Lý luận giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác. Nhưng để nhận thức đúng bản chất khoa học của lý luận này cần đặt nó trong điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc(trong từng giai đoạn lịch sử nhất định). Thật vậy, hoàn cảnh lịch sử đã đổi mới, cần phải có nhận thức mới ; có như vậy, chúng ta mới có thể tìm thấy được những hợp lý của lý luận giá trị thặng dư trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay ở nước ta. Sinh thời, chính V.I.Lênin đã nói rằng : “Chúng ta không thề coi lý luận của Mác như là cái gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm ; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người XHCN cần phát triển hơn nữa mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Rõ ràng, những chỉ dẫn đó của những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã cho chúng ta thấy, những thế hệ sau Mác phải nghiên cứu, xem xét bổ sung, hoàn chỉnh chủ nghĩa Mác nói chung, lý luận giá trị thặng dư nói riêng cho phù hợp với những điều kiện, những mối quan hệ thực tế cụ thể, chứ không phải phê phán phủ nhận nó”.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14638 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đóng vai trò “hướng dẫn”, “chế định”sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định,bổ sung những mặc tích cực, hạn chế những mặc tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang những tính chất của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất là các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh
Thứ hai là giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Thứ ba là nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế điều tiết của nền kinh tế.
Thứ tư là nền kinh tế thị trường hiện nay có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế.
Mặt khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN có những đặc trưng cơ bản sau:
Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mở, hội nhập.
Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai
Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ
Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường
Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh phát triển kinh tế – kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác.
Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu
Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp
Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước.
èquy luật giá trị thặng dư trong chế độ tư bản chủ nghĩa được xem là sự bóc lột sức lao động của ngừơi lao động. Vậy trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì quy luật này còn đúng hay không? Và biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam như thế nào?
CHƯƠNG II:
SỰ BIỂU HIỆN CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Lý luận giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác. Nhưng để nhận thức đúng bản chất khoa học của lý luận này cần đặt nó trong điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc(trong từng giai đoạn lịch sử nhất định). Thật vậy, hoàn cảnh lịch sử đã đổi mới, cần phải có nhận thức mới ; có như vậy, chúng ta mới có thể tìm thấy được những hợp lý của lý luận giá trị thặng dư trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay ở nước ta. Sinh thời, chính V.I.Lênin đã nói rằng : “Chúng ta không thề coi lý luận của Mác như là cái gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm ; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người XHCN cần phát triển hơn nữa mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Rõ ràng, những chỉ dẫn đó của những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã cho chúng ta thấy, những thế hệ sau Mác phải nghiên cứu, xem xét bổ sung, hoàn chỉnh chủ nghĩa Mác nói chung, lý luận giá trị thặng dư nói riêng cho phù hợp với những điều kiện, những mối quan hệ thực tế cụ thể, chứ không phải phê phán phủ nhận nó”. [www.cpv.org.vn]
Khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, CNXH lâm vào khủng hoảng, thì các thế lực thù địch cố gắng tìm đủ mọi cách để tấn công vào chủ nghĩa Mác, nhất là lý luận giá trị thặng dư. Một số bộ phận phản động cho rằng: “Ta xây dựng CNXH bằng cách thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, thực hiện chính sách mở cửa, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển tức là nước ta thừa nhận lý luận giá trị thặng dư và bác bỏ lý luận giá trị thặng dư của Mác”.
Vậy điều đó là đúng hay sai? Như ta đã biết Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.Chứ không có nghĩa là lý luận giá trị thặng dư không còn giá trị, mà nó còn được vận dụng một cách sáng tạo vào sự nghiệp phát triển kinh tế ở nước ta. Với lại, Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ quá độ lên CNXH, nên tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Hơn nữa, kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay không hoàn toàn theo đúng nghĩa của nó nữa. Về mặt chính trị thì nó đại diện cho giai cấp tư sản. Mà kinh tế tư bản tư nhân và giai cấp tư sản thì luôn gắn liền với CNTB và chỉ tồn tại trong điều kiện có sự tồn tại của quan hệ sản xuất TBCN. Nhưng trong quá trình đổi mới ở nước ta, sự xuất hiện và phát triển các loại hình doanh nghiệp không đồng nghĩa với sự xuất hiện trở lại của quan hệ sản xuất TBCN và giai cấp tư sản. Về mặt kinh tế thì các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp ở nước ta, ngay cả các doanh nghiệp có quy mô lớn cũng vậy. Đó là một bộ phận quan trọng của quan hệ sản xuất định hướng XHCN, được hình thành và phát triển trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà nước XHCN, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, được nước ta khuyến khích bảo vệ,và không chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư.
èTóm lại, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay chẳng những không phủ nhận lý luận giá trị thặng dư mà còn giữ nguyên được giá trị của nó.Bên cạnh đó cần bổ sung, và nhận thức nó một cách đầy đủ trong bối cảnh hiện nay.
Vậy kinh tế tư bản tư nhân ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
Các loại hình doanh nghiệp của tư nhân và đội ngũ doanh nhân ở nước ta được hình thành và phát triển trong điều kiện mới, nên không hàm chứa tính chất tư bản hay bản chất tư bản như là ở xã hội tư bản. Đây là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh tất yếu, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện đại, ra đời và phát triển vì bản thân của công cuộc đổi mới và phục vụ cho sự nghiệp đổi mới. Giai cấp và tầng lớp xã hội đại diện cho các tổ chức doanh nghiệp ở nước ta hiện nay không phải là thuộc bộ phận tư sản, càng không phải là giai cấp tư sản. Vì vậy ta không nên coi các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam và các doanh nghiệp quy mô lớn là kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân là sản phẩm của công cuộc đổi mới, các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta ngay từ khi mới ra đời đã mang tính xã hội chủ nghĩa. Nó đại diện cho một lực lượng sản xuất mới, là một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đã vậy, các doanh nhân ở nước ta hiện nay đều là những đảng viên đoàn viên, cán bộ quân đội và tầng lớp tri thức được sinh ra và trưởng thành trong chế độ mới. Họ đi theo Đảng, mang hết trí tuệ và sức lực của mình phục vụ sự nghiệp của Đảng.Vậy chẳng lẽ doanh nghiệp của họ là thuộc kinh tế tư bản tư nhân và bản thân họ là những nhà tư bản.
èVậy ta không cần phân định rạch ròi thế nào là kinh tế tư bản tư nhân, càng không gắn kinh tế tư nhân, nhất là các doanh nghiệp quy mô lớn với “bóc lột”.
Cụ thể:
Thực tiễn ở nước ta cho thấy, công cuộc đổi mới đã tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, phát triển mạnh mẽ. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, các hình thức kinh tế ngoài Nhà nước đã trở thành một lực lượng to lớn, một trong những động lực góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối năm 2003,kinh tế tư nhân ở nước ta bao gồm hơn 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hóa; 2,7triệu hộ kinh doanh cá thể công thương nghiệp, hơn 130.000 trang trại và khoảng 120.000 doanh nghiệp. Kinh tế tư nhân đã chiếm 41% tổng GDP (nếu tính cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thì tỷ lệ này là 54%; còn khu vực kinh tế Nhà nước chỉ chiếm 38%). Năm 2003, kinh tế tư nhân 48% tổng kinh ngạch xuất khẩu của cả nước và đóng góp chủ yếu trong 6/7 mặt hàng xuất khẩu chủ lực(dầu khí, thủy sản, may mặc, giày dép, gạo, cà phê, điện tử máy tính và sản phẩm gỗ); khu vực kinh tế tư nhân chiếm 27% tổng đầu tư xã hội(khoảng 10 tỷ USD), cao hơn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước; kinh tế tư nhân là khu vực chủ yếu tạo việc làm cho người lao động và có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế. trong những năm tới, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn, có vai trò ngày càng quan trọng hơn, đóng vai trò quyết định trong nhiều ngành lĩnh vực kinh tế ở nước ta.[Thứ sáu 25/06/2004 13:47,www.tapchicongsan.org.vn]
Qua đây cho thấy, việc xác định một cách cố định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước không còn phù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, mà còn tạo ra sự phân biệt không cần thiết giữa các loại hình kinh tế.Bên cạnh đó, việc khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước ở nước ta hiện nay cũng tạo sự phân biệt trong thực tế cả về thể chế chính sách cụ thể và tâm lý xã hội đi ngược chủ trương tạo ra một sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình kinh tế, kìm hãm sự giải phóng lực lượng sản xuất. Làm cho khu vực kinh tế ngoài Nhà nước mắc phải những khó khăn về thể chế, chính sách và thái độ của xã hội. Nó làm chậm tiến trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và do đó làm cho kinh tế suy yếu hơn.
Kết quả thu được từ chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn (2001-2005)
Vấn đề kinh tế tư nhân đã được khẳng định là nền tảng, động lực để phát triển kinh tế. Liên quan đến vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân, Chương trình đã luận giải được vấn đề kinh tế kinh tế tư nhân trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khác với kinh tế tư nhân trong điều kiện của TBCN. Dưới chế độ tư bản, nó chịu ảnh hưởng của chế độ tư bản nên những nhà doanh nghiệp mang tính chất tư bản. Còn ở Việt Nam, kinh tế tư nhân được sinh ra từ trong lòng của chế độ này, do chủ trương của Đảng, chịu sự quản lý của Nhà nước XHCN. Nếu nói cách khác ở nước ta hiện nay có doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp đều chịu sự điều chỉnh của một luật chung (ví dụ như vấn đề lương…). Nên nó cũng sẽ giống như các thành phần kinh tế khác mà thôi. Nói thì dể nhưng mỗi khi nói tới kinh tế tư nhân là người ta nghĩ ngay đến “bóc lột”. Thực ra, một nền kinh tế càng phát triển thì càng phải có giá trị thặng dư. Trong chế độ phong kiến, chủ yếu là kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình, làm ra chỉ đủ ăn nên không có giá trị thặng dư. Chỉ có mô hình sản xuất theo kiểu nhà máy thì lúc đó mới có thặng dư. Nhưng vấn đề bóc lột hay không bóc lột không phải ở chỗ làm ra giá trị thặng dư, mà ở chỗ phân phối giá trị thặng dư đó như thế nào. Trong phân phối phải theo luật pháp của Nhà nước, nền kinh tế tư bản sẽ bóc lột theo nhu cầu của họ, còn trong CNXH lại khác. Chương trình xem xét dưới góc độ “bóc lột” trên khía cạnh phân phối và có những đánh giá đúng đắn về công lao của những người làm doanh nghiệp.[www.vass.gov.vn]
THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CHƯA HOÀN TOÀN ĐÚNG
Luận thuyết giá trị thặng dư cho rằng trong quan hệ giữa người chủ là nhà Tư bản với người công nhân là người lao động làm thuê chỉ có người công nhân tạo ra giá trị mới, nhưng người công nhân chỉ được trả một phần giá trị mới do anh ta tạo ra và phần giá trị mới mà anh ta không được trả là giá trị thặng dư là nguồn gốc của lợi nhuận của các nhà Tư bản bao gồm lãi của Tư bản công nghiệp, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp, lợi tức ngân hàng…, đó là bóc lột, là bất công, sự công bằng là phải trả cho công nhân toàn bộ giá trị mới tạo ra. Nhưng khi nhìn vào thực tế mối quan hệ kinh tế hiện nay trong một doanh nghiệp, trong một ngành sản xuất, một quốc gia cũng như toàn thế giới thì không thể coi giá trị mới tăng thêm của xã hội chỉ là do người công nhân làm ra, mà đó là sự đóng góp chung của nhiều người, không phải chỉ có một mình giai cấp công nhân công nghiệp tạo ra giá trị mới, không thể xem tất cả các yếu tố đóng góp cho kinh tế đều bằng nhau hoặc khẳng định một yếu tố nào là quyết định nhất, mà tùy theo từng điều kiện khác nhau mà mỗi yếu tố đó khác nhau.
Sự chưa chính xác của luận thuyết giá trị thặng dư là ở chỗ tuyệt đối hóa việc tao ra giá trị mới chỉ là của người công nhân dẫn đến đòi hỏi phải trả lại toàn bộ giá trị mới cho người công nhân, không công nhận các yếu tố khác hợp thành quy trình kinh tế ( có hiện tượng bóc lột trong quan hệ kinh tế giữa chủ và thợ nhưng tuyệt đối hóa các quan hệ giữa con người giữa các giai cấp trong xã hội đều là bóc lột giá trị thặng dư của người công nhân thì lại sai)và từ luận điểm sai lầm này dẫn đến việc coi đã là kinh tế tư bản tư nhân là bóc lột thì chưa chính xác.[www.vietnamnet.vn]
Từ những luận điểm chưa đúng trên, dẫn đến nhìn xã hội đều dựa vào giá trị thăng dư của người công nhân mà không thấy mặt phân công lao động của các giai cấp trong xã hội. Nhìn mối quan hệ kinh tế của các giai cấp trong xã hội chỉ nhìn thấy mặt bóc lột là chủ yếu. Tuyệt đối hóa việc bóc lột giá trị thặng dư là quan hệ chủ yếu của các giai cấp trong xã hội là quan điểm chưa đúng.
TA CÓ NÊN CẦN CÓ CÁI NHÌN MỚI ĐỐI VỚI KHÁI NIỆM “BÓC LỘT” KHÔNG ?
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế quản lý tập trung sang nền kinh tế thị trường buộc chúng ta phải có cách nhìn đổi mới với khái niệm “bóc lột”-một khái niệm có liên quan chặt chẽ cả về lý luận lẫn thực tiễn với một số vấn đề kinh tế và xã hội rất cơ bản hiện nay do thực tế đặt ra cần phải giải quyết.
Trong kinh tế chính trị học, “bóc lột” được hiểu là: Nhà doanh nghiệp bỏ tiền ra mua công xưởng, trang thiết bị máy móc đồng thời thuê lao động để sản xuất hàng hóa. Sau khi bán xong hàng hóa đó, nhà doanh nghiệp thu lại được tiền vốn đã bỏ ra ban đầu đồng thời còn có thêm một khoãng tiền lãi. Số tiền bỏ ra ban đầu đó được gọi là “tư bản”, còn khoãn tiền lãi thì gọi là giá trị “thặng dư”. Mác chỉ rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư chính là do lao động tạo ra nhưng không thuộc về người lao động mà lại thuộc về chủ “tư bản”nên thực sự đó là sự bóc lột hiểu theo nghĩa: “bóc lột giá trị thặng dư”.
Như vậy, khái niệm “bóc lột giá trị thặng dư” gắn liền với khái niệm “nền kinh tế thị trường”. Khi nào nền kinh tế thị trường còn tồn tại thì chừng đó phải hiểu rằng bóc lột giá trị thặng dư là tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan điểm chấp nhận bóc lột giá trị thặng dư chính là tiền đề để giải quyết một số vấn đề thực tiễn cơ bản sau:
Một là, kinh tế thị trường chỉ đạt hiệu quả tối ưu, khi thị trường đó tiến tới lý tưởng. Một thị trường được gọi là lý tưởng khi trong thị trường đó việc cạnh tranh được phát huy hoàn toàn. Về mặt lý thuyết, cạnh tranh hoàn toàn chỉ xảy ra khi có:
“trăm người bán, vạn người mua”, nghĩa là có một số vô cùng lớn các doanh nghiệp tham gia,
Không ai hơn ai trong việc làm chủ thị trường, nghĩa là không ai có thể và có quyền quyết định được giá cả số lượng cơ cấu hàng hóa mua bán trên thị trường
Tất cả người mua và bán đều nắm được đầy đủ các thông tin về thị trường, nghĩa là không ai được hơn ai trong quá trình mua bán.
èNhư vậy, muốn nền kinh tế nước ta tiến tới một thị trường lý tưởng, kinh doanh đạt được nhiều hiệu quả kinh tế tối ưu thì điều kiện cần đầu tiên là: số lượng doanh nghiệp phải đạt được nhiều đến mức tối đa. Điều này lý giải tại sao nước ta khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, việc đầu tiên là phải phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp dân doanh và tích cực thu hút đầu tư nước ngoài. Nhưng doanh nghịêp dân doanh sẽ không thể phát triển mạnh được, đầu tư nước ngoài cũng sẽ không thể thu hút nhiều được nếu họ không đạt được mức tối thiểu về lãi. Nên mọi nỗ lực của Nhà nước trên lĩnh vực này,
muốn có hiệu quả, phải nhằm vào mục tiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì vậy, nếu không chấp nhận bóc lột giá trị thặng dư thì không thể giải quyết được cơ bản, lâu dài vấn đề phát triển doanh nghiệp dân doanh và thu hút đầu tư nước ngoài.
Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra đường lối kinh tế với mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Trong nền kinh tế thị trường, khái niệm giàu không còn nằm trong phạm vi tư liệu tiêu dùng: “ăn, ở, đi lại mà mở rộng sang cả phạm vi tư liệu sản xuất”: xí nghiệp, nhà máy, đất đai, cổ phiếu, tiền gửi tiết kiệm… thực tế cho thấy dù cho cá nhân đó có là một triệu phú đi nữa, thì họ cũng chỉ tiêu dùng cho cá nhân giống như mọi người “bậc trung” khác mà thôi, chỉ khác người “bậc trung” là họ có tài sản là tư liệu sản xuất dư thừa.
Nhưng tài sản tư liệu sản xuất này lại chính là cái đẻ ra lãi – đẻ ra “bóc lột giá trị thặng dư”và do đó ngày càng giàu thêm, nhưng mặt khác sản xuất của toàn xã hội lại nhờ có tư liệu sản xuất này mà phát triển. Vì vậy, nếu không chấp nhận “bóc lột giá trị thặng dư”để kích thích sự làm giàu của người dân qua việc tích lũy đầu tư cho sản xuất thì mục tiêu làm giàu sẽ bị giới hạn và giàu sẽ chạy theo khuynh hướng tiêu xài lãng phí.
Đảng viên là những người có phẩm chất chính trị - nghĩa là những người có trách nhiệm đi đầu và thông qua vai trò của mình biến các đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, đồng thời cũng như mọi người dân bình thường khác, họ có cuộc sống cá nhân riêng, có tri thức và năng lực nghề nghiệp riêng phục vụ cho cuộc sống mưu sinh của cá nhân họ. Trong nền kinh tế thị trường, lực lượng doanh nhân đóng vai trò xung kích, lực lượng này thiếu và yếu thì không thể hi vọng một nền kinh tế hiện đại. Vì vậy, chấp nhận “bóc lột giá trị thặng dư” chính là mở đường về mặt tư tưởng để thu hút đảng viên là những người vừa có phẩm chất chính trị vừa có năng lực nghề nghiệp vào lực lượng xung kích, khi được điều lệ Đảng cho phép. Nếu đảng viên đóng vai trò nồng cốt trong lực lượng xung kích, thì lượng này sẽ phát triển mạnh hơn và được Đảng lãnh đạo trực tiếp hơn, đi đúng hướng hơn. Để chủ động giải quyết vấn đề quan niệm Đảng viên với doanh nhân, cần phải dự tính đến thực tế vào năm 2020 khi mà nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Lúc đó nước ta cũng giống như nhiều nước công nghiệp khác có hàng triệu doanh nghiệp với hàng triệu doanh nhân. Đó là một lực lượng lớn mạnh và cực kỳ quan trọng không thể không xem xét khi giải quyết vấn đề nói trên.
Bóc lột giá trị thăng dư chính là phần lãi của chủ doanh nghiệp. Nếu giá trị hàng hóa của doanh nghịêp bán ra cố định khấu hao tài sản cố định, thì tiền lãi sẽ càng cao, nếu tiền lương trả cho công nhân càng thấp. Vì vậy, bóc lột giá trị thặng dư chính là nguồn gốc sâu xa đẻ ra mâu thuẫn giữa người làm công và giới chủ, tồn tại trong bất kỳ một nến kinh tế thị trường nào: người làm công thì muốn có lương cao, chủ doanh nghiệp thì muốn có lãi lớn.
[cập nhật lúc 8:36’PM,Thứ năm 02/03/2006,www.chungta.net]
Vậy vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là sự điều chỉnh ở tầng vĩ mô. Có nghĩa là chúng ta chấp nhận các quy luật của thị trường trong nền kinh tế nhưng sẽ phải làm hạn chế những ,mặc trái của thị trường bằng các công cụ quản lý của nhà nước như: tạo môi trường hành lang pháp lý, xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sử dụng các công cụ thuế, tài khoá một cách hợp lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động…
Sau đây là một nhận định về “bóc lột” của một người trên báo Sài Gòn Times
Thế hệ chúng tôi được đào tạo dưới mái trường XHCN từ thơ ấu. Chiến tranh, ở đất lửa Quãng Trị hoàn thành nhiệm vụ quân ngũ, chúng tôi được chuyển ngành về học đại học. Trong môn học chính trị - kinh tế học Mác-lênin(khi ấy chưa đảo ngược thành “Kinh tế- chính trị học”để nhấn mạnh kinh tế là cái gốc của chính trị như bây giờ), khi được giảng về công thức nổi tiếng (C+V+m)do Mác đưa ra để chứng minh nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư, một số sinh viên học giỏi hay khá môn này, có tư duy độc lập, vẫn thấy có điều gì đó chưa thuyết phục, chưa ổn.
Qua công thức C+V+m, Mác muốn chứng minh rằng: giá trị thặng dư (m: lợi nhuận) chỉ có nguồn gốc từ chi phí lao động (V:tư bản khả biến), không có nguồn gốc từ vốn liếng(C1+C2=C:tư bản bất biến). Vì vậy nhà tư bản làm giàu (mặc dù qua quá trình bỏ vốn, huy động nhân công, tính toán thu xếp sản xuất kinh doanh, lời ăn lỗ chịu)là bóc lột sức lao động của nhân công. Là sinh viên chưa có thực tiễn trải nghiệm như bây giờ, chúng tôi tiếp thu luận điểm ấy một cách hồn nhiên nhưng vẫn băn khoăn: thế thì người có tài sản, vốn liếng, có năng lực sản xuất, kinh doanh, nếu sợ (mang tiếng) bóc lột, điều gì bày ra chuyện đầu tư vào sản xuất kinh doanh? Đối chiếu với thực tiễn: cũng anh nông dân ấy, hôm qua cầm chiếc cuốc, cả ngày vất vả, cuốc được vài sào ruộng. Hôm nay, trên chiếc máy cày chủ giao, anh ta dễ dàng cày hàng mấy héc ta. Năng suất hơn hẳn, của cải vật chất làm ra hơn hẳn. Vậy nguồn gốc lợi nhuận đâu chỉ do mỗi mình anh nông dân làm ra?
Trở lại khái niệm bóc lột. Nếu công nhận việc chủ doanh nghiệp tư nhân thuê lao động là bóc lột thì ít nhất, đó cũng là hình thức bóc lột công khai (mọi người đều biết),hợp pháp (luật pháp thừa nhận, bảo hộ, đánh thuế)và thỏa thuận tự nguyện (chủ vần lao động để kiếm lợi nhuận, lao động cần việc làm để kiếm thu nhập). Nếu có ông chủ nào đó tự nhiên “giác ngộ” rằng tôi đã thuê lao động, tôi đã bóc lột, thôi từ nay xin thôi, dẹp chuyện kinh doanh, đem vốn gửi ngân hàng lấy lãi để tiêu, chắc chắn những người bị ảnh hưởng và phản đối đầu tiên lại là những người lao động mất việc. Công đoàn Nhà nước lại phải ra tay can thiệp.
Mấu chốt vấn đề là ngân sách (chủ yếu từ thuế)được quản lý, phân phối và sử dụng ra sao ? Ở các nước đề cao và thực hiện tốt dân chủ, công khai, luật pháp hoàn chỉnh và minh bạch, chuyện tham ô lãng phí ngân sách, nhũng nhiêu không dễ xảy ra. Ở ta, điều nghịch lý đang diễn ra: ở đâu, khi nào cấp nào, người nào cũng hô hào chống tham nhũng, lãng phí nhưng tệ nạn ấy đang trở thành quốc nạn. Có những đảng viên có chức, có quyền, không hề tham gia sản xuất kinh doanh với tư cách chủ doanh nhân có thuê lao động , nhưng tài sản thì cứ ngày càng kệch sù, có khi che đậy bằng các doanh nghiệp tư nhân của vợ, con, cha, mẹ, họ hàng. Ai cũng biết, nguồn gốc của tài sản đó là từ ngân sách (chiếm đoạt đất đai, tài nguyên, tham ô từ các dự án, mua sắm công, nhận hối lộ của các doanh nghiệp, cơ sở, địa phương…).
Nếu cứ ngại đảng viên làm kinh tế tư nhân sẽ tham gia bóc lột mà không tán thành, e rằng phi thực tế, giáo điều, máy móc. Hơn nữa, nền kinh tế đất nước không thể tiến kịp với thế giới một khi mọi nguồn lực của sản xuấ chưa được giải phóng. Vấn đề là ở chỗ, phải hình thành hệ thống luật pháp hoàn chỉnh và thực thi nghiêm túc hệ thống pháp ấy sao cho ngăn chặn hiệu quả hiện tượng tham nhũng, rửa tiền, hợp thức hóa tài sản phi pháp, dùng thế lực chính trị để thao túng trong kinh doanh.
Viết những dòng này, tôi muốn gửi lời tâm huyết với thế hệ trẻ hôm nay: đừng như đa số chúng tôi từng bị trói buộc bởi những quan điểm lỗi thời về bóc lột mà cam chịu nghèo khổ, cơ cực. Gần ba mươi năm làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, ở đơn vị nào, tôi cũng được đánh giá là có năng lực, nhiều tâm huyết và sáng kiến, làm lợi cho Nhà nước nhiều tỉ đồng nhưng lương và thu nhập của tôi chỉ cho tôi mức sống khiêm tốn. Chúng tôi vừa mang nặng tư tưởng: kinh doanh tư bản tư nhân làm giàu là bóc lột, là tội lỗi. Tỉnh ra, tuổi trẻ, tính năng động không ở lại với mình. Thế hệ chúng tôi trả giá quá đủ.
Một vài người bạn của tôi, do hoàn cảnh dồn thúc hay ý thức tự thân, từ hơn mười năm trước, để sang một bên những tranh luận lý thuyết, gạt bỏ mặt cảm “tội lỗi bóc lột”, ra làm kinh tế tư nhân và hầu hết đã thành công. Họ đem lại việc làm cho nhiều ngàn lao động, đóng thuế mỗi năm nhiều tỷ đồng, làm từ thiện nữa. Tôi đánh giá cao họ không chỉ về tài kinh doanh mà còn về lòng yêu nước.
[www.saigontimes.com.vn]
Với ý kiến của người viết bài báo trên thì chúng ta có nên làm theo những gì họ đã khuyên hay không? Nếu như thế thì “quy luật giá trị thặng dư” của Mác là hoàn toàn sai hay sao? Hay là nó chỉ đúng trong xã hội TBCN, vậy nghĩa là chúng ta cần phải có cái nhìn mới về quy luật của Mác trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay như thế nào?
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG
BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT CÁCH HIỂU SAI LẦM VỀ “BÓC LỘT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ”
Trước hết phải chấp nhận “bóc lột giá trị thặng dư”, đó là một khái niệm khoa học không mang nghĩa xấu của đời thường. Từ đó mà coi trọng, xem lợi nhuận cũng giống như tiền lương chỉ là một hìn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quy luật giá trị thặng dư và sự biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.doc