Mục lục
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 7
1.1 Khái niệm 7
1.2 Những nguyên tắc đối với hợp đồng tín dụng 7
1.2.1 Tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật 7
1.2.2 Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng 7
1.3 Hình thức của hợp đồng tín dụng 8
1.4 Phân loại hợp đồng tín dụng 9
1.4.1 Căn cứ vào tính chất có đảm bảo của khoản vay 9
1.4.2 Căn cứ vào bản chất pháp lý 9
1.4.3 Căn cứ theo chủ thể ký kết 9
1.4.4 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay 10
1.4.5 Căn cứ theo thời hạn cho vay 10
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ NHỮNG BỔ SUNG, SỬA ĐỔI CỦA LUẬT CÁC TCTD 2010 VỀ NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG SO VỚI LUẬT CÁC TCTD 1997 SỬA ĐỔI, BỔ SUNG 2004 11
2.1 Các chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng 11
2.1.1 Các chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng 11
2.1.1.1 Tín dụng ngân hàng 11
2.1.1.2 Tín dụng nhà nước 11
2.1.1.3 Tín dụng tiêu dùng 11
2.1.1.4 Tín dụng thuê mua 11
2.1.1.5 Tín dụng quốc tế 11
2.1.2 Những hạn chế đối với đối tượng đi vay 11
2.1.2.1 Những trường hợp không được cho vay 12
2.1.2.2 Những đối tượng hạn chế cho vay 14
2.1.2.3 Giới hạn cấp tín dụng 15
2.2 Nội dung hợp đồng tín dụng 18
2.2.1 Điều kiện vay vốn 18
2.2.2 Cấp tín dụng, phương thức cho vay 19
2.2.2.1 Cấp tín dụng 19
2.2.2.2 Phương thức cho vay 19
2.2.3 Mục đích sử dụng vốn vay 20
2.2.4 Thời hạn cho vay 25
2.2.5 Lãi suất 26
2.2.6 Giải ngân khoản vay 29
2.2.7 Phương thức trả nợ gốc và nợ lãi 31
2.2.7.1 Kỳ hạn trả nợ gốc và nợ lãi: 31
2.2.7.2 Phương thức trả nợ gốc và nợ lãi 32
2.2.8 Bảo đảm tiền vay 33
2.2.8.1 Về phạm vi điều chỉnh và biện pháp bảo đảm 33
2.2.8.2 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản bảo đảm 34
a. Điều kiện và giá trị của tài sản bảo đảm 34
b. Cho vay bảo đảm bằng tài sản cầm cố 34
c. Cho vay đảm bảo bằng tài sản thế chấp 35
d. Cho vay bảo đảm bằng bảo lãnh của bên thứ ba 35
e. Về xử lý tài sản bảo đảm trong cầm cố, thế chấp 36
2.2.8.3 Bảo đảm tiền vay không có bảo đảm bằng tài sản 36
a. Cho vay tín chấp 36
b. CIC và sự ảnh hưởng đến cho vay tín chấp 37
2.2.9 Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay 38
2.2.10 Quyền và nghĩa vụ của bên đi vay 39
2.2.11 Cam đoan của bên vay 41
2.2.11.1 Tư cách pháp nhân 41
a. Các pháp nhân và cá nhân Việt Nam gồm 41
b. Các pháp nhân và cá nhân nước ngoài 42
2.2.11.2 Hợp pháp và ràng buộc 42
2.2.11.3 Thông tin chuẩn xác và đầy đủ 42
2.2.11.4 Báo cáo tài chính 43
2.2.12 Cam kết chung, xử lí vi phạm 43
2.2.12.1 Cam kết chung 43
2.2.12.2 Xử lý vi phạm 43
a. Căn cứ xác định vi phạm hợp đồng tín dụng 43
b. Xử lý vi phạm 44
2.2.13 Điều khoản thi hành 45
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 47
3.1 Kiến nghị đối với những quy định về hạn chế đối với các đối tượng đi vay 47
3.2 Kiến nghị đối với những quy định về mục đích sử dụng vốn vay 47
3.3 Kiến nghị đối với những quy định về lãi suất 48
3.4 Kiến nghị đối với những quy định về bảo đảm tiền vay 49
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3262 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận So sánh, phân tích, đánh giá Luật các tổ chức tín dụng 1997 và 2010 về hợp đồng tín dụng cho vay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện theo hướng rõ ràng, minh bạch hơn.
Đối với trường hợp ngân hàng phát hiện khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã thỏa thuận, thì ngân hàng lập tức được quyền chấm dứt hợp đồng, phạt vi phạm và thu hồi nợ trước hạn, căn cứ vào khoản 1 điều 54 luật TCTD 1997 (sửa đổi bổ sung 2004) cũng được quy định tại khoản 1 điều 95 luật TCTD 2010 đó là: “TCTD có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng”.
Tín dụng vẫn là nguồn thu nhập lớn nhất đối với các ngân hàng nhưng bài toán rủi ro tín dụng vẫn là bài toán hóc búa của các TCTD. Việc các nguồn vốn đi sai đường sẽ không đem lại hiệu quả cho nền kinh tế.
Vì vậy, để việc cho vay đúng mục đích và mang lại hiệu quả kinh tế thì phải có sự hướng dẫn kịp thời và chính xác của Nhà nước và các TCTD. Việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay chính là nguồn thu lớn nhất đối với Ngân sách Nhà nước.
Thời hạn cho vay
Trong quan hệ tín dụng nói chung, và quan hệ vay mượn giữa các TCTD và khách hàng nói riêng, việc xác định thời hạn tín dụng hay thời hạn cho vay là điều hết sức quan trọng. Bởi vì, các TCTD (người cho vay) sẽ dựa vào thời hạn cho vay để xác định cấu trúc kỳ hạn của lãi suất và mức bù kỳ hạn từ đó đưa ra một mức lãi suất thích hợp; hơn nữa thời hạn này sẽ giúp khách hàng (người đi vay) xác định được thời hạn sử dụng vốn vay, xây dựng kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả, đảm bảo hoàn trả nợ đúng hạn. Trong khi đó, HĐTD là một văn bản pháp lý điều chỉnh các quan hệ tín dụng. Chính vì thế thời hạn cho vay là một trong những điều khoản không thể thiếu được quy định trong HĐTD.
Theo điều 3, khoản 2, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong HĐTD giữa TCTD và khách hàng.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của HĐDS nói chung và HĐTD nói riêng là nguyên tắc thỏa thuận. Theo pháp luật quy định, thời hạn cho vay của HĐTD được thỏa thuận dựa vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của các TCTD() Điều 10, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc NHNN
. Quy định này là cơ sở pháp lý giúp người đi vay và cho vay xác định thời hạn cho vay một cách chính xác nhất. Ngoài ra, việc xác định thời hạn cho vay dựa trên nguyên tắc thỏa thuận nhằm đảm bảo lợi ích của cả hai bên, cũng như đạt được sự đồng thuận cao nhất trong HĐTD.
Ngoài ra, để đảm bảo việc hoàn trả nợ của khách hàng, tránh rủi ro cho các TCTD, pháp luật không cho phép thời hạn cho vay vượt quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép hoạt động tại Việt Nam của các tổ chức Việt Nam và nước ngoài, cũng như không cho phép thời hạn cho vay vượt quá thời hạn được phép sinh sống, hoạt động tại Việt Nam của các cá nhân là người nước ngoài.
Một yếu tố khác cần được nhắc đến trong thời hạn cho vay là kỳ hạn trả nợ. Theo điều 3, khoản 3, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN thì kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa TCTD và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho TCTD.
Theo khái niệm trên, nếu xét về mặt ngôn từ thì kỳ hạn trả nợ và thời hạn cho vay có điểm giống nhau đó là đều là căn cứ để xác định thời điểm khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. Nhưng về bản chất hai khái niệm này có những điểm khác nhau. Thời hạn cho vay là một thời gian, còn kỳ hạn là các khoảng thời gian nằm trong thời hạn cho vay đó. Cho nên, khi hết thời hạn cho vay, khách hàng phải trả hết nợ gốc và lãi, còn đến kỳ hạn trả nợ thì khách hàng có thể chỉ phải trả một phần trong toàn bộ tài sản vay. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về kỳ hạn trả nợ thì thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ là trùng nhau. Nhưng nếu các bên có thỏa thuận khác về kỳ hạn trả nợ thì hai thời điểm này hoàn toàn khác nhau.
Trên thực tế, đôi khi các khách hàng có thể không có khả năng trả nợ đúng hạn, nghĩa là đã vi phạm HĐTD. Trong trường hợp này, pháp luật cho phép hai bên được thỏa thuận thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Theo điều 3, khoản 4, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN được sửa đổi bổ sung bởi quyết định số127/2005/QĐ – NHNN thì việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ bao gồm hai phương thức là điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn nợ vay, cụ thể như sau:
Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ là việc TCTD chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thoả thuận trước đó trong HĐTD, mà kỳ hạn trả nợ cuối cùng không thay đổi.
Gia hạn nợ vay là việc TCTD chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay, vượt quá thời hạn cho vay đã thoả thuận trước đó trong HĐTD.
Như vậy, có thể thấy điều khoản về thời hạn cho vay là điều khoản quan trọng trong HĐTD, nó đóng một vai trò lớn trong quan hệ tín dụng nói chung, quan hệ vay mượn nói riêng. Các bên tham gia trong hợp đồng, bắt buộc phải thực hiện điều khoản về thời hạn cho vay thế nhưng điều khoản này cũng mang tính linh hoạt, trong một số trường hợp nhất định, với những điều kiện cụ thể, pháp luật cho phép gia hạn nợ vay tức là kéo dài thời gian trả nợ vượt quá thời hạn cho vay.
Lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ của một nước sẽ được thực hiện thông qua việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, đặc biệt là việc NHNN sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để tác động đến các mức lãi suất ngắn hạn, qua đó, tác động đến tỷ lệ tăng cung tiền và tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong quá trình này, thông thường NHNN đưa ra một tín hiệu rõ ràng về mức lãi suất cho vay mà mình mong muốn. Dựa vào đó, các NHTM đưa ra mức lãi suất cho vay thích hợp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn cũng như đảm bảo hoạt động của chính mình.
Luật các TCTD 2010, tại khoản 1 và điều 91, quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD như sau:“TCTD được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của TCTD.”
Đây mà một điểm mới mà không có trong luật các TCTD 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004). Theo quy định này, TCTD được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của TCTD. Cũng theo quy định này NHNN sẽ trao quyền cho TCTD ấn định mức lãi suất, phí cấp tín dụng trong các hoạt động ngân hàng của TCTD, không phụ thuộc vào quy định của BLDS vì bản chất hoạt động kinh doanh ngân hàng của TCTD khác về bản chất với hoạt động cho vay trong quan hệ dân sự thông thường. Việc cho phép các TCTD được tự công bố lãi suất của mình, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, không có nghĩa là lãi suất được tự do thả nổi trên thị trường. Lãi suất mà các TCTD đưa ra phải nằm trong giới hạn theo quy định của pháp luật.
Trong luật các TCTD 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004), các quy định về lãi suất cho vay được đặt chung với các điều khoản trong HĐTD, cụ thể là tại điều 51 luật các TCTD 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) quy định về lãi suất cho vay như sau:“Việc cho vay phải được lập thành HĐTD. HĐTD phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận.”.
Quy định trên có nghĩa là lãi suất cho vay được các bên thỏa thuận với nhau khi kí HĐTD. Tuy nhiên, lãi suất thỏa thuận còn phải chịu điều chỉnh bởi điều 476 BLDS cho nên lãi suất cho vay do các bên thoả thuận không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Quy định này thực ra không nhằm áp đặt chế độ trần lãi suất đối với các TCTD, mà đưa ra mốc lãi suất để chống cho vay nặng lãi. Như vậy, mức lãi suất hai bên thỏa thuận không được cao hơn 150% lãi suất cơ bản mà NHNN đưa ra tại thời điểm kí HĐTD.
Luật các TCTD 2010 đã đưa ra một điều khoản riêng quy định về phí và lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tất cả các loại hình TCTD Khoản 2 điều 91 Luật các TCTD 2010.
. Theo đó, Luật mới đã cho phép TCTD và khách hàng được thỏa thuận mức lãi suất trong hoạt động cho vay, không phụ thuộc vào quy định của BLDS hay các luật có liên quan khác như luật trước đây nữa. Đây là một điểm mới ở luật các TCTD 2010 và nó mang ý nghĩa tích cực trong thực tiễn. Quy định này theo đúng với định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động cho vay là phù hợp với định hướng đường lối “Thực hiện chính sách lãi suất thỏa thuận theo nguyên tắc thị trường” Đường lối của Đảng tại Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng nhiệm vụ kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010.
. Bên cạnh đó, việc áp dụng trần lãi suất làm cho lãi suất cho vay của các TCTD không phản ánh đúng và đầy đủ tình hình thực tế của thị trường. Việc quy định trần lãi suất có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các TCTD, thực tế cho thấy áp dụng trần lãi suất, TCTD gặp rất nhiều khó khăn do trong nhiều thời kì, việc huy động vốn trở nên khó khăn, các TCTD phải nâng cao lãi suất huy động, nhưng các TCTD lại không thể nâng lãi suất cho vay cao hơn trần lãi suất, dẫn đến chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay không đủ bù đắp chi phí hoạt động. Ngoài ra, số lượng TCTD ở Việt Nam hiện này tương đối nhiều, đủ để kiểm soát hoạt động cho vay nặng lãi trong hoạt động ngân hàng. Quan điểm này rất hợp lí bởi với số lượng lớn các TCTD như trên thì mức độ cạnh tranh trong hoạt động cho vay là rất lớn nhằm thu hút khách hàng về cho mình, bởi vậy nó có thể giúp kiểm soát hoạt động cho vay nặng lãi. Việc áp dụng các quy định về trần lãi suất trong BLDS đối với hoạt động ngân hàng trở nên không cần thiết. Việc áp dụng trần lãi suất còn có thể làm cho lãi suất cho vay của các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng không phản ánh đúng và đầy đủ tình trạng thanh toán của các ngân hàng, qua đó làm mất một tín hiệu quan trọng nhất để điều hành chính sách tiền tệ.
Đối với việc miễn, giảm lãi suất của các TCTD đối với khách hàng thì tại khoản 4 điều 54 luật Các TCTD 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) quy định: “TCTD được miễn, giảm lãi suất, phí; gia hạn nợ; mua bán nợ theo quy định của NHNN.”. Có nghĩa là, mọi quyết định về miễn, giảm lãi suất sau khi hai bên kí HĐTD phải được thực hiện theo các quy định của Nhà nước. Điều này làm cho các TCTD bị động trước những động thái của thị trường cũng như hoàn cảnh cụ thể của từng khách hàng. Từ đó, giảm đi sự linh động của các TCTD, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của khách hàng và chính các TCTD.
Nhận thấy sự bất cập trong việc miễn, giảm lãi suất của các TCTD trong luật 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004), trong luật 2010 đã có những thay đổi theo hướng tích cực về vấn đền này. Cụ thể là, ở khoản 4 điều 95 luật các TCTD 2010 quy định: “TCTD có quyền quyết định miễn, giảm lãi suất,phí cho khách hàng theo quy định nội bộ của TCTD”. Điều này khác với khoản 4 điều 54 luật hiện hành quy định việc miễn, giảm lãi suất và phí theo quy định của NHNN. Nó mang lại thẩm quyền lớn hơn trong hoạt động kinh doanh cho TCTD; các TCTD có quyền quyết định miễn, giảm lãi suất, phí cấp tín dụng. Nhờ đó, nâng cao năng lực cạnh tranh giữa các TCTD với nhau bởi những chính sách riêng của mình nhằm cung ứng những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng, tạo ra sự bình đẳng, công bằng hơn trong thời buổi kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, luật mới cũng mang lại nhiều quyền lợi hơn cho khách hàng khi kí kết các HĐTD bởi nếu khi lãi suất thị trường giảm hoặc khách hàng gặp những vấn đề đặc biệt thì tùy từng TCTD mà đưa ra chính sách miễn, giảm lãi suất cho khách hàng của mình. Ngoài ra, quy định trong luật 2010 còn giúp cho việc điều chỉnh lãi suất linh hoạt với thị trường.
Do vậy, trong điều kiện bình thường của thị trường thì việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, để hạn chế việc chạy đua lãi suất giữa các TCTD trong một số điều kiện đặc biệt như đầu năm 2008, để đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD, Luật các TCTD 2010 có quy định về quyền can thiệp của NHNN vào cơ chế xác định lãi suất của TCTD tại khoản 3 Điều 91 như sau: “Trong trường hợp cần thiết, để thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội, bảo đảm an toàn của hệ thống TCTD, NHNN có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD”. Như vậy, khi hoạt động của ngân hàng có diễn biến bất thường, NHNN có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD. Quy định này được đưa ra nhằm giúp NHNN có thêm công cụ để bình ổn thị trường, đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống khi cho phép các TCTD được phép tự đưa ra mức lãi suất cho vay trong trường hợp có những diễn biến bất thường của thị trường tiền tệ. Khi các ngân hàng chủ động hơn trong xác định lãi suất và quy mô huy động với thời hạn hợp lý, rủi ro thanh khoản sẽ giảm.
Việc bổ sung thêm khoản 1 điều 91 mà luật 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004) chưa đề cập đến và sửa đổi nội dụng quy định về miễn, giảm lãi suất ở khoản 4 điều 95 nhằm quy định rộng hơn về thẩm quyền trong hoạt động kinh doanh cho TCTD; TCTD có quyền ấn định mức lãi suất và quyết định miễn, giảm lãi suất, phí cấp tín dụng. Nhờ đó nâng cao năng lực cạnh tranh giữa các TCTD với nhau, cung ứng những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Ngoài ra, quy định này còn giúp cho việc điều chỉnh lãi suất linh hoạt với thị trường. Trong trường hợp cần thiết, để cho toàn hệ thống TCTD luôn an toàn, NHNN có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong các trường hợp đặc biệt nhằm thực hiện chức năng bình ổn giá, cân bằng tiền tệ để thị trường luôn ổn định, vận động trong tầm kiểm soát của NHNN.
Tóm lại, vấn đề lãi suất được quy định trong Luật các TCTD 2010 có rất nhiều thay đổi so với luật 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004). Trước đây, dựa vào luật cũ thì mức lãi suất cho vay được đưa ra giữa các TCTD ít có sự khác biệt do các tổ chức này điều dựa trên mức lãi suất cơ bản được NHNN công bố và trần lãi suất để đưa ra mức lãi suất cho vay, dù là lãi suất thỏa thuận nhưng nó vẫn phụ thuộc vào yếu tố trên. Theo luật mới, các TCTD được quyền ấn định mức lãi suất, các tổ chức này sẽ ấn định mức lãi suất sao cho phù hợp với cung cầu thị trường nhất để cạnh tranh với nhau, do đó, lãi suất cho vay sẽ thể hiện đúng thực tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoài ra, dù luật mới trao nhiều quyền hạn hơn cho các TCTD trong việc ấn định lãi suất nhưng NHNN vẫn giữ vai trò điều hành. Việc quy định NHNN có quyền xác định cơ chế tính phí, lãi suất trong những trường hợp đặc biệt thể hiện rõ vai trò điều hành của mình.
Bên cạnh những mặt tích cực thì việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận cũng nảy sinh những mặt tiêu cực. Áp dụng theo luật các TCTD 2010, việc cạnh tranh giữa các ngân hàng nhỏ với các ngân hàng lớn sẽ rất khó khăn vì các ngân hàng nhỏ không đủ khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Như vậy sẽ hạn chế sự phát triển của những ngân hàng nhỏ nhưng có tiềm năng. Hơn nữa, nhằm tìm kiếm lợi nhuận các NHTM đẩy mạnh cho vay tăng trưởng tín dụng sẽ tăng hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mạo hiểm do sức ép phải cho vay lại với lãi cao. Điều này cũng có nghĩa sẽ tạo nên sự cạnh tranh thiếu lành mạnh thậm chí cấu thành tội phạm và vỡ nợ tín dụng tăng rủi ro hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó,việc áp dụng theo cơ chế lãi suất thỏa thuận thì lợi ích chủ yếu nghiêng về các NHTM. Vì mỗi ngân hàng sẽ đưa ra những bẫy lãi suất để khách hàng tưởng như lãi suất thấp nhưng thực ra lãi suất rất cao. Điển hình là việc cho vay tín chấp tưởng rẻ hóa đắt.
Giải ngân khoản vay
Giải ngân khoản vay là một nghiệp vụ trong quy trình cho vay của các TCTD, đây là giai đoạn các TCTD tiến hành giao tiền cho khách hàng trong hạn mức tín dụng đã được kí kết trong HĐTD. Có 2 hình thức giải ngân chủ yếu là giải ngân bằng tiền mặt và giải ngân bằng chuyển khoản, nhưng trong những năm gần đây hình thức giải ngân bằng chuyển khoản áp dụng khá phổ biến. Mặc dù, giải ngân vốn vay bằng chuyển khoản có tác động tích cực, đem lại nhiều tiện ích: giảm bớt công việc của cán bộ tín dụng, tiết kiệm nhiều chi phí khi trong quá trình giải ngân vốn tại các điểm giao dịch bằng tiền mặt. Về phía người đi vay, tiết kiệm nhiều công lao khi đi nhận tiền vay, có thêm nguồn vốn gửi không kỳ hạn trên tài khoản thẻ, giảm lưu thông tiền mặt. có thể hưởng lãi suất từ tiền gửi trong tài khoản khi khách hàng chưa có nhu cầu sử dụng nguồn vốn vay, an toàn hơn nhận khoản vay bằng tiền mặt, đặc biệt có lợi cho các DN bởi vì hầu hết các DN hiện nay đều mở tài khoản tại các ngân hàng, mọi giao dịch có liên quan đến tiền bạc đều thực hiện thông qua ngân hàng, ít khi sử dụng tiền mặt, do đó khi nhận vốn vay bằng chuyển khoản, các DN không phải đem khoản tiền đó gửi lại ngân hàng vừa mất thời gian, vừa không an toàn nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận những bất cập khi áp dụng hình thức giải ngân này. Cụ thể: Đối tượng cho vay là khách hàng cá nhân, các hộ gia đình mà đặc biệt là các gia đình ở nông thôn. Tâm lí của họ thường không quen làm việc với máy móc, họ muốn trực tiếp nắm giữ tiền, như vậy họ sẽ cảm giác an toàn và chắc chắn hơn là việc chuyển tiền vào tài khoản. Hơn nữa,việc sử dụng thẻ chưa phổ biến ở nông thôn, và hầu như các ngân hàng cũng chưa đặt nhiều trạm ATM ở những nơi này nên việc rút tiền cũng khá là khó khăn, mỗi lần rút tiền người dân thường phải đi khá xa mới rút được tiền. Đồng thời qui trình rút tiền bằng thẻ cũng khá phức tạp. Bởi vì các lí do trên nên đa số người dân không muốn nhận tiền bằng chuyển khoản.
Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động của hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng đồng thời cũng đảm bảo sự thuận lợi, tránh gây phiền hà cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Điều kiện để tiến hành giải ngân khoản vay: Khi bên vay cung cấp đủ tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay và giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo tiền vay.
Các bước của qui trình giải ngân vốn vay, bao gồm:
Bước 1: Bên vay chuyển cho bên cho vay giấy đề nghị giải ngân đã được kí và điền đầy đủ thông tin, thường là chuyển trước ít nhất 2 ngày làm việc trước ngày dự định giải ngân.
Bước 2: kèm theo giấy đề nghị giải ngân, bên cho vay nộp cho bên vay 3 giấy nhận nợ đã điền đầy đủ thông tin, kí, đóng dấu. Trường hợp: số tiền giải ngân thực tế khác với số tiền trong giấy nhận nợ kèm theo giấy đề nghị giải ngân, bên phải ký, đóng dấu và nộp cho bên cho vay 3 bản gốc giấy nhận nợ mới thể hiện đúng số tiền đã giải ngân thực tế. Sau đó, bên cho vay sẽ trả lại các giấy nhận nợ ban đầu liên quan cho bên vay. Kèm theo mỗi giấy đề nghị giải ngân, bên vay gửi kèm bảng kê chi tiết về các chi phí sẽ được thanh toán bằng khoản tiền dự định giải ngân và nộp cho bên cho vay các chứng từ, hóa đơn hoặc bằng chứng liên quan chứng minh mục đích sử dụng vốn vay và hồ sơ liên quan đến tài sản bảo đảm tiền vay.
Bước 3: phương thức giải ngân. Có thể giải ngân bằng phương thức chuyển khoản hay bằng tiền mặt tùy theo sự thỏa thuận giữa bên cho vay và bên đi vay. Nếu bên cho vay vì nguyên nhân bất khả kháng không có khả năng cho vay thì sẽ thông báo cho bên cho vay ít nhất là 1 ngày trước ngày giải ngân.
Bước 4: Hiệu lực giải ngân. Trong khoảng thời gian thỏa thuận giữa 2 bên về việc rút vốn giải ngân, nếu bên đi vay không rút hết vốn thì hợp đồng vay vốn xem như không còn hiệu lực.
Nhìn chung, các bước của qui trình giải ngân tương đối rõ ràng, cụ thể giúp người đi vay dễ dàng tiếp cận và thực hiện. Tuy nhiên, trong phần giải ngân có một điểm bất hợp lí là: nếu bên cho vay vì nguyên nhân bất khả kháng không có khả năng cho vay thì sẽ thông báo cho bên vay ít nhất là 1 ngày trước ngày giải ngân. Bởi vì ngày nay, nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, các DN Việt Nam cũng đang tham gia vào thị trường thương mại quốc tế vì vậy phải tuân thủ theo các qui định quốc tế. Việc thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ hay nguyên liệu, vật liệu phải được tiến hành vào một ngày cụ thể được ghi trong hợp đồng. Nếu thanh toán không đúng thời hạn sẽ phải tiến hành bồi thường hợp đồng với giá trị rất lớn. Nếu bên cho vay thông báo trước 1 ngày thì người đi vay sẽ khó có thể tìm được nguồn vốn khác để thay thế trong thời gian ngắn như vậy. Do đó, ảnh hưởng đến hoạt động của DN cũng như tài chính của DN.
Phương thức trả nợ gốc và nợ lãi
Kỳ hạn trả nợ gốc và nợ lãi:
TCTD và khách hàng thoả thuận về việc trả nợ gốc và lãi vốn vay như sau:
Các kỳ hạn trả nợ gốc;
Các kỳ hạn trả lãi vốn vay cùng với kỳ hạn trả nợ gốc hoặc theo kỳ hạn riêng;
Đồng tiền trả nợ và việc bảo toàn giá trị nợ gốc bằng các hình thức thích hợp, phù hợp với quy định của pháp luật.
Thời hạn trả nợ gốc và nợ lãi sẽ được quy định rõ trong Giấy Nhận Nợ của từng món vay và các Giấy Nhận Nợ là bộ phận không thể tách rời khỏi HĐTD. Khi đến kỳ trả lãi hay nợ thì khách hàng có trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ và lãi cho các TCTD.
Tuy nhiên nếu trong quá trình vay vốn và sử dụng vốn của khách hàng mà ngân hàng phát hiện thấy sai phạm, cung cấp thông tin sai sự thật và vi phạm HĐTD thì TCTD có quyền chấm dứt việc cho vay và thu hồi nợ trước hạn và có quyền kiện khách hàng ra tòa Khoản 1, điều 54 Luật TCTD 1997 cũng như tại khoản 1, điều 95 Luật TCTD 2010
.
Nếu đến kỳ hạn trả nợ gốc và nợ lãi mà khách hàng không có khả năng thanh toán cho TCTD thì :
TH 1 : Khách hàng có thể liên hệ với TCTD để xin gia hạn và sẽ được TCTD xem xét có quyết định cho gia hạn nợ hay không? Và nếu gia hạn nợ phải tuân theo quy định của NHNN. Khoản 4, điều 54 Luật TCTD 1997 cũng như là tại khoản 2, điều 95 Luật TCTD 2010
Cụ thể: Thời hạn gia hạn nợ đối với cho vay ngắn hạn tối đa bằng 12 tháng, đối với cho vay trung hạn, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay đã thoả thuận trong HĐTD.
TH 2 : Nếu khách hàng mà không liên hệ với TCTD để gia hạn nợ thì TCTD có quyền xử lý các khoản nợ, tài sản đảm bảo các khoản vay (nếu có ) theo HĐTD và theo HĐBĐ và theo quy định của pháp luật ( bán, cầm cố tài sản thế chấp, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh(nếu có) và kiện khách hàng ra tòa…) Khoản 2, điều 54 Luật TCTD cũng như tại khoản 2 điều 95 của Luật TCTD 2010
TH 3 : Nếu mà khách hàng hoặc người bảo lãnh không có khả năng thanh toán do bị phá sản thì việc thu hồi nợ của TCTD sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản. Điều 34, 35, 37 Luật Phá Sản 2005
Nếu đến kỳ hạn trả nợ gốc và nợ lãi mà khách hàng chưa thanh toán các khoản nợ này cho TCTD thì ngay lập tức thì các khoản nợ qua hạn này sẽ được chuyển sang nợ quá hạn và sẽ bị tính lãi suất quá hạn và lãi suất này không được vượt quá 150% lãi suất cho vay trước đó mà đã được ký kết trong HĐTD.
Còn nếu các TCTD mà trả nợ gốc và nợ lãi trước kì hạn thì TCTD có thể xem xét miễn, giảm lãi suất cũng như các khoản phí đối với khách hàng. Việc này có tác dụng cũng như ý nghĩa rất lớn đối với TCTD, khách hàng cũng như nền kinh tế:
Đối với TCTD thì việc miễn, giảm lãi suất hay phí sẽ khuyến khích khách hàng vay vốn với những ưu đãi của mình cũng như tạo được niềm tin của khách hàng về 1 TCTD hoạt động dựa trên lợi ích của khách hàng…
Đối với khách hàng sẽ giảm được một khoản chi phí đáng kể cho họ.
Đối với nền kinh tế: tác động sâu xa của chính sách này đối với nền kinh tế chính là việc TCTD miễn, giảm lãi suất, phí cho các khách hàng trả nợ trước kì hạn sẽ giúp khuyến khích khách hàng vay vốn, đầu tư mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, đem lại lợi nhuận cho khách hàng cũng như nền kinh tế được phát triển.
Một điểm đáng chú ý ở đây nữa là việc các TCTD xem xét miễn, giảm lãi suất cũng như các khoản phí đối với khách hàng trả nợ trước hạn đã có sự khác nhau giữa Luật TCTD 1997 và Luật TCTD 2010. Đó chính là đối với Luật TCTD 1997 quy định các TCTD có thể xem xét miễn, giảm lãi suất cũng như các khoản phí đối với khách hàng trả nợ trước hạn sẽ được thực hiện theo quy định của NHNN, còn đối với Luật TCTD 2010 thì việc này sẽ được thực hiện theo quy định nội bộ của các TCTD. Điều này giúp cho các TCDN tăng khả năng cạnh tranh với nhau, mang lại nhiều khách hàng với nhiều khoản vay hơn, giúp phát triển kinh tế...( như phân tích ở trên), đồng thời nó cũng nâng cao vị thế,vai trò cũng như quyền hạn của các TCTD, giúp các TCTD ít bị tác động, ảnh hưởng từ sự quản lí của NHNH hơn, giúp các TCTD chủ động hơn trong các hoạt động của mình, hoạt động linh hoạt hơn.
Còn một vấn đề khác biệt giữa Luật TCTD 1997 so với Luật TCTD 2010 đó chính là vấn đề đảo nợ.Tại khoản 4 điều 54 Luật TCTD 1997 có nói rằng việc đáo nợ sẽ do Chính Phủ quy định, nhưng trong Luật TCTD 2010 đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- So sánh, phân tích, đánh giá Luật các tổ chức tín dụng 1997 và 2010 về hợp đồng tín dụng cho vay.doc