt giá mua phù hợp với khả năng tài chính của mình và có thể bắt trúng được cổ phần doanh nghiệp với giá hợp lý. Mở tài khoản thặng dư. Khi thu được một khoản lợi nhuận nhất định, đưa chúng vào tài khoản thặng dư và chỉ sử dụng tài khoản này trong trường hợp khẩn cấp. CHƯƠNG 2: TÍNH THANH KHOẢN 2.1: Một số vấn đề lý luận về tính thanh khoản 2.1.1 Một số khái niệm và vai trò của tính thanh khoản Trong lĩnh vực tài chính, tính thanh khoản ( hay tính lỏng, tính lưu động) của một loại tài sản là khả năng nhanh chóng chuyển tài sản đó thành tiền mà không phải chịu chi phí cao, chi phí ở đây bao gồm cả thời gian và tiền bạc. Tức là tính thanh khoản được hiểu hiểu là mức độ mà tài sản như là chứng khoán hay vàng, bất động sản, các khoản nợ, khoản phải thu...có thể được mua bán trên thị trường mà không làm ảnh hưởng đến giá thị trường của tài sản đó, khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu. Thông thường, một tài sản có tính thanh khoản cao thường được đặc trưng bởi số lượng giao dịch lớn. Trong tất cả các tài sản thì tiền có tính thanh khoản cao nhất, luôn luôn dùng được trực tiếp để thanh toán, lưu thông, tích trữ..., tức là nó không cần qua bất kì công đoạn nào để chuyển hóa thành tiền, vì bản thân nó là tiền. Tiền (cash) luôn luôn có khả năng chuyển đổi thành chính bản thân nó. Vì vậy, các nhà kinh tế mới coi tiền là tài sản chuẩn để đo lường khả năng chuyển đổi của các tài sản khác Trong hoạt động kinh doanh của công ty, thì tính thanh khoản được xem như là mạch máu duy trì sự sống của công ty, nó nói đến khả năng đáp ứng nợ ngắn hạn của công ty – khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt để trả nợ, ngắn hạn là khoảng thời gian dưới 1 năm hay là 1 chu kỳ hoạt động bình thường của một công ty (đó là thời gian bao gồm mua nguyên liệu – sản xuất – bán – thu tiền). Có rất nhiều công thức cho phép xác định tương đối khả năng trả nợ của doanh nghiệp, tuy nhiên chúng tôi đưa ra công thức Tỉ lệ nợ rất đơn giản và dễ hình dung như sau: Tỉ lệ nợ  = Tổng tài sản Nợ phải trả (ngắn hạn và dài) )hạn) Nếu tỉ lệ nợ > 1 có nghĩa là doanh nghiệp đang nợ nhiều hơn số tài sản mà mình có. Nếu công ty gặp phải tình trạng như thế này sẽ rất khó để có thể thu hút được nhà đầu tư hoặc ngân hàng cho vay tín dụng bởi vì rủi ro không trả được nợ của công ty là quá lớn. Nếu tỉ nợ < 1 có nghĩa rằng tổng tài sản của doanh nghiệp có khả năng bù đắp được cho khoản nợ. Khi đó lại phải cân nhắc thêm một số yếu tố khác. Nếu tài sản của doanh nghiệp không thể chuyển thành tiền mặt khi cần (tức là khả năng thanh khoản kém) thì doanh nghiệp không có khả năng trả nợ khi đến hạn. Khả năng thanh khoản kém không hẳn đồng nghĩa với việc vỡ nợ nếu về lâu dài tài sản vẫn có khả năng bán đi được. Tuy vậy, rõ ràng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi vì nợ quá hạn có thể còn phải gánh lãi suất và tiền phạt do trả chậm. Rủi ro cao hơn xảy ra nếu tài sản hoàn toàn không có tính thanh khoản, khi đó doanh nghiệp không có tiền trả nợ và tất nhiên sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ. Khoảng cách giữa vỡ nợ và phá sản chỉ là vấn đề thời gian, bởi vì sau khi bị vỡ nợ doanh nghiệp hoặc các chủ nợ có thể nộp đơn yêu cầu tòa án phá sản tuyên bố phá sản để thanh lý tài sản trả nợ. Ngoài ra, đối với cổ đông công ty, thiếu khả năng thanh toán thường báo trước khả năng sinh lợi thấp và ít cơ hội. Điều này tiên đoán việc chủ sở hữu sẽ mất đi quyền kiểm soát công ty hoặc mất vốn đầu tư. Khi chủ sỡ hữu công ty chịu trách nhiệm vô hạn đối với nợ của công ty (công ty tư nhân và công ty hợp danh), thì thiếu khả năng khả năng thanh khoản còn gây nguy hiểm cho cả tài sản cá nhân của chính họ. Những điều mà chúng tôi trình bày ở trên nhấn mạnh tại sao tính toán tính thanh khoản là cực kì quan trọng trong việc phân tích của công ty. Nếu một công ty không đủ khả năng trả nghĩa vụ nợ trong hiện tại thì việc công ty có tồn tại được hay không cũng rất đáng ngờ. Do vậy, tất cả những tính toán phân tích khác chỉ đóng vai trò quan trọng thứ hai mà thôi. Ngoài ra, xét về khía cạnh các giao dịch mua và bán, tính thanh khoản còn liên quan đến khả năng vận hành trơn tru của thị trường. Nhìn chung, dù xét ở khía cạnh nào đi nữa, thì tính thanh khoản cũng được hiểu tổng quát là “khả năng nhanh chóng chuyển tài sản thành tiền mặt”. Vì tính cấp thiết của đề tài là nghiên cứu tính thanh khoản và ảnh hưởng của tính thanh khoản đến quyết định đầu tư, giải thích về nhu cầu đầu tư tài sản này so sánh với các tài sản khác, đồng thời phân tích về động thái hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường tài chính.., nên ở đây chúng tôi sẽ xoáy sâu vào tính thanh khoản trong lĩnh vực tài chính. Lấy 1 ví dụ đơn giản, nếu năm 2006, nhà đầu tư giữ tài sản là cổ phiếu thì tính thanh khoản của tài sản rất cao. Có nghĩa là khi mà họ cần tiền, họ có thể bán ngay để thu về tiền mặt. Nhưng đến thời điểm hiện tại 2011, tính thanh khoản của cổ phiếu là thấp bởi nhà đầu tư khi muốn bán cổ phiếu thì khó tìm được người mua. Vậy câu hỏi được đặt ra là tại sao phải cần thanh khoản? Điều này được lý giải đơn giản là vì thanh khoản là giá trị tiền mặt thực sự mà nhà đầu tư nhận được. Nếu nhà đầu tư muốn nắm trong tay một mớ giấy lộn với niềm ảo tưởng về giá trị của nó, thì hãy mua cổ phiếu mà không cần thanh khoản. 2.1.2. Các vụ khủng hoảng tính thanh khoản nổi tiếng trong lịch sử Thứ nhất, đó là Công ty quản lý quỹ hedge fund - LTCM 1998, bắt đầu từ việc chính phủ Nga bị vỡ nợ khiến trái phiếu chính phủ không còn tính thanh khoản, dẫn đến việc LTCM bị lỗ nặng vì công ty này kinh doanh sử dụng rất nhiều tài sản không có tính thanh khoản như Trái phiếu chính phủ Nga. Đây là nguyên nhân khiến LTCM bị phá sản. Thứ hai, khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 bắt đầu tự Thái Lan và lan sang các nước Đông Á khác. Chỉ số thị trường chứng khoán các nước đồng loạt giảm đột ngột và không còn tính thanh khoản. Nền kinh tế các nước rơi vào thời kì khó khăn một thời gian dài trước khi có thể phục hồi trở lại. Thứ ba, khủng hoảng nợ dưới chuẩn mùa thu 2007 ở Mỹ gây hậu quả vô cùng khủng khiếp đối với tính thanh khoản của các ngân hàng, thị trường tài chính, nền kinh tế Mỹ và thị trường chứng khoán toàn thế giới. Tình hình đó dẫn đến ngày 11/03/2008 Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) bơm 200 tỉ đôla dưới dạng trái phiếu để đổi lấy các chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp đã bị giảm giá rất nhiều do nỗi lo về các khoản nợ có nguy cơ không trả được ở các ngân hàng. FED hy vọng hành động này sẽ giúp các ngân hàng tăng tính thanh khoản và nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay, từ đó các doanh nghiệp và cá nhân có nguồn tiền vay để phát triển kinh doanh hoặc trang trải nợ nần, đưa nền kinh tế vực dậy. Cùng với biện pháp bơm thêm tính thanh khoản vào thị trường, FED cũng đã tiến hành cắt giảm lãi suất cho vay qua đêm giữa các ngân hàng và lãi suất chiết khấu cũng với mục đích giải quyết vấn đề khủng hoảng tín dụng và thanh khoản. Nhưng cho đến nay, các phương pháp trợ giúp của FED vẫn chưa phát huy tác dụng rõ rệt, thị trường chứng khoán vẫn chưa trở về với thời hoàng kim của nó, ngân hàng lớn thứ 5 nước Mỹ Bear Stearns vừa mới phá sản, việc làm suy giảm trầm trọng, các ngành công nghiệp tăng trưởng chậm… Những bài học đắt giá mà con người đã trải qua và việc giải quyết tính thanh khoản ngày nay vẫn đang làm dày thêm kho bằng chứng chứng minh tầm quan trọng của tính thanh khoản trong bất cứ cơ thể kinh doanh nào, từ doanh nghiệp nhỏ đến các ngân hàng lớn và đến cả nền kinh tế đồ sộ như Hoa Kỳ. 2.2 Tính thanh khoản của một số loại tài sản, công cụ 2.2.1. Tính thanh khoản của vàng Vàng được xem là tiền tệ trước khi có tiền giấy, tức là loại tiền nhân tạo do con người tạo ra để thay thế cho một lượng giá trị, nhằm thuận tiện trao đổi hàng hóa. Từ trước đến nay, vàng được đánh giá là tài sản có tính thanh khoản mạnh, và tính thanh khoản này không hề phụ thuộc vào yếu tố kinh tế vĩ mô nào cả. Trong một nền kinh tế, vàng có tính thanh khoản cao nhất là vào lúc mà giá vàng trên thị trường càng ngày càng tăng. Bởi vàng được xem là kênh đầu tư, là công cụ thanh toán và cũng là một khoản tiết kiệm truyền thống của đông đảo người dân, thói quen cất trữ vàng đã có từ nhiều đời nay. Và cũng chính những thói quen huy động vốn vàng đó trong dân cư đã tạo tính thanh khoản cho vàng. Mặt khác, việc mua bán vàng lại có sự phát triển của thị trường phi chính thức (hay thị trường chợ đen) và việc xuất hiện của hình thức tài khoản vàng so với kinh doanh vàng vât chất nên tính thanh khoản của vàng hiện đang khá vượt trội so với các hình thức đầu tư khác. Tuy nhiên, có một nghịch lý là giá vàng liên tục tăng lâu nay là do tính kém lưu hoạt, có nghĩa là rất khó chuyển vàng ra tiền mặt. Thời gian gần đây giá vàng liên tục tăng là do tình hình chính trị và khủng hoảng nợ châu Âu quá nặng khiến cho nhà đầu tư không tin tưởng vào ngoại tệ, và hạn chế đầu tư vào nó, họ tìm kiếm nơi trú ẩn an toàn là vàng, dự trữ vàng an toàn hơn so với ngoại tệ. Đặc biệt, hiện nay nhà nước cấm các cơ sở kinh doanh vàng miếng, họ không được bán ra hay thu vàng miếng vào, muốn mua hoặc bán vàng miếng chỉ thông qua ngân hàng, nên nhu cầu dự trữ cũng có phần tăng lên làm tính thanh khoản càng tăng. 2.2.2 Tính thanh khoản của thị trường ngoại hối Thị trường ngoại hối (Forex) là 1 bộ phận quan trọng của thị trường tiền tệ, đây là một cơ chế mà nhờ đó giá trị tương đối của các đồng tiền quốc gia được xác lập. Nói cách khác, thị trường ngoại hối là một thị trường quốc tế nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ (tiền ghi sổ - bút tệ). Khác với thị trường khác, nơi mà người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hóa, trên thị trường ngoại hối, tiền được đổi lấy tiền. Và đối tượng tham gia trên thị trường này rất phức tạp từ ngân hàng Trung ương, ngân hàng thương mại, các công ty xuất nhập khẩu cho đến sự tham gia thường xuyên của các nhà môi giới, nhà kinh doanh tiền tệ…Vì thế, thị trường hối đoái là thị trường có tính thanh khoản cao nhất và doanh số giao dịch lớn nhất, vượt xa doanh số giao dịch của thị trường cổ phiếu và trái phiếu. Tính thanh khoản cao thể hiện ở chỗ giao dịch được nhanh chóng thực hiện chỉ với 1 cái nhấp chuột trong điều kiện bình thường, nhà đầu tư có thể mua bán ngay lập tức tùy ý và không bao giờ bị kẹt trong thị trường. Họ cũng có thể thiết lập chế độ tự động cho sàn giao dịch kết thúc lệnh giao dịch khi đã đạt được lợi nhuận mong muốn (định mức lãi) hoặc đóng khi thị trường dịch chuyển ngược chiều mong muốn (chống lỗ). Không giống như kinh doanh chứng khoán - đòi hỏi phải có đủ tiền, phải giao dịch tại một sàn cố định, phải chờ khớp lệnh, chỉ được phép giao dịch tại những giờ qui định và quan trọng là rất dễ bị rơi vào tình trạng thiếu thông tin trên thị trường chứng khoán…, kinh doanh tại Thị trường Ngoại hối không cần đến những trung tâm giao dịch mà được tiến hành qua điện thoại hoặc trực tuyến hoạt động 24/24 giao dịch nhanh chóng và chi phí giao dịch thấp nên rất phổ biến với những nhà giao dịch cá nhân. Mặt khác, thị trường ngoại hối là thị trường hai chiều, chính đặc điểm này làm cho thị trường ngoại hối có tính thanh khoản cao. Trên thị trường này, tiền được giao dịch theo cặp, ví dụ: đô/yên, hoặc đô/đồng Thụy Sỹ. Mỗi vị trí đều liên quan đến việc bán đồng tiền này và mua đồng tiền kia. Nếu người giao dịch (nhà đầu tư) tin rằng đồng Thụy Sỹ sẽ cao giá hơn đô, họ có thể bán đô và mua đồng Thụy Sỹ (bán sớm). Nếu người khác tin ngược lại thì họ sẽ mua đô và bán đồng Thụy Sỹ (mua và trữ). Khả năng lợi nhuận tồn tại vì tỷ giá trao đổi (giá cả) luôn luôn dao động. Giao dịch Forex cho phép thu lời từ 2 phía cả tăng và giảm giá trị tiền tệ, đó cũng chính là lý do kinh doanh tỷ giá hối đoái ngày nay đang phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới. Thông thường, có rất nhiều cặp ngoại tệ khác nhau trên thị trường nhưng các giao dịch tập trung vào những cặp ngoại tệ có liên quan đến đôla Mỹ. Đó là những cặp ngoại tệ có tính linh hoạt và tính thanh khoản cao. Điều đó làm cho nhà kinh doanh có những cơ hội tốt hơn để kiếm lợi nhuận. 2.2.3 . Tính thanh khoản của chứng khoán Tính thanh khoản là yếu tố quan trọng trong quyết định đầu tư của các nhà đầu tư khi đầu tư trên thị trường chứng khoán, vì hầu hết các nhà đầu tư không phải lúc nào cũng tính được những nhu cầu tiêu dùng và đáp ứng đầy đủ những nhu cầu tiêu dùng đó. Nên hành động bán chứng khoán xảy ra là tất yếu. Đặc biệt, đối với cổ phiếu, ngoài các nguyên nhân dẫn đến nhu cầu bán cổ phiếu trên đây, còn có một nguyên nhân cơ bản là: phần lợi nhuận chủ yếu có được trong hoạt động đầu tư cổ phiếu là lợi nhuận thu được sau khi bán cổ phiếu. Khả năng thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc vào các yếu tố sau: Tỷ trọng cổ phần: thông thường số cổ phần chủ có quyền (ký danh) càng lớn thì càng khó chuyển đổi và thời gian để bán lại cổ phần sẽ lâu hơn. Ngoại hối: các nhà đầu tư nước ngoài khi bán lại cổ phần ở nước đầu tư vào thường chuyển tiền bán (kể cả lợi nhuận) ra nước ngoài. Vì thế, nếu thủ tục chuyển đổi ngoại hối phức tạp, thời gian thanh toán kéo dài sẽ giảm tính thanh khoản của chứng khoán. Chi phí: các nhà đầu tư luôn phải trả cho các nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán một khoản chi phí hợp lí khi thực hiện việc mua bán chứng khoán. Do đó, chi phí hợp lí dễ quyết định nhanh chóng. Thông thường, tính thanh khoản của chứng khoán tỉ lệ nghịch với thời gian đáo hạn của chứng khoán. Khối lượng khớp lệnh: khi mà khối lượng khớp lệnh càng lớn thì khả năng thanh khoản của chứng khoán càng cao. Chính sự hoàn thiện của thị trường chứng khoán, uy tín của các công ty phát hành chứng khoán đã làm cho chứng khoán có tí

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRủi ro và tính thanh khoản trong lý thuyết lượng cầu tiền tệ.doc
Tài liệu liên quan