MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT
I. Khái niệm lãi suất
II. Phân loại lãi suất
III. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1. Lãi suất với quá trình huy động vốn
2. Lãi suất với quá trình đầu tư
3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất khẩu
5. Lãi suất với lạm phát
6. Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
7. Vai trò của lãi suất đối với ngân hàng thương mại
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ LÃI SUẤT NĂM 2011
I. Quý I năm 2011
II. Quý II năm 2011
III. Quý III năm 2011
IV. Quý IV năm 2011
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO LÃI SUẤT NĂM 2012
I. Diễn biến lãi suất hai tháng đầu năm
II. Dự báo lãi suất 2012
1. Dự báo trong 6 tháng đầu năm
2. Dự báo trong 6 tháng cuối năm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4175 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự biến động lãi suất của Việt Nam trong năm 2011 và dự báo lãi suất năm 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ãi suất ngoại tệ: Là lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ.
Căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế
Lãi suất trong nước (Lãi suất địa phương): Là lãi suất áp dụng cho các hợp đồng tín dụng trong một quốc gia.
Lãi suất quốc tế: Là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng quốc tế.
Các hợp đồng tín dụng quốc tế áp dụng mức lãi suất của thị trường quốc gia nào thì lãi suất của quốc gia đó trở thành lãi suất quốc tế.
VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
Lãi suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn và thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với Việt Nam, trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích lũy và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế. Việc đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, và sử dụng hiệu quả vốn ngoài nước là rất quan trọng trong chiến lược công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích lũy cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể:
Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay < Tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn (Đối với cả tiền gửi và tiền vay).
Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất thấp, các doanh nghiệp có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại, khi lãi suất cao thì họ sẽ cân nhắc kỹ hơn việc đầu tư mở rộng.
Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán hay gửi tiền vào ngân hàng nếu lãi suất cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị định trệ, hàng hóa ứ đọng và hạ giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất (vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư), sự chênh lệch đó sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
Có thể nói rằng đầu tư và lãi suất có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.
Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhâp của mỗt hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng hóa lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hóa nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn; khi lãi suất cao sẽ đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động suất khẩu
Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì tỷ giá tăng. Khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại.
Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình xuất nhập khẩu: Khi lãi suất thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên, tỷ giá đối đoái cao hơn làm hàng hóa của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn và hàng hóa nước ngoài ở nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng.
Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng: Khi lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch chuyển sang phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu sẽ trở nên rẻ hơn so với các quốc gia khác.
Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm phát. Fishes đã chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do đó lãi suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát. Cụ thể là việc tăng lãi suất sẽ thu hẹp được lượng tiền trong lưu thông, từ đó lạm phát được kìm chế.
Tuy nhiên, việc dùng lãi suất để chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì nó sẽ làm giảm đầu tư, tổng cầu và sản lượng. Do vậy phải áp dụng kết hợp với các công cụ khác một cách có hiệu quả.
Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế thị trường cho thấy giá cả đóng vai trờ cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực giữa các ngành kinh tế. Như chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu từ vào một ngành kinh tế, một dự án hay một tài sản nào đó, chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét việc đầu tư này có mang lại lợi nhuận hay không và có đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Nói cách khác, khi quyết định đầu tư, ta phải quan tâm tới chênh lệch giữa lợi nhuận đem lại với số tiền vay phải trả. Khi chênh lệch này là dương thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó, đó là sự phân bổ có hiệu quả.
Vai trò của lãi suất đối với Ngân hàng thương mại(NHTM)
Hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của NHTM là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của mình. Với phương châm: “ đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm thời nhãn rỗi trong các doanh nghiệp và hộ gia đình để cho vay phát triển kinh tế và các nhu cầu tiêu dùng khác của người dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải xác định lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp thì không thể khuyến khích các danh nghiệp và hộ gia đình gửi tiền vào, dẫn đến NHTM không đủ vốn đề đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có lãi hoặc lãi quá thấp sẽ thi hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt động để gửi vốn vào ngân hàng.
Lãi suất ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM và khách hàng. Nếu lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triền và ngược lại. Bởi vậy, lãi suất vừa là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các NHTM.
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ LÃI SUẤT NĂM 2011
Năm 2010 đã để lại vô vàn khó khăn, đặc biệt là những bất ổn về kinh tế vĩ mô cho năm 2011. Kinh tế thế giới sau hai năm lâm vào suy thoái đã phục hồi trở lại nhưng không vững chắc, và không đồng đều giữa các khu vực. Lạm phát và giá cả hàng hóa có xu hướng tăng cao, thị trường tài chính thế giới biến động phức tạp. Khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng Euro lan rộng, nợ công ở nhiều nền kinh tế chủ chốt tăng cao tới mức nguy hiểm. Thêm vào đó là đồng đô-la Mỹ biến động mạnh, giá vàng tăng cao ký lục. Những diễn biến kinh tế, tài chính thế giới nêu trên tác động không nhỏ tới diễn biến kinh tế vĩ mô trong nước cộng hưởng với những yếu kém nội tại làm cho bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2011 không mấy sáng sủa, đặc biệt là cú sốc về lãi suất.
Quý I năm 2011
Vào khoảng hơn một tháng cuối năm 2010, lãi suất đồng Việt Nam liên tục biến động theo chiều hướng tăng. Lãi suất huy động VND đã tăng vọt từ 11-11.5% lên đến trên 17%/ năm ở một số ngân hàng thương mại với những kỳ hạn ngắn. Đồng thời lãi suất cho vay VND cũng leo thang từ 13-14% lên 19-21%/ năm tùy từng loại khoản vay.
Sang đến quý I năm 2011, lãi suất huy động vốn VND đã trở nên ít biến động hơn so với cuối năm 2010 và phổ biến ở mức 13.5- 14%/năm, lãi suất cho vay tăng khoảng 1-1.5%/ năm và duy trỳ ở mức bình quân là 16.23%/ năm: lãi suất cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở mức 14-16%/ năm, lĩnh vực phi sản xuất là 18-22%/ năm.
Ngày 3/3, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN quy định lãi suất huy động vốn tối đã bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Như vậy, cam kết thực hiện trần lãi suất tháng 12/2010 của các ngân hàng thương mại qua giám sát thực hiện của Ngân hàng Nhà nước đã chính thức được thực hiện cụ thể bằng một văn bản quy phạm pháp luật. Theo thông tư này, tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động vốn bằng VND của các tổ chức (trừ các tổ chức tín dụng) và cá nhân bao gồm các khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/ năm; riêng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn bằng VND không vượt quá 14.5%/ năm.
Đầu năm 2011, thị trường lãi suất USD bắt đầu nóng lên. Từ khoảng giữa tháng 1, các ngân hàng đều nâng lãi suất huy động USD lên mức 5.3- 6.24%/ năm, tăng khoảng 0.4- 1% so với cuối năm 2010. Cụ thể là: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Tây (Western Bank) 5,5%/ năm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), 5,3%/ năm, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thương Tín (VietBank) 6%/ năm, cao nhất là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Việt (Navibank) với 6,24%/ năm.
Việc tăng lãi suất huy động USD có nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ nhu cầu vay vốn bằng USD ở mức cao. Việc chênh lệch lăi suất cho vay bằng VND và USD có thể được xem là nguyên nhân chủ yếu của nhu cầu này. Các doanh nghiệp vay USD chỉ phải trả lãi 6-7%/ năm, nhưng khi vay bằng VND, họ phải trả lãi lên đến 20-22%/ năm. Thêm vào đó, các ngân hàng thương mại cũng thu được lợi nhuận từ tỷ giá và lãi suất, nên càng muốn thu hút USD.
Ngày 8/3/2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 379/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng. Theo quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng là 12,0%/ năm, lần thứ hai kể từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước tăng một số loại lãi suất điều hành. Lần trước, ngày 17/2, mức tăng lãi suất tái cấp vốn là từ 9%/năm lên 11%/năm.Trong lần điều chỉnh này, lãi suất tái chiết khấu được tăng mạnh, từ 7%/năm lên 12%/năm. Như vậy. ngay từ đầu năm, NHNN đã tăng các lãi suất cơ bản, thể hiện rõ quyết tâm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát.
Trong những ngày cuối Quý I/2011, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng và giao dịch ở mức khoảng 16-18%/năm, chủ yếu kỳ hạn dưới 1 tháng; lãi suất 1 tuần ở mức 18-20%/năm. Nguyên nhân là tính đến cuối tháng 3/2011, nợ xấu toàn hệ thống tăng cao so với cuối năm 2010. Đặc biệt, nợ nhóm 3 tăng khoảng 38%, nợ nhóm 4 tăng gần 30%, nợ nhóm 5 tăng 12%. Tính thanh khoản của hệ thống giảm do không thu hồi được nợ.
Quý II năm 2011
Ngay trong những ngày đầu tháng 4/2011, thị trường bắt đầu chứng kiến cuộc đua tăng lãi suấttiền không kỳ hạn của hàng loạt các ngân hang. Và một hiện tượng mới đã xuất hiện trên thị trường lãi suất chỉ ít ngày sau khi NHNN ban hành quy định các khoản tiền rút vốn trước hạn chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn thay vì để các ngân hang tự quyết như trước: Lãi suất huy động vốn không kỳ hạn bị đẩy lên những mức rất cao (9-10%) thay cho mức 2-3% như trước đây. Quyết định này vô tình đẩy thị trường huy động vào một cuộc đua mới, gây rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống ngân hàng. Bởi nguồn vốn không kỳ hạn vốn chiếm một tỉ trọng khá lớn trong cơ cấu huy động của một số ngân hàng, thậm chí có thể lên tới 10-40% tổng nguồn vốn huy động vì thường là khoản tiền gửi thanh toán với giá trị lớn của các doanh nghiệp. Diễn biến này vào thời điểm ấy đã đưa đến quan ngại rằng cuộc đua lãi suất không kỳ hạn có thể mang đến những bất ổn cho thị trường tiền tệ.
Trong khi đó, động thái tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng lên đến 13% kể từ đầu tháng 4, từ mức 12% trước đó cũng đã tạo nên những tác động khác. Chưa kể đây là lần thứ ba NHNN tăng lãi suất tái cấp vốn với tổng mức điều chỉnh là 4%, từ 9% lên 13%. Việc tăng lãi suất này đã có tác động tiêu cực tới mặt bằng lãi suất trong ngắn hạn, là yêu tố gây mất ổn định thị trường tiền tệ, dù rằng về trung và dài hạn sẽ góp phần nâng cao việc quản trị thanh khoản trong toàn hệ thống ngân hàng.
Đến ngày 29/4, NHNN đã công bố quyết định điều chỉnh các lãi suất điều hành quan trọng là lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Kể từ ngày 1/5/2011, lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng lên 14%/năm thay cho mức 13%/năm áp dụng từ ngày 1/4. Đây được coi là một thông điệp khác về thắt chặt chính sách tiền tệ nhằm góp phần kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên, lãi suất cho vay vẫn còn ở mức rất cao: Trung bình từ 18-19%/năm, cao nhất đạt 25%/năm. Các doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn, sản xuất đình trệ, đặc biệt là doanh nghiệp trong lĩnh vực phi sản xuất. Vì vậy, tuy nợ xấu vẫn còn, nhưng do NHNN 2 lần bơm tổng cộng 17-18 nghìn tỉ nên tính thanh khoản của ngân hàng được cải thiện. Tín dụng liên ngân hàng giảm nhẹ về lãi suất.
Ngày 9/4, NHNN đã ban hành Thông tư số 09/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng USD của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng. Trong đó, lãi suất huy động USD đối với các cá nhân hầu hết được kéo thẳng 3%/ năm ở tất cả các kỳ hạn (ngoại trừ qua đêm và kỳ hạn tính theo tuần). Như vậy, sau trạng thái “đường cong lãi suất” bị kéo thẳng nhiều lần ở tiền gửi VND, hoạt động ngân hàng tại Việt Nam lại có thêm trạng thái tương tự ở lãi suất huy động USD. Theo đó, khái niệm kỳ hạn ngắn và dài gắn với các mức lãi suất cao - thấp trở nên mờ nhạt; khái niệm biến động lãi suất huy động theo bảng niêm yết trong ngắn hạn cũng trở nên mờ nhạt.
Tháng 6, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội họp và thừa nhận thông tin, cho thấy lãi suất huy động VND bình quân của các ngân hàng thương mại là khoảng từ 15% - 15,5%/năm, được đề cập một cách chính thức từ báo cáo của cơ quan chức năng. Thực tế, tại các địa phương, lãi suất huy động ngầm có khi lên đến 19%/năm (UBND tỉnh Tiền Giang). Vì vậy. ngay lập tức,ngày 16/6/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có Công văn số 4605/NHNN-CSTT về lãi suất huy động và cho vay bằng đồng Việt Nam gửi các tổ chức tín dụng và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam. Đây là động thái “nhắc nhở” các ngân hàng về trần lãi suất của NHNN Việt Nam.
Quý III năm 2011
Mở đầu quý III là việc lãi suất liên ngân hàng VND kỳ hạn qua đêm đã tăng từ 12% - 12,5%/năm lên 13% - 13,5%/năm, trong khi các kỳ hạn khác không thay đổi nhiều và được duy trì ở mức 13% - 14%/năm với kì hạn 1 tuần, 13,5% - 15%%/năm đối với kì hạn 2 tuần và 14,5% - 16%/năm đối với kì hạn 1 tháng. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là vì những khoản vay tái cấp vốn đáo hạn bắt đầu từ cuối tháng 7, bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã hút ròng 9.000 tỷ đồng do nhận thấy sự dư thừa thanh khoản. Tuy nhiên, ngày 1/8/2011 đã ghi nhận việc giảm lãi suất qua đêm trên liên ngân hàng xuống dưới mốc 12%/năm (11,64%/năm). Sự ổn định và có dấu hiệu giảm nói trên của lãi suất này tiếp tục góp phần cho thấy thanh khoản của hệ thống ngân hàng đang tốt.
Tháng 7 đã ghi nhận việc vượt trần lãi suất của các ngân hàng, không chỉ trong huy động VND mà còn lan sang cả USD, cao hơn mức 3% /năm quy định. Lãi suất cho vay vẫn ở mức rất cao, lên đến 25%/năm, đồng USD lên tới 6-8%/năm. Nguyên nhân là do lạm phát tăng cao (lên tới 22%), vì vậy lãi thực âm, khó huy động vốn. Nhưng đến cuối tháng 8, lãi suất giảm dần, cụ thể lãi suất huy động ngầm từ 16-17%năm, lãi suất cho vay là 20-22%/năm. Tuy nhiên vẫn còn ở mức rất cao.
Tháng 9 nổi bật với việc các “ông lớn” vào cuộc giảm lãi suất. Ngay sau cuộc họp toàn ngành ngày 7/9 của NHNN, với chỉ thị rõ ràng từ Thống đốc NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm cơ chế và mức trần lãi suất huy động VND và USD hiện nay và kèm theo thông điệp quyết liệt giám sát và chế tài xử lý mạnh đối với các trường hợp vi phạm, các ngân hàng đã lần lượt áp lại trần lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay xuống 17-19%/năm. Cụ thể ngân hàng Hàng Hải (Maritime Bank) mức lãi suất VND ngắn hạn áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất tối thiểu là 17,5%/năm, tối đa là 19%/năm; đối với các khoản vay trung - dài hạn là 18,5%/năm và 20%/năm; lãi suất chiết khấu USD cũng giảm 0,5% xuống còn 8,0%/năm, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) lãi suất cho vay ngắn hạn không quá 18,0%/năm; cho vay trung dài hạn không quá 19,0%/năm, các ngân hàng Habubank, TienphongBank, Saccombank, SHB, VPBAnk, ABBank, Eximbank VietinBank, Vietcombank, MHB, MB, LienVietPostBank, Maritime Bank… đều có chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi, từ 17-19%/năm. Đến 8/9, có 34/42 ngân hàng thương mại ban hành văn bản chỉ đạo trong toàn hệ thống về việc chấp hành đúng quy định về trần lãi suất huy động bằng VND và USD.
Quý IV năm 2011
Ngày 12/10, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) tổ chức họp hội viên, 23 đơn vị cùng ký cam kết thực hiện nghiêm trần lãi suất tiền gửi VND theo Thông tư 30, theo đó ấn định lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng là 6%/năm; lãi suất từ 1 tháng trở lên: 14%/năm. Đồng thời, mức lãi suất chỉ tính theo phương thức trả lãi cuối kỳ, mọi phương thức trả lãi khác đều quy đổi theo phương thức trả lãi cuối kỳ.
Sau một thời gian dài ổn định, lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng bắt đầu biến động mạnh. Diễn biến này đến ngay sau khi việc điều chỉnh một số lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực. Trong các ngày 11 và 12/10, lãi suất giao dịch trên thị trường này tại các kỳ hạn ngắn như qua đêm, 1 tuần, 1 tháng đều tăng rất mạnh so với trước đó. Lãi suất qua đêm các mức cao đã lên tới trên dưới 16%/năm, 1 tuần quanh 18%/năm và 1 tháng ở khoảng 20%/năm. Nguyên nhân có thể do tác động từ vụ lừa đảo với số tiền lên tới khoảng 5.000 tỷ đồng hoặc do một số ngân hàng nhỏ gặp khó khăn trong huy động, lượng giấy tờ có giá hạn chế để có thể cầm cố, tái chiết khấu nên buộc phải vay trên liên ngân hàng với lãi suất cao. Tuy nhiên, NHNN vẫn khẳng định tính thanh khoản của hệ thống vẫn rất tốt, thậm chí dư thừa.
Lãi suất cho vay tuy giảm, nhưng lãi suất chưa thể giảm đại trà và khả năng tiếp cận tín dụng cũng không phải dễ. Trong bối cảnh nợ xấu gia tăng, các ngân hàng cũng khá thận trọng cho vay tín dụng, mức lãi suất 17% - 19%/năm vẫn là mức tương đối cao nên các điều kiện tiếp cận cũng khá khắt khe.
Cuối năm đã ghi nhận sự biến động của lãi suất huy động vàng và ngoại tệ. Cụ thể, 3,2%/năm là mức lãi suất huy động vàng cao nhất trên biểu niêm yết. Tại một số ngân hàng thương mại cổ phần, những mức lãi suất cao áp dụng cho chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn bằng vàng hiện cũng đã khá phổ biến từ 2,5% - 2,7%/năm. Cùng với diễn biến trên, thị trường cũng đón nhận những biến động đáng chú ý của lãi suất các ngoại tệ “lạ”. Ví dụ Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) lãi suất huy động EUR cao nhất đã lên 3%/năm ở kỳ hạn 12 tháng; còn với CAD cao nhất là 1%/năm ở các kỳ hạn từ 3 – 12 tháng.Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB), lãi suất huy động EUR cao nhất cũng đã ở mức 4%/năm cho các kỳ hạn từ 12 – 24 tháng. Tại TinNghiaBank các kỳ hạn từ 12 – 24 tháng ở mức 3,1% - 3,2%/năm…Nguyên nhân là do khó khăn trong huy động VND, mức huy động toàn ngành đã giảm liên tiếp trong 2 tháng.
Có thể nói sự biến động lãi suất trong năm 2011 đã gây nên một cú sốc lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp.
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO LÃI SUẤT NĂM 2012
Diễn biến lãi suất hai tháng đầu năm
Ngân hàng Nhà nước vừa phát đi thông báo về hoạt động hệ thống ngân hàng trong tháng 1/2012. Qua đó, Ngân hàng Nhà nước cho biết, lãi suất cho vay VND đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở mức 14,5-17%/năm, thấp nhất 13,5%/năm; lãi suất cho vay sản xuất - kinh doanh khác khoảng 17-20%/năm, thấp nhất 15%/năm; lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất khoảng 22-26%/năm.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tín dụng tính đến ngày 17/02/2012 giảm 0,79% so với cuối năm 2011, trong đó tín dụng bằng VND giảm 0,21%, tín dụng bằng ngoại tệ giảm 2,93%. Tuy nhiên tổng phương tiện thanh toán tăng 0,74% so với cuối năm 2011. Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến 17/01/2012 giảm 3,29% so với cuối năm 2011.
Nhìn chung, trong hai tháng vừa qua vẫn chưa có biến động mạnh về lãi suất
Dự báo lãi suất năm 2012
Bước sang năm 2012, kỳ vọng giảm lãi suất vẫn còn đó, cái khó vẫn còn đó. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giới hạn chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp, lần lượt từ 15 - 17% và 14 - 16%. Tại phiên họp Chính phủ mở rộng cuối tháng 12/2011, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cũng đưa ra tính toán rằng: 10 năm qua tăng trưởng tín dụng bình quân mỗi năm là 29,4%, những năm gần đây bình quân là 33%, khi khống chế xuống dưới 20% “thì rõ ràng” ít nhất 10% doanh nghiệp không tiếp cận được vốn ngân hàng. Cung tiếp tục hạn chế ở mức thấp, cầu dự báo vẫn tiếp tục ở mức cao, và bài toán giảm lãi suất không chỉ phụ thuộc ở lạm phát.
Tuy nhiên, như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói: “Mục tiêu quan trọng nhất của chính phủ trong năm 2012 vẫn sẽ là ‘kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô’ “, nên việc tăng giảm lãi suất vẫn là công cụ hữu hiệu và gắn bó chặt chẽ với chỉ tiêu vĩ mô này.
Dự báo trong 6 tháng đầu năm
Về việc giảm lãi suất:
Có những dấu hiệu cho thấy các ngân hàng thương mại muốn hạ lãi suất cho vay tín dụng xuống để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bởi sản xuất có phát triển thì các doanh nghiệp mới có khả năng thanh toán nợ, vì vậy nợ xấu của doanh nghiệp mới có thể giảm. Qua đó, lành mạnh hóa hoạt động của ngân hàng và tăng tính thanh khoản của hệ thống. Tuy nhiên, vẫn khó có thể nói bức tranh kinh tế của Việt Nam sẽ tốt hơn trong những tháng tới. Phóng viên Ben Bland của Financial Times đã trích phân tích của Capital Economics trong đó dự kiến Việt Nam sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng. Nhưng tổ chức này cảnh báo giảm lãi suất cho vay quá sớm có thể gây hại cho nền kinh tế mong manh của Việt Nam.
Vậy tại sao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải thận trọng?
Vấn đề là mặc dù có xu hướng đi xuống rõ ràng, lạm phát tại Việt Nam vẫn còn cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Vì vậy, cắt giảm lãi suất quá nhanh sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của cam kết của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong nỗ lưc giảm lạm phát. Yếu tố gây lo lắng khác là việc giảm lãi suất có thể gây thêm áp lực mất giá đối với tiền đồng, ông Leather của Capital Econmics nhận định. Nếu chính phủ Việt Nam buộc phải phá giá tiền đồng, có nguy cơ Việt Nam sẽ bị cuốn vào vòng luẩn quẩn vì tăng chi phí nhập khẩu sẽ gây áp lực lạm phát.
Dẫu sao thì dường như việc giảm lãi suất đã nằm trong kế hoạch của chính phủ. Chỉ mới tháng trước, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình nói sẽ xem xét để điều chỉnh lãi suất ở "mức phù hợp hơn". "Nguy cơ lạm phát vẫn rất hiện hữu trong khi chúng ta phải cố gắng làm sao để hạ lãi suất xuống. Cân đối được cái đó là bài toán rất khó đối với Ngân hàng Nhà nước," ông Bình nói với các phóng viên. Về cơ bản, giảm lãi suất và tăng tín dụng khiến nỗ lực giảm lạm phát là phi thực tế và rằng mục tiêu giảm lạm phát dưới 10% chỉ là “mục tiêu chính trị”. Thông điệp của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được đưa ra chỉ vài ngày sau hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2012, theo đó chính phủ nhấn mạnh nỗ lực kiểm soát lạm phát ở mức 9% và chỉ đạo ngành ngân hàng phải giảm lãi suất ngay từ đầu năm 2012.
Theo ông Tai Hui, Trưởng bộ phận Nghiên cứu khu vực Ðông Nam Á, trực thuộc đội Nghiên cứu toàn cầu của Ngân hàng Standard Chartered, lạm phát sẽ tiếp tục giảm từ tháng 2/2012. Việc này sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự ổn định giá cả hàng hóa thế giới và độ ổn định của VND.
Với tỷ lệ lạm phát có chiều hướng giảm, Standard Chartered kỳ vọng vào các chính sách giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước vào nửa sau của năm 2012 để phục hồi kinh tế. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn sẽ giảm từ 15% xuống 12%/năm vào cuối quý 2 và 11%/năm vào quý 3/2012.
Về việc bỏ trần lãi suất:
“Nếu bao giờ không còn những lý do để áp trần lãi suất thì lúc đó sẽ bỏ, nhưng giờ vẫn chưa giải quyết được những lý do đó”, Thống đốc nói.Cụ thể, từ năm 2010, cơ chế trần lãi suất huy động được đưa ra xuất phát từ những xáo trộn trên thị trường. Nhu cầu vốn của hệ thống ngân hàng cao, nếu để tự do thì mặt bằng lãi suất huy động cao dẫn tới lãi suất cho vay cao và doanh nghiệp khó khăn, tăng trưởng kinh tế theo đó khó đảm bảo… Và cơ chế trần đưa ra nhằm đảm bảo hệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Sự biến động lãi suất của Việt Nam trong năm 2011 và dự báo lãi suất năm 2012.doc