Việc xây dựng và ban hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là thực hiện tốt hơn trách nhiệm của Nhà nước ta trước công dân, thể hiện tính dân chủ trong đời sống xã hội, tạo hành lang pháp lý đồng bộ để người bị thiệt hại thực hiện tốt hơn quyền được bồi thường của mình đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra. Đồng thời xác định rõ trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại để nhằm tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình, mặt khác, góp phần tăng cường, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực thi công vụ của công chức nước ta hiện nay.
8 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3502 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận So sánh quy định của pháp luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước của Việt Nam với Cộng hòa liên bang Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Như chúng ta đã biết, Luật Bồi thường nhà nước có tác động trực tiếp không chỉ tới người dân, các cơ quan công quyền mà còn cả các quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp. Luật Bồi thường nhà nước của Việt Nam mới được ban hành năm 2009 và mới chỉ có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót hay hạn chế. Chính vì lẽ đó việc nghiên cứu tìm hiểu pháp luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước của các quốc gia trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm nhằm hoàn thiện pháp luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Trong giới hạn phạm vi bài tập, sinh viên xin trình bày về pháp luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước của CHLB Đức, đồng thời so sánh quy định của pháp luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước của Việt Nam với CHLB Đức.
Pháp luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước của CHLB Đức:
Khái niệm:
Pháp luật về bồi thường Nhà nước là một bộ phận pháp luật trong hệ thống pháp luật của CHLB Đức quy định về một loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt: trách nhiệm của chủ thể thừa hành công vụ đối với các hành vi công quyền của mình trong quá trình thực hiện công vụ.
Có thể khẳng định cho tới nay CHLB Đức không có Luật liên bang về trách nhiệm bồi thường Nhà nước. Tại Đức, pháp luật về bồi thường Nhà nước là một chế định pháp luật hết sức phức tạp và thiếu vắng tính hệ thống, bao gồm những điều khoản lẻ tẻ được quy định rải rác trong Hiến pháp và các đạo luật chuyên ngành như Bộ luật Dân sự, Luật Bồi thường đối với các biện pháp hình sự…Theo đó, cơ sở pháp lý cho các quyền khởi kiện đã được tập hợp hóa thành các nhóm quyền khởi kiện. Nền tảng, phạm vu của các quyền khởi kiện, các quy định đơn lẻ hoặc nội dung của pháp luật về bồi thường Nhà nước được phát triển liên tục từ các phán quyết đơn lẻ của Tòa án. Khi chủ thể của hành vi công quyền trong lĩnh vực luật công có hành vi vi phạm quyền lợi của công dân thì Hiến pháp Đức bảo đảm cho công dân sự bảo vệ pháp lýkhi công chức nhà nước có hành vi vi phạm quyền lợi của họ. Sự bảo hộ pháp lý này của Hiến pháp liên bang đã mở ra cho công dân Đức một khả năng, yêu cầu Tòa án xem xét lại tính hợp pháp của hành vi công quyền mà họ cho là đã vi phạm các quyền hợp pháp của họ (bảo vệ pháp lý nguyên phát- primorer Rechtsschutz). Tuy nhiên, sự bảo hộ pháp lý này không tồn tại một cách đơn lẻ. Nó được bảo vệ bổ sung thông qua pháp luật về bồi thường Nhà nước – bộ phận pháp luật đem lại một khả năng bổ sung là yêu cầu bồi thường đối với các hành vi công quyền xâm hại đến quyền công dân (bảo vệ pháp lý thứ phát- sekundọrer Rechtsschutz).
2. Quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại của công dân ở Đức:
Công dân có quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại, yêu cầu xóa bỏ hậu quả bất lợi trong các trường hợp sau:
Khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ công vụ của công chức. Người bị thiệt hại có thể đòi bồi thường toàn bộ thiệt hại, kể cả thu nhập bị mất và tiền bồi thường cho thiệt hại tinh thần. Nếu vi phạm đó xảy ra do vô tình, công chức chỉ bị quy trách nhiệm nếu người bị thiệt hại không được bồi thường bằng một cách khác.
Khi có các biện pháp và quyết định bất hợp pháp của ngành tư pháp. Khi thẩm phán có hành vi vi phạm nghĩa vụ công vụ trong quá trình xét xử, Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm nếu sự vi phạm đó đồng thời là tội phạm (bóp méo luật hoặc nhận hối lộ). Trong trường hợp phán quyết của Thẩm phán trong thủ tục thi hành án, lệnh trong tố tụng hình sự hoặc nghị quyết trong các thủ tục nhằm xác định án phí hoặc ấn định giá trị tố tụng sẽ được ngoại trừ để bảo vệ sự độc lập của Thẩm phán, bảo vệ hiệu lực pháp luật của các phán quyết Nhà nước.
Do ở CHLB Đức không có đạo luật về trách nhiệm bồi thường Nhà nước nên cơ sở pháp lý quan trọng nhất của các quyền khởi kiện được quy định tại các điều khoản riêng lẻ trong các luật chuyên ngành như:
- Quyền khởi kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vi phạm nghĩa vụ công vụ. Người bị thiệt hại có thể khởi kiện đòi bồi thường toàn bộ thiệt hại, kể cả thu nhập (lãi) bị mất và tiền bồi thường cho thiệt hại tinh thần. Quyền này được quy định trong Hiến pháp và Bộ luật dân sự. Toà án giải quyết là toà án cấp bang;
- Quyền khởi kiện theo hợp đồng từ các quan hệ nghĩa vụ theo luật công. Người bị thiệt hại có thể đòi bồi thường toàn bộ thiệt hại khi cơ quan hành chính có hành vi được xem là bất hợp pháp và có lỗi khi vi phạm nghĩa vụ từ quan hệ nghĩa vụ theo luật công nhất là khi vi phạm nghĩa vụ bảo vệ tài sản và quyền lợi công dân. Thủ tục giải quyết sẽ tiến hành theo quy chế tố tụng hành chính, được quy định trong Bộ luật dân sự và Luật thủ tục hành chính;
- Quyền khởi kiện yêu cầu xoá bỏ hậu quả bất lợi, nhằm bảo vệ các quyền cơ bản. Người bị thiệt hại có thể yêu cầu khôi phục lại tình trạng ban đầu trước khi bị vi phạm và hậu quả kéo dài bất hợp pháp (không xét tính bất hợp pháp của sự vụ, chỉ xét tính bất hợp pháp của hậu quả), không phụ thuộc vào lỗi của chủ thể, nhưng không được yêu cầu bồi thường về tiền và lãi suất bị mất. Toà án giải quyết là toà án hành chính;
- Quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường khi trưng dụng, xuất phát điểm là chế định bảo đảm quyền sở hữu. Nguời bị thiệt hại có thể yêu cầu đền bù đặc biệt bằng tiền định hướng theo giá trị thị trường của thiệt hại nhưng không được đền bù toàn bộ và không tính lãi suất. Toà án giải quyết là Toà án dân sự, quy định trong Hiến pháp và theo án lệ;
- Quyền yêu cầu bồi thường vì trở thành nạn nhân bị thiệt hại đến các giá trị phi vật chất (mạng sống, sức khoẻ, tự do) bởi sự can thiệp của công quyền (kể cả biện pháp hoạch định, dự phòng và xã hội của Nhà nước), được quy định trong Luật cảnh sát của liên bang và tiểu bang, Luật hình sự, Luật thủ tục hành chính của liên bang và tiểu bang, Bộ luật xã hội VII…
Đồng thời quy định của Hiến pháp Đức, công dân không thể trực tiếp chống lại tác động gây hại sinh ra từ hành vi lập pháp. Họ phải đợi luật được thi hành rồi mới khởi kiện (bảo vệ pháp lý nguyên phát). Ngoài ra các nghị sĩ phải chịu trách nhiệm trước xã hội nói chung, hành vi công vụ của họ không nhằm bảo vệ người thứ ba, do vậy, ở đây không tồn tại khả năng vi phạm nghĩa vụ công vụ.
3. Phạm vi quyền đòi bồi thường:
- Đối tượng của bồi thường là thiệt hại tài sản gây ra bởi một biện pháp truy tố hình sự, trong trường hợp phạt giam do toà quyết định thì cũng kể cả thiệt hại phi vật chất;
- Chỉ bồi thường thiệt hại tài sản, nếu kiểm tra thấy thiệt hại đó lớn hơn 25 Euro;
- Trong thiệt hại phi vật chất, được bồi thường 11 Euro cho mỗi ngày bị giam.
II. Khái quát về pháp luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước của Việt Nam:
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2010. Đây là một đạo luật mới, quan trọng, là cơ sở pháp lý để tổ chức, cá nhân thực hiện quyền yêu cầu bồi thường khi bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án; thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại..
Luật qui định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước bao gồm 3 lĩnh vực: quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần mà thuộc các trường hợp đã được qui định trong Luật thì Nhà nước phải bồi thường. Các thiệt hại do hoạt động xây dựng pháp luật gây ra không được quy định trong Luật, vì xây dựng pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền định ra các quy tắc xử sự chung và có hiệu lực bắt buộc đối với mọi tổ chức, cá nhân trong những quan hệ xã hội nhất định. Hoạt động này tác động đến mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội trên phạm vi cả nước hoặc ở từng địa phương hoặc đối với một số đối tượng nhất định chứ không phải đối với từng cá nhân, tổ chức cụ thể. Do vậy, để đảm bảo tính khả thi, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước xác định rõ phạm vi các trường hợp được Nhà nước bồi thường trong từng lĩnh vực. Vấn đề này được xây dựng trên nguyên tắc chỉ hành vi trái pháp luật nào của người thi hành công vụ mà gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền sở hữu, các quyền cơ bản khác của cá nhân và các quyền của tổ chức mang tính phổ biến, gây bức xúc trong nhân dân thì được Nhà nước bồi thường.
Trong một số trường hợp như: do lỗi của người bị thiệt hại hoặc người bị thiệt hại che dấu chứng cứ, tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc; do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết thì Nhà nước không bồi thường thiệt hại.
Khi người thi hành công vụ có lỗi, gây ra thiệt hại thì phải có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền (Điều 56). Ngoài ra, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm còn phải bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Còn cơ quan hành chính trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại là cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
Việc xây dựng và ban hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là thực hiện tốt hơn trách nhiệm của Nhà nước ta trước công dân, thể hiện tính dân chủ trong đời sống xã hội, tạo hành lang pháp lý đồng bộ để người bị thiệt hại thực hiện tốt hơn quyền được bồi thường của mình đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra. Đồng thời xác định rõ trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại để nhằm tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình, mặt khác, góp phần tăng cường, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực thi công vụ của công chức nước ta hiện nay.
III. So sánh quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước của pháp luật CHLB Đức với quy định của pháp luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước của Việt Nam:
Có thể thấy điểm tương đồng đầu tiên của 2 chế định trách nhiệm bồi thường Nhà nước của Việt Nam và CHLB Đức chính là phạm vi điều chỉnh của chúng. Ở cả Đức và Việt Nam trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại được đặt ra khi người thi hành công vụ gây ra khi thi hành công vụ của mình. Đối tượng được bồi thường cũng là điểm tương đồng bao gồm các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần. Ngoài ra ở cả 2 quốc gia đều quy định loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đối với hoạt động xây dựng pháp luật. Kinh phí bồi thường đều được lấy từ ngân sách ( ngân sách trung ương – ngân sách liên bang đối với trường hợp cơ quan trung ương có trách nhiệm bồi thường; ngân sách địa phương – ngân sách bang đối với trường hợp cơ quan địa phương có trách nhiệm bồi thường).
Như đã trình bày ở trên, Luật về bồi thường Nhà nước của CHLB Đức có mối liên hệ chặt chẽ và mật thiết đối với hậu quả của các hành vi công quyền. Nó có mục tiêu xác định trách nhiệm của Nhà nước, của các thực thể theo Luật công và các chủ thể thực thi công vụ khác có hành vi xâm hại đến các quyền công dân trong quá trình thực thi quyền lực Nhà nước. Do đó, Luật về bồi thường Nhà nước được thừa nhận là một bộ phận pháp luật của Luật công. Điều này cũng là một điểm tương đồng giữa 2 chế định trách nhiệm bồi thường Nhà nước của Việt Nam và Đức. Ở cả Đức và Việt Nam đều đặt ra vấn đề về quyền yêu cầu bồi thường của người dân bao gồm người có quốc tịch Đức, quốc tịch Việt Nam hay người nước ngoài. Theo đó khi có thiệt hại về vật chất, hay phi vật chất theo quy định trong Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước của Việt Nam, hay các đạo luật riêng lẻ của Đức thì cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh những điểm tương đồng chính là các điểm khác nhau giữa quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước giữa 2 quốc gia. Điểm khác biệt lớn nhất chính là ở CHLB Đức không có luật liên bang về trách nhiệm bồi thường Nhà nước mà được quy định rải rác và thiếu tính hệ thống ở các đạo luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ luật Dân sự…Trong khi đó tại Việt Nam, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được quy định chi tiết, cụ thể trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước bên cạnh việc các đạo luật khác như Luật Tố tụng dân sự; Tố tụng hình sự… vẫn tiếp tục quy định và ghi nhận trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo tinh thần thống nhất với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.
Tµi liÖu tham kh¶o
1. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009;
2. Đặc san tuyên truyền về luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
(
3.
25.2354533123/seminarmeeting.2008-10-31.8288439661/view;
4.
5.
luat/mua-ban-doanh-nghiep/luat-dan-su3727;
6.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu pháp luật bồi thường nhà nước của CHLB Đức và so sánh với pháp luật BTNN của Việt Nam.doc