Tiểu luận So sánh xu hướng lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006-2008

Có thể nói, lãi suất trong thời gian qua có xu hướng tăng chưa phù hợp với quy luật. Chủ yếu, lãi suất tăng là do tác động của lãi suất trên thị trường quốc tế, do sự cạnh tranh lãi suất giữa các NHTM trong khi thị trường tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển. Đặt biệt, những diễn biến khá phức tạp và hết sức đa dạng của lãi suất trong năm 2008 là cơ hội cho Chính phủ, NHNN nhìn nhận lại khả năng quản lý, điều hành nền kinh tế của mình đã thực sự đạt được hiệu quả hay chưa, nhất là trong công tác dự báo thị trường. Bên cạnh đó còn phải nói đến năng lực quản lý, khả năng đề kháng trước những diễn biến bất lợi của thị trường đối với bản thân các NHTM, các thành phần kinh tế khác, họ đã thực sự làm tốt hay chưa. Khi mà nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thì nhất thiết Chính phủ, NHNN cần có một hành lang pháp lý thật vững chắc, hợp lý để điều hành nền kinh tế thật hiệu quả, và trong đó thì luật Ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng là rất đáng quan tâm để có những điều chỉnh đúng đắn, kịp thời. Về lâu dài, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển thị trường tiền tệ, làm cho nguồn vốn được hoạt động thông suốt để tránh hiện tượng vốn thừa ở một số ngân hàng nhưng lãi suất vẫn tăng.

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2448 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận So sánh xu hướng lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006-2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ối năm 2005, mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường năm 2006 có xu hướng tăng nhẹ, nhưng nhìn chung tương đối ổn định ở mức 11.2%/năm so với 11%/năm năm 2005. Có thể thấy sự gia tăng này chủ yếu là do khối NHTMCP nhỏ với lãi suất cho vay bình quân lên tới 12.63%/năm so với bình quân toàn ngành. Bảng 1: Lãi suất huy động và cho vay bình quân năm 2006 Chỉ tiêu Khối NHTMNN Khối NHTMCP lớn Khối NHTMCP nhỏ Toàn ngành Lãi suất huy động bình quân 5.53% 7.41% 8.61% 7.60% Lãi suất cho vay bình quân 9.09% 10.62% 12.63% 11.20% Chênh lệch lãi suất bình quân 3.56% 3.22% 4.02% 3.60% Nguồn: Tổng hợp Mặc dù huy động với lãi suất khá thấp so với nhóm các NHTMCP, nhưng chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của nhóm NHTMNN là thấp nhất. Nguyên nhân là do nhóm ngân hàng này cho vay với lãi suất thấp hơn nhiều so với các NHTMCP. Cả nhóm NHTMNN và NHTMCP lớn đều có mức chênh lệch lãi suất thấp hơn so với chênh lệch lãi suất 3.6% của trung bình ngành. Trong lúc đó, nhóm NHTMCP có quy mô nhỏ năm 2006 có mức chênh lệch lãi suất rất cao nhờ các khoản cho vay với lãi suất cao và tất nhiên mức độ rủi ro cũng cao hơn rất nhiều. NĂM 2007 Bảng 2: Lãi suất huy động và cho vay bình quân 2006-2007 Chỉ tiêu Lãi suất huy động bình quân Lãi suất cho vay bình quân Năm 2006 Năm 2007 Tăng (giảm) Năm 2006 Năm 2007 Tăng (giảm) Nhóm NHTMNN 5.53% 6.57% 1.04% 9.09% 9.68% 0.59% Nhóm NHTMCP lớn 7.41% 7.61% 0.20% 10.62% 10.98% 0.36% Nhóm NHTMCP nhỏ 8.61% 8.74% 0.13% 12.63% 12.71% 0.08% Toàn ngành 7.60% 7.91% 0.31% 11.20% 11.48% 0.28% Nguồn: Tổng hợp Lãi suất huy động của nhóm NHTMNN năm 2007 ở mức 6.57%, tăng 1.04% so với năm 2006, đồng thời lãi suất cho vay là 9.68%, tăng lên 0.59% so với trước đó. Tiếp đến nhóm NHTMCP huy động VND với lãi suất 7.61%/năm, cao hơn so với nhóm NHTMNN, ứng với lãi suất cho vay là 10.98%/năm. Đứng ở vị trí cao nhất về lãi suất huy động lẫn cho vay chính là nhóm NHTMCP nhỏ, với mức lãi suất huy động bình quân là 8.74% và mức lãi suất cho vay bình quân trong năm là 12.71%. Nhìn chung lãi suất huy động và cho vay của các NHTM trong năm 2007 đều gia tăng, lãi suất huy động có xu hướng tăng nhanh hơn lãi suất cho vay, 0.31% đối với lãi suất huy động và 0.2% đối với lãi suất cho vay. Thực tế trong năm 2007, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, nhu cầu vay vốn cho đầu tư phát triển rất lớn, gây ra áp lực tăng lãi suất tiền gửi để thu hút nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu vay tăng cao. Đặc biệt là vào những tháng cuối năm 2007, việc tăng trưởng quá cao dư nợ tín dụng của các NHTM đã dẫn đến nhu cầu vốn gia tăng đáng kể, một số NHTMCP nhỏ có sự thiếu hụt thanh khoản. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do phần lớn các ngân hàng tham gia trên thị trường đa phần là có quy mô nhỏ, thương hiệu chưa thực sự mạnh. Ngoài ra cũng một phần do các NHTMCP nhỏ trước đó đã quá tay trong việc lấy vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn, dẫn đến khan hiếm nguồn tiền trong ngắn hạn. Do đó để tồn tại được thì phương thức hiệu quả duy nhất của nhóm NHTCMP nhỏ là công cụ tăng lãi suất được coi là hiệu quả tức thời để thu hút vốn về phía mình. Điều này cũng lý giải vì sao lãi suất của nhóm NHTMCP nhỏ luôn ở mức cao hơn so với nhóm NHTMCP lớn và nhóm NHTMNN. Nếu nhìn vào bảng số liệu thống kê sẽ thấy cụ thể lãi suất huy động trung bình của nhóm NHTMCP nhỏ ở mức 8.74% trong khi nhóm NHTMCP lớn là 7.61% và nhóm NHTMNN nằm ở vị trí thấp nhất 6.57%/ năm. Bên cạnh đó, dưới tác động của Chỉ thị 03, mặc dù các ngân hàng đã ra sức thu hồi nợ và ngưng cho vay kinh doanh chứng khoán từ tháng 06/2007 để đảm bảo tỷ lệ cho vay kinh doanh chứng khoán xuống mức 3%, nhưng cũng khó thực hiện kịp mốc 31/12/2007 mà NHNN đã đề ra. Chỉ còn cách là phải tăng tổng dư nợ, và không ít ngân hàng đã tung ra chương trình tín dụng bất động sản với thời hạn cho vay dài và lãi suất ưu đãi, càng đẩy cầu vốn cho khách hàng tăng mạnh. Mặt khác, lãi suất cao còn là vấn đề của lạm phát cao, theo Tổng cục Thống kê thì tỷ lệ lạm phát trong năm 2007 ở mức cao là 12.63% so với năm 2006 chỉ có 6.6%.. Để tránh tình trạng lãi suất thực âm, không thể hấp dẫn người gửi tiền trong bối cảnh lạm phát tăng cao, các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động. Ngoài ra, lạm phát tăng cao khiến cho NHNN tăng cường biện pháp thắt chặt tiền tệ, cụ thể là 28/5/2007 NHNN quyết định tăng tỷ lệ DTBB lên gấp đôi so với trước đó (từ 5% lên đến 10%) và có hiệu lực từ tháng 6/2007. Động thái này làm tăng chi phí hoạt động của các NHTM, từ đó gây sức ép tăng lãi suất lên. Về phía lãi suất cho vay, nhìn chung cũng có sự gia tăng so với năm 2006. Có hai nguyên nhân chủ yếu: một là, dưới áp lực từ việc tăng lãi suất huy động như đã phân tích trên buộc các NHTM không thể nào giữ mức lãi suất cho vay quá thấp, điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng; hai là, do sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế sau khi gia nhập WTO, nhu cầu vốn cho doanh nghiệp cũng như nhu cầu đầu tư rất lớn do đó việc gia tăng mặt bằng lãi đôi chút cũng không thể là suy giảm nhu cầu này được. NĂM 2008 Ngược lại với năm 2007, thị trường ngân hàng chứng kiến sự bùng nổ về tăng trưởng tín dụng, thì năm 2008 sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngân hàng. Trong năm này thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về lãi suất. Trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà không có người cho vay. Trên thị trường tiền tệ các NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Chỉ trong có 1 tuần một số NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần.  Nhìn tổng thể, có thể chia ra hai giai đoạn biến động của lãi suất: Giai đoạn 1 là cuộc chạy đua tăng lãi suất trong 7 tháng đầu năm. Giai đoạn 2 là xu hướng giảm dần trong các tháng cuối năm. Biểu đồ lãi suất huy động và cho vay bình quân năm 2008 sau cho ta thấy một cái nhìn toàn cục về tình hình biến động lãi suất suốt năm 2008. Biểu đồ 2: Biểu đồ lãi suất huy động và cho vay bình quân Nguồn: Tổng hợp Ở giai đoạn 1, có thể nói lãi suất huy động và cho vay biến động mạnh nhất từ trước tới nay. Lãi suất huy động bình quân từ mức 8.8%/năm vào tháng 1, gia tăng liên tục và đạt mức 17.7%/năm vào tháng 7. Lãi suất cho vay bình quân cũng gia tăng không kém, từ 12.6%/năm vào đầu năm lên 20.5%/năm vào tháng 7 với đỉnh điểm cao nhất là 21%/năm vào tháng 6. Cuộc chạy đua lãi suất huy động bùng phát lúc đầu tháng 01/2008 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 02/2008. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm. Một bất cập xảy ra trên thị trường tiền tệ là có lúc lãi suất huy động kỳ hạn ngắn hạn lại cao hơn lãi suất huy động kỳ hạn dài. Sau nhiều biện pháp của NHNN như điều chỉnh tăng thêm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc kể từ ngày 01/02/2008, điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, bắt buộc các TCTD mua 20,300 tỷ đồng tín phiếu NHNN theo mức phân bổ cụ thể từ ngày 17/3/2008…cuộc chạy đua lãi suất tưởng chừng không thấy hồi kết thì đến ngày 19/5/2008, NHNN trở lại với cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản, lãi suất cơ bản được nâng từ 8.75%/năm lên 12%/năm và lên 14%/năm (từ ngày 11/6/2008). Sau khi áp dụng cơ chế này, lãi suất cho vay đối với khách hàng được khống chế ở mức 150% lãi suất cơ bản của NHNN. Tình hình của các NHTM lúc này vẫn hết sức u ám, khi mức chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất thấp không đủ bù đắp các khoản chi phí phát sinh. Để đối phó, các NHTM bắt đầu thu phí dịch vụ tín dụng đối với các khoản vay. Đến cuối tháng 6 năm 2008, các NHTM mới ngừng thu tất cả các loại phí liên quan đến khoản cho vay đối với khách hàng theo chỉ thị của NHNN, mức lãi suất cho vay phổ biến lúc này ở mức 20% - 21%/năm. Tuy nhiên sau đó, lãi suất huy động liên tục được đẩy lên cao. Nhiều NHTM thay đổi lãi suất 3 đến 4 lần trong 1 tuần, và tình trạng này diễn ra ở cả những NHTMCP tốp đầu và các NHTMNN. Lý giải cho hiện tượng này, nhiều NHTM cho rằng họ buộc phải thay đổi theo thị trường nhằm ngăn chặn tình trạng rút tiền ở ngân hàng có mức lãi suất thấp và gửi sang ngân hàng có mức lãi suất cao hơn. Cuối cùng NHNN đã sử dụng biện pháp điều thanh tra đến các NHTM, nhờ đó lãi suất mới bắt đầu hạ nhiệt. Tóm lại, có thể tổng kết nguyên nhân của cuộc chạy đua lãi suất này là do: + Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm 2008 của Ngân hàng Nhà nước gắn liền với sự căng thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là những NHTM nhỏ, thiếu thanh khoản, đầu tư rủi ro buộc họ phải tăng lãi suất chóng mặt, cơn sốt lãi suất này nhanh chóng kéo theo cả các ngân hàng lớn tăng lãi suất nhằm giữ khách hàng. Nhiều NHTM bên cạnh việc tăng lãi suất còn đưa ra một số hình thức huy động vốn hấp dẫn khác, như: quay số dự thưởng với trị giá các giải thưởng bằng hiện vật lên tới hàng tỷ đồng, khách hàng được rút tiền bất kỳ lúc nào có nhu cầu nhưng được hưởng lãi suất có kỳ hạn, lãi suất luỹ tiến theo số tiền gửi, lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn...nhiều ngân hàng đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm. + Lãi suất huy động tăng tất yếu dẫn đến lãi suất cho vay tăng để đảm bảo thu nhập cho ngân hàng. Đây cũng là giai đoạn mà hoạt động cho vay của nhiều NHTM cầm chừng vì lãi suất cho vay phụ thuộc phần lớn vào lãi suất huy động. Doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng, cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%). Một điểm đáng chú ý trong cuộc chạy đua lãi suất này là xuất phát điểm luôn là các NHTMCP nhỏ rồi kéo theo các NHTMCP lớn và NHTMNN vào cuộc. Tốc độ tăng lãi suất của các NHTMCP nhỏ luôn cao nhất thể hiện qua biểu đồ sau: Biểu đồ 3: Lãi suất huy động VND bình quân của các nhóm ngân hàng giai đoạn 2006-2008 Tương tự với lãi suất huy động thì tốc độ tăng của lãi suất cho vay cũng luôn đựơc dẫn đầu bởi các NHTMCP nhỏ: Biểu đồ 4: Lãi suất cho vay VND bình quân của các nhóm NHTM giai đoạn 2006-2008 Ngược lại, bước sang giai đoạn 2, từ cuối tháng 7, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của NHNN và với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào. Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng trong những tháng cuối năm. Đi cùng với quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của NHNN, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá. Tính đến cuối năm, lãi suất cơ bản ở mức 8.5%/năm, lãi suất chiết khấu ở mức 7.5%, lãi suất tái cấp vốn 9.5%/năm. Biểu đồ 5: lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn 12 tháng năm 2008 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Gắn với những điều chỉnh này, mặt bằng lãi suất huy động có sự thay đổi lớn. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm, ít nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm bình quân 17.7%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc 8.6%/năm cũng là mức lãi suất thấp nhất trong năm; diễn biến cùng chiều với lãi suất huy động, lãi suất cho vay bình quân cũng giàm từ 20.5%/năm về còn 12,5%/năm. Lúc này lãi suất cho vay tối đa bằng VND của các NHTM cũng giảm tương ứng. Hầu hết các NHTM đã giảm mức lãi suất này từ 0.5% - 1% so với mức tối đa theo quy định của NHNN. Bảng 3: Lãi suất huy động và cho vay bình quân của các NH năm 2007 và 2008  Các Ngân hàng Lãi suất huy động bình quân Lãi suất cho vay bình quân Năm 2007 Năm 2008 Năm 2007 Năm 2008 Bình quân khối NHTMNN 6.57% 13.19% 9.68% 16.10% Bình quân khối NHTMCP lớn 7.61% 14.23% 10.98% 17.09% Bình quân khối NHTMCP nhỏ 8.74% 15.61% 12.71% 18.39% Bình quân ngành 7.91% 14.63% 11.48% 17.47% Nguồn: Tổng hợp So với năm 2007, lãi suất huy động bình quân toàn ngành năm 2008 là 14.63%, tăng gấp 2 lần. Trong đó, nhóm NHTMCP nhỏ vẫn luôn đi đầu trong việc hấp dẫn các nhà đầu tư. Mức lãi suất mà ngân hàng này đưa ra bao giờ cũng cao hơn nhóm NHTMCP lớn và cách xa các NHTMNN. Đặc biệt, lãi suất tiền gửi các kỳ hạn ngắn và cực ngắn luôn tồn tại với mức lãi suất cao. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay năm 2008 tăng cao trong một thời gian khá dài, đến cuối tháng 7 mới bắt đầu hạ nhiệt dần dần. Chính sách lãi suất tiền vay của các nhóm ngân hàng cũng tương tự như chính sách về lãi suất tiền gửi. Vì lãi suất huy động quá cao nên các NHTMCP quy mô nhỏ buộc phải nâng cao lãi suất cho vay để bù đắp chi phí, lãi suất cho vay trung bình của nhóm này trong năm 2008 là 18.39%, cao hơn mức lãi suất cho vay trung bình 17.47% của toàn ngành và 17.09% của các NHTMCP có quy mô lớn. Nhóm NHTNN vẫn là nhóm ngân hàng có mức lãi suất cho vay thấp hơn hết, lãi suất cho vay trung bình của nhóm này là 16.1%, thấp hơn lãi suất trung bình ngành là 1.37%. Mặc dù lãi suất cho vay của các ngân hàng tăng nhưng mức tăng lên của lãi suất cho vay không đủ bù đắp cho những chi phí tăng vọt cho các khoản huy động và các chi phí liên quan nên chênh lệch lãi suất bình quân năm 2008 của các NHTM giảm đáng kể. Nhìn vào biểu đồ sau có thể thấy chênh lệch lãi suất ngày càng bị rút ngắn: Biểu đồ 6: Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của các nhóm NHTM giai đoạn 2006-2008 Nguồn:Tổng hợp Đóng góp không nhỏ vào tình trạng này là nhóm các NHTMCP nhỏ. Vì không thể cạnh tranh với các ngân hàng khác về uy tín nên giải pháp duy nhất của các ngân hàng này là cạnh tranh về giá. Các NHTMCP nhỏ huy động tiền gửi với lãi suất cực cao nhưng không thể cũng cho vay với lãi suất cực cao (do NHNN áp trần lãi suất cho vay và do vấn đề cạnh tranh) nên chênh lệch lãi suất của nhóm ngân hàng này sụt giảm lớn so với thời kỳ huy hoàng của hoạt động tín dụng vào năm 2007. Tiếp đến là nhóm NHTMCP lớn. Mặc dù không khó khăn về thanh khoản trầm trọng như các NHTMCP nhỏ nhưng các NH này không thể ngồi im nhìn nguồn vốn huy động của mình dần chảy ngược về các ngân hàng top nhỏ nên buộc phải tăng lãi suất theo để cạnh tranh. Chi phí huy động tăng lên quá cao làm cho chênh lệch lãi suất bình quân giảm xuống. Về phía các NHTMNN, mặc dù trong những cuộc đua tăng lãi suất huy động thời gian qua, các ngân hàng này không đứng ngoài cuộc. Nhưng với tiềm lực tài chính và vị thế của mình, nhóm NHTMNN đã không dâng cao lãi suất huy động theo thị trường. Sự "tỉnh táo" này hiện đang là lợi thế khiến cho các NHTMNN chủ động hơn với tín hiệu lãi suất mới của NHNN. Ngoài ra, kể cả khi lãi suất huy động bị đẩy lên cao thì khối này vẫn có lợi thế, bởi họ có nhiều nguồn vốn huy động rẻ hơn nên khi hạ lãi suất cho vay, khối ngân hàng này vẫn có thể bù đắp được. Khi chênh lệch lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay không đủ bù đắp cho những chi chí liên quan thì điều tất yếu là hầu hết các ngân hàng đều lỗ từ hoạt động cho vay năm 2008. Tỷ lệ lãi cận biên năm 2008 của các ngân hàng khá thấp, chỉ dao động khoảng dưới 3%. Tóm lại, năm 2008 là năm ghi nhận những biến động lớn của thị trường lãi suất, một cuộc chạy đua lãi suất thực sự của các NHTM. Lãi suất huy động tiền gửi tăng lên từng ngày. Theo đó, lãi suất cho vay của các NHTM cũng tăng vọt. Điều này đã tác động rất lớn đến sự tăng trưởng tín dụng của bản thân các ngân hàng. Các doanh nghiệp cũng như các khách hàng cá nhân khó mà tiếp cận được nguồn vốn vay, không phát triển sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể rút ra rằng việc tăng lãi suất huy động như đợt tăng lãi suất năm 2008 không phải là một giải pháp tối ưu để cạnh tranh. Các NHTM trong nước phải có những giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh và thị phần hoạt động. 2.2 Nhận xét chung Có thể nói, lãi suất trong thời gian qua có xu hướng tăng chưa phù hợp với quy luật. Chủ yếu, lãi suất tăng là do tác động của lãi suất trên thị trường quốc tế, do sự cạnh tranh lãi suất giữa các NHTM trong khi thị trường tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển. Đặt biệt, những diễn biến khá phức tạp và hết sức đa dạng của lãi suất trong năm 2008 là cơ hội cho Chính phủ, NHNN nhìn nhận lại khả năng quản lý, điều hành nền kinh tế của mình đã thực sự đạt được hiệu quả hay chưa, nhất là trong công tác dự báo thị trường. Bên cạnh đó còn phải nói đến năng lực quản lý, khả năng đề kháng trước những diễn biến bất lợi của thị trường đối với bản thân các NHTM, các thành phần kinh tế khác, họ đã thực sự làm tốt hay chưa. Khi mà nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thì nhất thiết Chính phủ, NHNN cần có một hành lang pháp lý thật vững chắc, hợp lý để điều hành nền kinh tế thật hiệu quả, và trong đó thì luật Ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng là rất đáng quan tâm để có những điều chỉnh đúng đắn, kịp thời. Về lâu dài, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển thị trường tiền tệ, làm cho nguồn vốn được hoạt động thông suốt để tránh hiện tượng vốn thừa ở một số ngân hàng nhưng lãi suất vẫn tăng. 3. Tác động của thực trạng lãi suất 3.1 Đối với hoạt động ngân hàng Có thể nói, lãi suất là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến lợi nhuận của hoạt động ngân hàng. Trong hai năm 2006 và 2007, thị trường tài chính Việt Nam tăng trưởng rất nóng, lãi suất huy động và lãi suất cho vay bình quân đều gia tăng. Các ngân hàng đẩy mạnh việc cho vay mua bất động sản, dư nợ tín dụng tăng cao, do đó mà lợi nhuận ngân hàng kiếm được cũng không nhỏ. Năm 2008, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, lãi suất đầu vào của NHTM tăng cao trong phần lớn thời gian của năm, cộng với chi phí cao do tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh và chi phí bù lỗ cho việc mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, nhưng lãi suất cho vay lại tăng chậm hơn, khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đầu vào thu hẹp làm cho lợi nhuận của các NHTM rất thấp. Bảng sau cho ta thấy rõ hơn ảnh hưởng của việc lãi suất tăng cao trong năm 2008 ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các ngân hàng như thế nào. Hầu hết các ngân hàng đều có ROE, ROA, NIM trong năm 2008 thấp hơn năm 2007, trong khi đó tỷ lệ chi phí hoạt động/thu nhập hoạt động trong năm này lại cao hơn so với hai năm trước. Bảng 4: Bảng tỷ suất sinh lời và tỷ lệ chi phí hoạt động/doanh thu hoạt động của một số ngân hàng ROA ROE Chi phí hoạt động/Doanh thu hoạt động 2008 2007 2006 2008 2007 2006 2008 2007 2006 BIDV 0.85% 0.89% 0.90% 16.64% 25.01% 17.23% 41.46% 30.53% 34.56% VCB 0.55% 1.10% 1.72% 9.12% 16.58% 25.86% 29.32% 27.60% 25.62% STB 1.49% 2.91% 2.08% 13.14% 25.64% 17.41% 22.52% 18.43% 22.42% TCB 1.98% 1.99% 1.89% 20.89% 22.98% 26.76% 13.96% 8.28% 16.04% EIB 1.47% 1.78% 1.74% 26.00% 27.00% 27.00% 31.85% 21.79% 31.30% SCB 1.49% 1.52% 1.36% 22.75% 23.19% 19.00% 40.07% 39.88% 39.81% ABBANK 0.37% 0.94% 1.87% 1.24% 6.52% 4.89% 43.20% 34.70% 21.89% OCEANBANK 0.32% 0.71% 0.94% 4.20% 8.74% 5.23% 58.02% 25.11% 25.60% SOUTHERN 0.56% 1.11% 1.59% 4.91% 8.79% 8.91% 61.91% 39.01% 35.60% Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo thường niên các ngân hàng 3.2 Đối với Doanh nghiệp Lãi suất cho vay là một trong những yếu tố cấu thành nên chi phí vốn và là chi phí đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, mọi sự biến động về lãi suất cho vay trên thị trường đều ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh hay nói cách khác là tác động trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Năm 2006, 2007 lãi suất cho vay bình quân tương ứng là 11.2%/năm và 11.4%/năm. Với mức lãi suất như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản và kinh doanh chứng khoán. Bên cạnh đó các doanh nghiệp khác cũng vay được vốn khá dễ dàng phục vụ nhu cầu vốn lưu động của mình. Bước sang năm 2008, lãi suất cho vay bình quân tăng cao chưa từng thấy, dao động trong khoảng 16% - 18%, rất ít doanh nghiệp có khả năng vay được với mức lãi suất thế này. Do vậy mà nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn không lối thoát, hoạt động sản xuất kinh doanh ngừng trệ, có doanh nghiệp còn hoạt động thì sản xuất cầm chừng. Và đó cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng thua lỗ, thậm chí phá sản trong hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trong năm 2008. 3.3 Đối với cá nhân Hoạt động ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu là dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Chính vì vậy khi NHNN hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 30% (tháng 4 năm 2008), điều chỉnh lãi suất cơ bản 8.75% lên 14% theo Quyết định số 1317/ QĐ- NHNN có hiệu lực ngày 11/6/2008, đã đẩy các NHTM lao vào cuộc đua lãi suất tiền gửi tăng cao tác động làm tăng lãi suất cho vay, là nguyên nhân chính đẩy các khách hàng cá nhân ra khỏi hệ thống ngân, buộc họ phải đi vay với lãi suất cao trên thị trường cho vay không chính thức.. Hơn nữa, lãi suất cho vay cao không những ảnh hưởng đến người dân có nhu cầu mà còn gây khó khăn cho các món vay cũ với lãi suất thấp hơn. Lãi suất biến động nhanh như vậy gây áp lực cho người đi vay khiến họ có tâm lý không ổn định để an tâm đầu tư sản xuất. 3.4 Đối với nền kinh tế Qua phân tích những tác động của lãi suất huy động, lãi suất cho vay đối với hoạt động của các ngân hàng, doanh nghiệp, cũng như các cá nhân ta có thể thấy tầm quan trọng của lãi suất đối với nền hinh tế như thế nào, đặc biệt sự tăng trưởng kinh tế đối với một nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay. Trong năm 2008, mặt bằng lãi suất trên thị trường tài chính nói chung tăng đột biến, nên nhiều doanh nghiệp, cá nhân không vay được vốn, buộc phải giảm quy mô sản xuất, thu nhập theo đó giảm sút. Do vậy, sức chi tiêu của người dân cũng giảm, làm cho GDP giảm, và từ đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước. Nếu như GDP trong năm 2006 là 8,17%, năm 2007 là 8,48% - được xem là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, thì sang năm 2008 thì tốc độ này chỉ còn 6,23% - đây được xem là mức thấp nhất trong thập kỷ qua. Như vậy, lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng của một nền kinh tế. Hy vọng rằng trong những năm tới, NHNN cũng như Chính phủ sẽ có những biện pháp, những chính sách đúng đắn ổn định nền kinh tế để lãi suất không còn là vấn đề nan giải mà nhiều người phải lo lắng như trong năm qua. 4. Nhận định xu hướng lãi suất năm 2009 Năm 2008 được đánh giá là một năm đầy sóng gió với ngành ngân hàng, khi phải đối mặt với nhiều rủi ro và biến động khó lường của lãi suất. Chặng đường năm 2009 theo dự báo của NHNN là còn nhiều cam go, thử thách phía trước. Một trong những khó khăn lớn nhất của các ngân hàng trong giai đoạn đầu năm 2009 là lãi suất cho vay chỉ còn xoay quanh mức 10%/năm. Biểu đồ 7: Lãi suất huy động bình quân, lãi suất cho vay bình quân và chênh lệch lãi suất bình quân 5 tháng đầu năm 2009 Nguồn: Báo cáo phân tích ngành ngân hàng của BVSC Nhìn chung hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ trong nước trong 3 tháng đầu năm 2009 rất ổn định biểu thị qua mức lãi suất cho vay và huy động bình quân của hệ thống các NHTM không có sự tăng giảm nào đáng kể. Thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ của Chính phủ, những ngày đầu năm 2009, lãi suất cả cho vay và huy động được duy trì ở mức thấp. Tình hình này sẽ giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với vốn vay ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó, các khoản vay sẽ được giám sát kỹ hơn do di chứng và bài học từ khủng hoảng 2008 để lại. Một phần nữa là do sự ràng buộc bởi lãi suất cơ bản ở mức 7% do đó lãi suất cho vay bằng VND của khối NHTM không có nhiều biến động và duy trì ở mức khá thấp, lãi suất cho vay bình quân tháng 1 và tháng 2 là 9.89%/năm, tháng 3 là 9.95%/năm. Đặc biệt đối với các khoản vay được hỗ trợ lãi suất theo gói kích cầu của Chính phủ lãi suất chỉ còn ở mức 4-6%/năm. Mặt khác, các ngân hàng đang bị khống chế trần lãi suất cho vay, vì thế dù muốn nhưng cũng chỉ tăng nhẹ lãi suất huy động và chuyển sang thu hút vốn bằng khuyến mãi. Do đó, lãi suất huy động suốt quý 1 chỉ gia tăng nhẹ, lần lượt là 7.15%/năm, 7.21%/năm, 7.28%/năm tương ứng qua tháng 1, 2 và 3. Như vậy trong quý 1, tình hình huy động và cho vay không mấy khả quan, nhưng sau một thời gian dài duy trì ở mức thấp, từ tháng 4 các ngân hàng thương mại bắt đầu tăng lãi suất huy động. Lãi suất huy động bình quân tăng 0.29%/năm, đạt mức 7.57% /năm so với tháng 3. Có hai nguyên nhân khiến cho các ngân hàng tăng lãi suất huy động: + Thứ nhất, các ngân hàng đang cần tiền để chuẩn bị cho gói kích cầu thứ hai cho vay theo chương trình hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn của Chính phủ. Do đó, các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi là nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của ngân hàng trong thời gian tới, khi nhu cầu tín dụng đang có dấu hiệu phục hồi. Hơn thế nữa, sức ép cạnh tranh, khi có một ngân hàng tăng lãi suất, buộc các ngân hàng khác cũng phải có ngay biện pháp để giữ chân khách hàng của mình và vì thế việc tăng lãi suất huy động là không thể tránh khỏi. + Thứ hai, nguồn tiền không còn chảy vào ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSo sánh xu hướng lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các nhtm tại tphcm.doc
Tài liệu liên quan