Tiểu luận So sánh phương thức và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN với tổ chức thương mại thế giới (WTO)

MỤC LỤC

 

A. Mở đầu. 1

B. Nội dung 1

I. Những điểm tương đồng trong phương thức thực hiện và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN và tổ chức thương mại thế giới WTO. 1

1, Nguyên nhân của sự tương đồng. 1

2, Mở cửa đầu tư. 2

3, Xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư. 2

4, Áp dụng các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). 4

II. Sự khác biệt trong phương thức thực hiện và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN với tổ chức thương mại thế giới WTO. 5

1, Nguyên nhân của sự khác biệt 5

2, Mở cửa đầu tư. 6

3, Xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư. 7

4, Áp dụng các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). 8

 

 

 

 

 

 

 

A.

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2249 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận So sánh phương thức và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN với tổ chức thương mại thế giới (WTO), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Mở đầu. Đầu tư trực tiếp được coi là một hoạt động kinh tế cơ bản và đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia đang trong giai đoạn phát triển. Theo họ, xu hướng đầu tư chung của thế giới trong những năm tới sẽ thiên về đầu tư vào từng nhóm quốc gia có những đặc điểm tương đồng về mặt địa lý, kinh tế, chính sách, và môi trường đầu tư. Do đó, đầu tư khu vực sẽ là xu hướng đầu tư của tương lai. Có thể thấy, riêng khu vực ASEAN, tổng thu nhập quốc dân của các nước ASEAN năm 2009 đạt 1.492 tỉ USD. Đầu tư nội khối ASEAN đã được duy trì khá ổn định trong nhiều năm qua. Năm 2008, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nội khối đạt 10,8 tỉ USD, chiếm 18,2% tổng mức FDI vào khu vực này (59,7 tỉ USD). Năm 2009, FDI nội khối cũng đạt khoảng 11 tỉ USD. Trong giai đoạn 2006 - 2008, tổng mức FDI vào ASEAN đã tăng 8,6%. Điều đó có nghĩa rằng, đầu tư có xu hướng tăng nhanh. Với mức tăng trưởng này, có thể thấy khu vực đầu tư ASEAN đang dần thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài khối, vậy điều gì đã làm nên sức hút đó. Với đề tài So sánh phương thức và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN với tổ chức thương mại thế giới (WTO) sẽ phần nào giải thích được nguyên nhân của vấn đề trên. Nội dung Những điểm tương đồng trong phương thức thực hiện và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN và tổ chức thương mại thế giới WTO. 1, Nguyên nhân của sự tương đồng. Do mục tiêu của cộng đồng kinh tế ASEAN và tổ chức thương mại thế giới WTO là phát triển kinh tế ổn định, thịnh vượng, có tính cạnh tranh cao và hội nhập nền kinh tế toàn cầu, nên chú trọng lĩnh vực đầu tư, thúc đẩy đầu từ phát triển là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Bên cạnh đó, mục đích của tự do hóa đầu tư là nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài khối, do vậy cả cộng đồng kinh tế và WTO đều thực hiện các phương thức mở cửa đầu tư, xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư, áp dụng các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) để xúc tiến hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế. Không giống như hợp tác an ninh chính trị, được các nhà lãnh đạo ASEAN quan tâm từ những ngày đầu thành lập, vấn đế hợp tác kinh tế là kết quả của một quá trình hợp tác lâu dài của ASEAN, là phản ứng của các nước thành viên trong sự biến động của kinh tế khu vực và trên thế giới. Chính vì thế, trong những năm gần đây, hợp tác kinh tế mới được các quốc gia ASEAN chú trọng, cùng với đó là việc ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN. Với việc ra đời sau tổ chức thương mại thế giới WTO, nên Cộng đồng kinh tế ASEAN ngoài việc phát huy lợi thế của mình, cũng đã biết kế thừa những quy định của WTO nhằm phù hợp với tình hình kinh tế của khối. 2, Mở cửa đầu tư. Thành viên trong Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức thương mại thế giới WTO đều cam kết mở cửa trong rất nhiều lĩnh vực như : sản xuất công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp, ngành công nghiệp khai khoáng và các dịch vụ đi kèm các lĩnh vực trên. Bên cạnh những ngành mở cửa cho tự do đầu tư, cả hai tổ chức này đều thừa nhận sự hạn chế đầu tư trong một số lĩnh vực nhạy cảm như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác. 3, Xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư. Biện pháp đầu tư được hiểu là bất kỳ biện pháp nào của các quốc gia thành viên được thể hiện dưới dạng luật, quy định, quy tắc, thủ tục, quyết định và các hoạt động quản trị hành chính hay những thông lệ được chính quyền trung ương, khu vực, địa phương và các tổ chức phi lợi nhuận ( được chính quyền trung ương, khu vực, địa phương ủy quyền thực hiện, áp dụng ). Sự tương đồng của trong phương thức xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư của Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức thương mại thế giới WTO được thể hiện trong các nội dung sau : + Xóa bỏ các biện pháp về yêu cầu trong đầu tư ( Performance Requirements ). ACIA không trực tiếp định nghĩa thế nào là biện pháp về yêu cầu trong đầu tư hay liệt kê các biện biện pháp về yêu cầu, điều kiện trong đầu tư bị cấm mà dẫn chiếu tới Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) của WTO. Theo đó, các quốc gia phải loại bỏ, không được áp dụng các biện pháp liệt kê tại Phụ lục 1A của TRIMs ( các biện pháp theo TRIMs bao gồm 2 nhóm : (i).các biện pháp về “yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa”, như quy định buộc doanh nghiệp nước ngoài phải mua hoặc sử dụng một mức độ nhất định các sản phẩm có xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước. Ví dụ Chính phủ yêu cầu các nhà đầu tư xây dựng nhà máy phải dùng xi măng sản xuất trong nước thay cho xi măng nhập khẩu, Chính phủ dành các ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp đạt tỉ lệ nội địa hóa cao hơn trong sản xuất và lắp ráp oto, xe máy…; (ii).các biện pháp “yêu cầu về cân bằng thương mại”, Chính phủ có thể bắt buộc nhà đầu tư tạo lập cân bằng thương mại bằng hai cách. Thứ nhất, Chính phủ hạn chế khả năng nhập khẩu của nhà đầu tư thông qua các chính sách hạn chế nhập khẩu như thực hiện chế độ cấp giấy phép nhập khẩu; Thứ hai, Chính phủ yêu cầu nhà đầu tư không được nhập khẩu với doanh số vượt quá doanh số xuất khẩu của doanh nghiệp + Trong quá trình mở cửa đầu tư, do trình độ phát triển nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền kinh tế trước sức ép của đầu tư nước ngoài tràn vào do mở cửa đầu tư là khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa đầu tư không chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước. Chính vì thế Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức thương mại thế giới WTO đều quy định cho phép các quốc gia thành viên được tạm thời áp dụng các biện pháp hạn chế đầu tư và tiến tới xóa bỏ trong một thời gian nhất định đối với từng nhóm nước theo quy định của từng tổ chức. Như đối với WTO, Điều 5 – TRIMs có quy định các thành viên phải xóa bỏ các TRIMs đã thông báo trong vòng 2 năm kể từ ngày Hiệp đinh WTO có hiệu lực đối với các nước phát triển, 5 năm đối với các nước đang phát triển và 7 năm đối với các nước đang phát triển. Hoặc như trong AEC, có lộ trình loại bỏ dần các biện pháp hạn chế đầu tư tạm thời đến năm 2010 đối với ASEAN 6 và đối với Việt Nam, Lào và Myanmar, Campuchia lần lượt là 2013, 2015 và 2017. 4, Áp dụng các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). Nguyên tắc Đối xử quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc được coi là thông lệ quốc tế để đảm bảo cạnh tranh công bằng. Cộng đồng kinh tế ASEAN và tổ chức thương mại thế giới WTO áp dụng nguyên tắc này cũng không phải là ngoại lệ. + Nguyên tắc về đối xử quốc gia yêu cầu các nước thành viên đối xử với các nhà đầu tư của nước thành viên khác và khoản đầu tư của họ không kém thuận lợi hơn đối với nhà đầu tư của nước mình, bao gồm nhưng không chỉ giới hạn trong phạm vi tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và chuyển nhượng đầu tư. + Nguyên tắc tối huệ quốc, nhà đầu tư của một nước thành viên khi đầu tư vào nước thành viên khác và khoản đầu tư của họ phải được hưởng chế độ đãi ngộ (nhưng không giới hạn trong ) về tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và chuyển nhượng đầu tư như nhà đầu tư một nước bất kỳ được hưởng. Ngoài các nội dung trên, cả Cộng đồng kinh tế ASEAN và Tổ chức thương mại thế giới WTO đều có những quy định cụ thể các trường hợp ngoại lệ trong tự do hóa đầu tư vì các lý do an ninh quốc phòng, sức khỏe con người, động thực vật, bảo vệ các di sản văn hóa, thuân phòng mỹ tục ( Xem thêm Điều 9, 10, 17 và 18 ACIA 2009 ). Sự khác biệt trong phương thức thực hiện và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN với tổ chức thương mại thế giới WTO. 1, Nguyên nhân của sự khác biệt WTO là một tổ chức bao gồm rất nhiều quốc gia thành viên trên toàn thế giới do đó giữa các quốc gia này có sự khác biệt rất lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Còn ASEAN bao gồm các quốc gia Đông Nam Á, Cộng đồng kinh tế của ASEAN không chỉ có các mục tiêu kinh tế cụ thể, mà còn mang các mục tiêu chính trị với tính chất là “một quyết tâm chính trị cả gói trong cộng đồng ASEAN”. Do đó, nền kinh tế ASEAN được phát triển dựa trên nền tảng xã hội ASEAN hài hòa, tin cậy lẫn nhau và ổn định của khu vực. Chính vì vậy, mức độ tự do hóa đầu tư trong cộng đồng kinh tế ASEAN lớn hơn so với Tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới WTO là kết quả của những cuộc đàm phán, tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán. Chính vì vậy, việc đàm phán thành công hay không đều dựa trên thiện chí của từng quốc gia, điều kiện kinh tế và nhu cầu của từng quốc gia thành viên. So với WTO, ASEAN có mức độ phát triển kinh tế còn thấp. Vì vậy, để phát triển, các quốc gia ASEAN cần tăng cường mở rộng đầu tư, hợp tác quốc tế. Cộng đồng ASEAN là một liên kết khu vực “mở”. Tính chất mở của cộng đồng ASEAN được hiểu là mở rộng hợp tác với bên ngoài, có nghĩa là mở cửa cho sự tham gia của các thực thể bên ngoài vào các tiến trình và hoạt động hợp tác của cộng đồng ASEAN. 2, Mở cửa đầu tư. a, Trong khuôn khổ của tổ chức thương mại thế giới WTO. Mở cửa đầu tư là những biện pháp do chính phủ tiến hành nhằm thu hút và điều tiết các nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ của một quốc gia bao gồm khuyến khích về tài chính, nguồn vốn vay, giảm thuế, ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu, nguồn ngoại tệ, những điều kiện về sản xuất, chuyển giao công nghệ... có ảnh hưởng đến mậu dịch quốc tế được gọi là những biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs). Đàm phán mở cửa đầu tư trong khuôn khổ đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các quốc gia hay vùng lãnh thổ chưa là Thành viên WTO tiến hành đàm phán mở cửa thị trường đầu tư với các Thành viên WTO căn cứ theo yêu cầu đàm phán mà các Thành viên này đưa ra. Kết quả đàm phán cuối cùng được thể hiện trong Biểu cam kết cụ thể về mở cửa đầu tư. Mỗi nước thành viên WTO có một Biểu cam kết mở cửa đầu tư riêng. Nghĩa vụ của họ trong việc mở cửa đối với từng ngành sẽ thực hiện theo Biểu này. - Các ngành và phân ngành xuất hiện trong Bảng cam kết đầu tư, việc mở cửa đầu tư đối với các ngành này của nước thành viên sẽ bị ràng buộc bởi cam kết. - Đối với các ngành và phân ngành không xuất hiện trong Bảng cam kết đầu tư nước thành viên có thể tuỳ ý quyết định mở cửa hay không mở cửa, và mức độ mở cửa (nếu có) cho ngành, phân ngành và nhà đầu tư nước ngoài. b, Trong khuôn khổ của Cộng đồng kinh tế ASEAN. Đối với phương thức mở cửa đầu tư cả Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN và IAI đều quy định về Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) và Danh mục nhạy cảm (SL). Tương tự như các Danh mục cắt giảm thuế quan trọng AFTA, Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) bao gồm các ngành nghề tạm thời chưa cho phép đầu tư hoặc chưa được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia và các biện pháp (hạn chế) đầu tư tạm thời vẫn chưa áp dụng đối với đầu tư nước ngoài, nhưng phải có lộ trình loại bỏ dần đến năm 2010 đối với ASEAN 6 và đối với Việt Nam. Lào và Myanmar, Campuchia lần lượt là 2013, 2015 và 2017. Danh mục nhạy cảm (SL) gồm những ngành và biện pháp đầu tư không bị loại bỏ nhưng sẽ được xem xét định kỳ bởi Hội đồng AIA. Như vậy, có thể thấy, sự hợp tác trong cộng đồng kinh tế ASEAN về các lĩnh vực mở cửa đầu tư dựa trên một cam kết chung giữa các nước thành viên được quy định trong Hiệp định đầu tư toàn diện ACIA. Cùng với đó các nước đang phát triển trong khu vực ASEAN, với mục đích phát triển kinh tế khu vực, nên việc thực hiện các biện pháp mở cửa đầu tư rộng rãi hơn sẽ thu hút vốn FDI ngoại khối vào khu vực này, nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực. 3, Xóa bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư. + Ngoài các biện pháp liên quan đến yêu cầu trong đầu tư, các biện pháp đầu tư bị cấm trong Cộng đồng kinh tế ASEAN còn liên quan đến quản trị doanh nghiệp, đó là việc Chính phủ yêu cầu một pháp nhân của nước đó bổ nhiệm người có quốc tịch nhất định vào vị trí quản lý cấp cao. + Các biện pháp hạn chế nhập khẩu liên quan đến ngoại hối và hạn chế xuất khẩu cũng được coi là không hợp pháp trong Tổ chức thương mại thế giới WTO. Đối với các hạn chế nhập khẩu liên quan đến ngoại hối : Chính phủ yêu cầu doanh nghiệp không được sử dụng lượng ngoại hối để nhập khẩu hàng hóa vượt quá lượng ngoại hối để nhập khẩu hàng hóa vượt qua lượng ngoại hối mà doanh nghiệp tạo ra. Trong một số hoàn cảnh đặc biệt, mang tính ngoại lệ, ví dụ như một quốc gia đang phát triển bị khủng hoảng cán cân thanh toán nghiêm trọng (tình trạng này được ủy ban WTO về biện pháp cân bằng cán cân thanh toán công nhận sau khi tham khảo ý kiến của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF), quốc gia đó được phép áp dụng tạm thời một số biện pháp hạn chế nhập khẩu nhằm khắc phục tình trạng này, các biện pháp hạn chế nhập khẩu phải dựa trên cơ chế giá như tăng thuế nhập khẩu… mà không được áp dụng biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu và phải áp dụng bình đẳng với tất cả các mặt hàng, không được thực hiện một cách chọn lọc đói với những mặt hàng nào đó. Đối với các hạn chế xuất khẩu : phần lớn các trường hộp hạn chế mà các Chính phủ áp dụng liên quan đến nguyên liệu thô. Chính phủ yêu cầu nguyên liệu thô phải được chế biến trước khi xuất khẩu. Do nguyên liệu thô không được xuất khẩu, giá nguyên liệu trong nước sẽ thấp hơn giá thế giới, tạo nên lợi thế cho công nghiệp chế biến trong nước, bất lợi đối với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào. 4, Áp dụng các nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). Mặc dù được coi là nguyên tắc cơ bản, được coi là thông lệ quốc tế nhằm đảm bảo sự cạnh tranh công bằng. Nhưng nguyên tắc tối huệ quốc được áp dụng ở hai tổ chức này vẫn tồn tại ngoại lệ. Như việc một số nước có thể ký kết một hiệp định đầu tư tự do chỉ được áp dụng đối với những lĩnh vực trong nội bộ một nhóm – đây là một hình thức phân biệt đối xừ đối với lĩnh vực của các nước ngoài WTO. Chẳng hạn như việc các nước trong Cộng đồng kinh tế ASEAN cùng tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO nhưng các quốc gia này lại dành những ưu đãi cho nhau lớn hơn các quốc gia khác với tư cách là các quốc gia nội khối AEC, cũng không bị coi là vi phạm nguyên tắc tối huệ quốc được quy định trong WTO.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSo sánh phương thức và mức độ tự do hóa đầu tư của cộng đồng kinh tế ASEAN với tổ chức thương mại thế giới (WTO).doc
Tài liệu liên quan