A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
I. Vài nét về Phật giáo cổ Trung Đại Trung Quốc (Thế kỷ I đến thế kỷ XVIII)
1. Vài nét về sự ra đời của Phật giáo
2. Phật giáo Cổ Đại Trung Quốc
II. Sự hình thành và phát triển của giáo đoàn Phật giáo Trung Quốc từ thời Hán đến thời Đường.
1. Thời kỳ sơ khai của giáo đoàn Phật giáo - nhà Hán.
2. Bốn thời kỳ tiêu biểu cho sự hình thành và phát triển của giáo đoàn Phật giáo Trung Quốc.
a. Thời Tấn (265-317).
b. Thời Nam Bắc Triều (420-588).
c. Thời Đường (618-907).
d. Thời Minh (1368-1667).
C. Thay lời kết luận
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3635 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự hình thành và phát triển của Giáo đoàn Phật giáo Trung Quốc từ thời nhà Hán đến thời nhà Đường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
õi lòng. Tiếp đó, Hoàng tử lại gặp một xác người nằm bên vệ đường... Gặp những cảnh thương tâm đó, Hoàng tử Xi-đa-ta ngẩn ngơ cả người, lấy hai tay ôm mặt và bảo người xà ích: “Về ngay thôi, nhanh lên!”. Người xà ích đánh xe quay về, buồn rầu than: “Đó là con đường của một đời người”.
Câu nói ấy của người xà ích làm cho Hoàng tử trầm tư. Sinh, lão, bệnh, tử đó là con đường mà một đời người phải trải qua đó ư ! Không kể là người sang hay kẻ hèn, chẳng ai thoát khỏi con đường này ư? Làm cách nào để con người được “giải thoát”, được cứu ra khỏi con đường đau khổ đó? Hoàng tử đã đọc biết bao nhiêu kinh Vê-đa, mời biết bao nhiêu thầy thuộc đạo Bà-la- môn giảng cho song đều không tìm thấy câu trả lời. Từ đó, Hoàng tử Xi-đa-ta nảy ra ý định xuất gia tu hành, hy vọng tự mình tìm ra lời giải.
Vua Tịnh Phạn nghe nói Hoàng tử muốn đi tu giật mình vội cưới cho Hoàng tử một công chúa xinh đẹp của Vương quốc láng giềng, hòng đánh tan ý định tu hành của Hoàng tử. Năm Xi-đa-ta 29 tuổi, Công chúa sinh được một người con trai là Rô-hao-đô, Xi-đa-ta cho rằng vương vị đã có người nối dõi. Và đúng lúc vua Tịnh Phạn vui mừng mở tiệc chúc mừng đứa cháu nội ra đời, Xi-đa-ta đã lặng lẽ từ giã vợ con ra khỏi hoàng cung, trở thành một hành giả trong tay không một đồng xu. Sáu năm trời, ông đi khắp mọi nơi tìm đến các thầy giỏi, các bậc thánh thần để cùng họ đàm đạo, tìm hiểu về cội nguồn của lẽ sống nhưng vẫn không thu được gì hơn. Ông cảm thấy thất vọng, lang bạt đến U-ru-vi-rô, nơi đây có rừng cây rậm rạp, sông nước sạch trong, có thể là nơi tu hành được. Ông ở lại đây, tự dày vò, hành hạ mình để tìm ra con đường giải thoát nhưng kết quả thân suy lực kiệt mà vẫn không thu được gì. Do đó ông quyết định từ bỏ lối tu khổ hạnh và tìm cách khác để tu hành. Ông xuống sông tắm rửa sạch sẽ, uống sữa bò do các cô gái chăn bò đem cho, ngồi dưới gốc cây bồ đề, mặt quay về hướng đông, xếp chân bàn tròn. Sau bẩy lần bẩy 49 ngày, cuối cùng trong một đêm sao thưa trăng sáng bỗng thấy “đại triệt đại ngộ”, thấu hiểu mọi lẽ của cuộc sống, ngộ đạo thành Phật. Phật có nghĩa là giác ngộ, lĩnh hội được chân lý. Sau này đệ tử của ông tôn ông là Phật đà Bút-đa (Buddha) tức “người ngộ đạo”, còn gọi ông là Thích ca mẫu ni có nghĩa là “thánh nhân của dân tộc Sư ca”. Từ đó ông bắt đầu một cuộc đời truyền đạo, và người ta gọi tôn giáo của ông là Phật giáo.
Đợt đầu ông truyền dạy ở Xác-na (Sarnath) cho 5 vị công tử. Từ đó Phật giáo đã có tam bảo: Thích ca mẫu ni là Phật bảo, kinh điển Phật giáo là Pháp bảo và các môn đồ Phật giáo là Tăng bảo.
Thích ca mẫu ni phản đối Bà-la-môn giáo, phản đối chế độ đẳng cấp, đề ra khẩu hiệu “Chúng sinh bình đẳng”. Ông nói: “sông Hằng, sông Ấn… đều có tên riêng, chảy vào biển cả lại hoà làm một”, nói như vậy là để biểu thị cho nội bộ Phật giáo không có sự phân biệt đẳng cấp. Chủ trương của ông là sự phản ánh của những người cùng khổ chống lại chế độ giòng giống, đòi hỏi sự bình đẳng. Ông truyền đạo với lời lẽ rất phổ thông, dễ hiểu nên mọi người có thể tiếp thu một cách dễ dàng. Sau đó ông lại nhận thêm 60 đệ tử ở thành Bô-rô-na, lấy đó làm hạt nhân vân du các nước để giảng đạo. Tín đồ Phật giáo ngày càng đông và ảnh hưởng của Phật giáo ngày càng sâu rộng.
Phật đà đi truyền đạo ở mọi nơi, dấu tích in khắp hai bờ sông Hằng. Những năm cuối đời ông chỉ đi lại trong vùng giữa thành Vương Xá và Xá Vệ. Ông đưa ra mục tiêu cơ bản cho mọi người, tức là đạt đến độ hạnh phúc nhất cho người ta là thoát khỏi mọi dục vọng, khi đó con người đạt đến sự viên mãn về tinh thần và linh hồn. Học thuyết của ông đã có ảnh hưởng quan trọng đến mọi tầng lớp trong xã hội, bản thân ông được toàn Ấn Độ kính trọng.
Để phổ độ chúng sinh, Phật đà đã không mệt mỏi vân du truyền đạo khắp mọi nơi trong suốt 45 năm. Ngày 15-2-485 TCN ông dẫn các đệ tử đến Cô-xư-na-rô, lúc này ông đã là một ông già 80 tuổi. Con người luôn kêu gọi mọi người bình đẳng, yêu hoà bình, từ bi bác ái đã không còn đi nổi nữa. Ông già nằm nghiêng dưới hai gốc cây Bô-rô, lấy tay phải gối đầu, đầu ở hướng Bắc, chân ở hướng Nam, lưng hướng Đông, mặt hướng Tây, lặng lẽ rời khỏi thế gian. Trăm họ đổ về đây tưởng niệm, họ phủ lên mình ông những bó hoa tươi và các loại hương liệu. Họ cúng ông 12 con vật: chuột, trâu, hổ, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, lợn. Bảy ngày sau, thi thể ông được hoả táng. Quốc vương của 8 nước yêu cầu được chia Xá lị Phật (tro cốt) xây tháp để cúng. Xá lị Phật được chia thành 9 phần và nơi hoả táng đức Phật là nơi được xây tháp đầu tiên trong 9 tháp Xá lị.
Vào thế kỷ thứ III TCN, dưới triều đại Khổng Tước của Ấn Độ, vua A-uy lấy đạo Phật làm quốc giáo. Từ đó đạo Phật bắt đầu được truyền bá rộng khắp sang các nước Đông Nam Á, Trung Á và Trung Quốc. Ngày nay, Phật giáo đã trở thành một trong ba tôn giáo lớn trên Thế Giới.
2. Phật giáo cổ trung đại Trung Quốc
Như trên đã nói Phật giáo được sinh ra ở Ấn Độ. Trong quá trình trưởng thành đã như hai thân cây lớn: một phát triển về hướng Nam tức là Phật giáo Nam truyền, một hướng phát triển về phía Bắc tức là Phật giáo Bắc truyền.
Nói đến Bắc truyền Phật giáo, trước hết phải kể tới quốc độ lớn nhất và có ảnh hưởng quyết định đến những nước xung quanh đó là Trung Quốc. Đó cũng chính là dòng Đại thừa Phật giáo.
Theo ngả đường Bắc truyền của Phật giáo Ấn Độ thì trước hết Phật giáo được truyền vào các nước Đại Nhục Chi, An Tức ở phía Bắc Ấn, dần dần lan tới các nước Tây Vực rồi vào Trung Quốc. Con đường bộ xuyên qua nước Tây Vực lúc này là con đường giao thông trọng yếu giữa hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Quốc.
Nếu theo đường phía Nam Tây Vực tới thì bắt đầu từ Đôn Hoàng và Ngọc Môn, rồi nương theo dãy Bắc núi Côn Lôn, qua các nước Lop-Nor, Vu Điền (Kho Tan), XaSa (Yarkand) rồi đến Sớ Lặc (Karhgar). Từ Sớ Lặc phải vượt qua con đường hiểm trở phía Tây dải núi Thông Lĩnh, rẽ về phía Nam, ăn thông với ngả đường Bắc Ấn Độ. Nếu theo đường Bắc Tây Vực thì cũng khởi điểm từ Đôn Hoàng, Ngọc Môn rồi nương theo chân phía Nam của dải Thiên Sơn, xuyên qua các nước Y Ngô (Hà Mì), Các Xương (Turfan), Yên Kỳ (Karshar), Khâu Tư (Kucha), Cô Mặc (Akru), Ôn Túc (Ush) đến Sở Lặc, nối liền với con đường phía Nam Ấn Độ. Giữa hai con đường trên còn có con đường “Nhập trúc cầu pháp” của ngài Pháp Hiển. Con đường “Nhập trúc cầu pháp” củng bắt đầu từ Đôn Hoàng, qua Lop-Nor, tới Yên Kỳ xuyên qua bãi sa mạc rồi đến Vu Điền, hợp với con đường phía Nam.
Sau này ngài Pháp Hiển thời Đông Tấn đã mở đầu con đường thuỷ truyền Phật giáo vào Trung Quốc. Đó là con đường nối Ấn Độ với Quảng Đông-Trung Quốc qua các nước Đông Nam Á. Con đường này khá tiện lợi, nhanh chóng và an toàn.
Về niên đại du nhập của Phật giáo tới Trung Quốc thì có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó ý kiến có tính thuyết phục nhất là ý kiến cho rằng Phật giáo tới Trung Quốc vào niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (năm 67 dương lịch) đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán. Vua Minh Đế sai các ông Thái Hâm, Vương Tuân, cả thảy 18 người qua nước Đại Nhục Chi (một nước ở phía Tây, trên đường từ Ấn Độ sang Trung Quốc) để rước Xá Lị Phật về thờ. Các ông Thái Hâm, Vương Tuân còn mời được cả hai vị sư là Ca Diếp Ma Đằng và Phúc Pháp Lan qua Trung Quốc. Vua Hán Minh Đế truyền cho xây dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và mời hai ngài ở đó để dịch Kinh, truyền đạo. Vua Hán Minh Đế cũng sai thợ vẽ tượng Thích Tôn do ông Thái Hâm đem về để thờ ở đài “Thanh Lương”.
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO ĐOÀN PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC TỪ THỜI HÁN ĐẾN THỜI ĐƯỜNG.
1. Thời kỳ sơ khai của giáo đoàn Phật giáo nhà Hán
Sau khi đến Trung Quốc, hai vị sư Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan chuyên về công việc phiên dịch Kinh điển. Hai ngài đã phiên dịch bộ Kinh điển đầu tiên tại chùa Bạch Mã-chùa Phật giáo đầu tiên trên đất Trung Quốc. Bộ kinh đó là Kinh “Tứ thập nhị chương”. Riêng ngài Trúc Pháp Lan sau đó còn dịch được một số bộ Kinh như “Thập địa đoạn kết kinh” 8 quyển, “Pháp hải tạng kinh” 1 quyển, “Phập bản hạnh kinh” 5 quyển, “Phật bản sinh kinh” 1 quyển và “Nhị bách lục thập giới hợp dị” 2 quyển... Dần dần, Phật giáo được triều đình Trung Quốc thừa nhận, nhà vua cho phép xây chùa, dịch Kinh và truyền Đạo.
Lúc này các nhà truyền đạo từ Tây Vực kéo sang Trung Quốc bắt đầu đông dần lên. Trong số đó có các bậc nổi tiếng như ngài An Thế Cao, ngài Chi Câu La Sấm. An Thế Cao vốn là thái tử của vua An Tức. Sau khi xuất gia, ngài đã chuyên chú học Kinh, luận, thông hiểu phép thiền quán. Niên hiệu Kiến Xương năm đầu 147 đời vua Hoàn Đế, ngài tới đất Lạc Dương tỉnh Hà Nam. Từ đó về sau trong khoảng hơn 20 năm, ngài chuyên lo công việc phiên dịch Kinh điển. Những Kinh điển ngài đã dịch sang chữ Hán có tất cả 34 bộ gồm 40 quyển.
Ngài Chi Câu La Sấm là người nước Đại Nhục Chi, tới Trung Quốc vào khoảng niên hiệu Quang Hoà (178-183) và Trung Bình (184-189) đời vau Linh Đế. Trong khoảng 12 năm, ngài đã phiên dịch sang chữ Hán được những bộ Kinh điển Đại Thừa như: “Kinh thư lăng nghiêm” 2 quyển, “Kinh ban chu tam muội” 1 quyển, “Kinh vô lương thanh tịnh Bình Đẳng Giáp”. Tất cả Kinh điển ngài Chi Câu La Sấm dịch là 10 bộ gồm 20 quyển. Có thể nói rằng: Sự nghiệp phiên dịch Kinh điển của ngài An Thế Cao và ngài Chi Câu La Sấm đã khai nền đắp móng cho Phật giáo Trung Quốc.
Ngoài ngài An Thế Cao, Chi Câu La Sấm còn có ngài Trúc Phật Sóc người nước Thiên Trúc (Ấn Độ), Ưu Bà Tắc An Huyền (người nước An Tức), ngài Nghiêm Phật Điều người nước Hán. Trong số ấy, có ngài Nghiêm Phật Điều là người Trung Quốc. Nghiêm Phật Điều là người đất Lâm Hoài (tỉnh An Huy) là vị Sa môn Trung Quốc đầu tiên và cũng là người Trung Quốc đầu tiên tham gia vào công việc phiên dịch Kinh điển.
Bước sang thời Tam Quốc, tuy đất nước bị phân chia thành 3 nước Ngụy, Thục, Ngô song từ vua chúa cho đến thứ dân các nước đề tu theo đạo Phật và mỗi nước đều có các vị cao tăng từ Tây Vực sang truyền Đạo.
Phật giáo ở nước Ngụy lấy dịch kinh là chủ yếu nhưng do các Phạm tăng từ Ấn Độ tới Trung Quốc ngày một nhiều nên phong trào hoằng pháp đã sôi nổi hơn. Tiêu biểu cho phong trào này là hai ngài Đàm Ma Ca La và Đàm Đế. Đó là hai vị dịch giả và cũng là thuỷ tổ của tông phái Luật tông Trung Quốc. Trong thời gian này đã có người Trung Quốc được thụ giới Luật đầu tiên đó là Chu Sinh Hành.
Phật giáo được truyền tới nước Ngô có sớm hơn nước Ngụy. Các bậc dịch Kinh điển ở nước Ngô gồm có ngài Chi Khiêm, ngài Chi Khương Lương và ngài Khương Tăng Hội...
Ngài Chi Khiêm đã dịch bộ “Đại A Di Đà kinh”, “Duy Ma Kinh” "chú thích bộ “Liểu Bản Sinh Tử kinh” và trước tác bộ “Tán Bồ Tát liên cú”.
Những kinh điển mà ngài Khương Tăng Hội đã dịch gồm: “Lục Độ Tập kinh”, “Tạp Thí Dụ kinh” và chú thích bộ “Pháp Kính kinh”, “Đạo Thụ Vương kinh”.
Ở nước Thục Phật giáo đến tuy có chậm hơn nhưng đặc biệt có ngài Châu Tử Hoàng là một cao tăng Trung Quốc đã qua Tây Vực học chữ Phạn và tìm nguyên bản kinh chữ Phạn để dịch lại góp phần làm giàu thêm kho tàng kinh điển Trung Quốc.
Có thể kết luận lại rằng Phật giáo Trung Quốc thời kỳ du nhập chỉ lấy việc phiên dịch kinh điển và truyền bá kinh điển làm chính. Sự truyền bá giáo lý cũng đã phát triển rộng rãi đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của Phật giáo thời kỳ tiếp theo. Kinh điển từ chữ Phạn dịch sang chữ Hán trong thời kỳ sơ khai đã lên đến 300 quyển.
Phải từ sau thời kỳ du nhập thì giáo đoàn Phật giáo Trung Quốc mới thể hiện rõ quá trình phát triển của nó. Trên nền tảng chung ấy em chia ra thành bốn thời kỳ tiêu biểu.
2. Bốn thời kỳ tiêu biểu cho sự hình thành và phát triển của giáo đoàn Phật giáo Trung Quốc.
a. Thời Tấn (265- 317).
Từ khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc đến thời đại Tây Tấn đã có hơn 300 năm nên Phật giáo đã được phổ cập rộng rãi. Vua Huệ Đế cho dựng chùa Hưng Thành ở Lạc Dương, đặt tiệc trai cúng dàng 100 vị tăng. Còn vua Mẫn Đế dựng chùa Linh Thông và Bạch Mã ở kinh thành Tràng An, hết sức bảo hộ Phật giáo. Vào thời Tây Tấn, số chùa ở Trung Quốc có 108 chùa, số tăng ni có hơn 3.700 người. Tuy vậy, trạng thái Phật giáo đời Tây Tấn cũng không ngoài công việc phiên dịch kinh điển mà người dịch kinh điển tiêu biểu là Đàm Ma La Sát và Trúc Pháp Hộ.
Đến thời Đông Tấn, ngài Cưu Ma La Thập tiếp nối sự nghiệp hoằng dương chính pháp của các bậc tiền bối và đưa Phật giáo Trung Quốc đến một vị trí vô cùng rực rỡ. Trong thời Đông Tấn, ngoài việc dịch kinh điển ra đã bắt đầu có sự hình thành tổ chức giáo đoàn Phật giáo.
Giáo đoàn Phật giáo Ấn Độ có tứ chứng, đó là Tỳ khiêu, Tỳ khiêu ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Tỳ khiêu và Tỳ khiêu ni thuộc phía xuất gia. Còn Ưu bà tắc, Ưu bà di thuộc phía tại gia. Vào thời Đông Tấn, số tăng ni ở Trung Quốc đã lên tới 24.000 người với 1.708 ngôi chùa. Chính lý do tăng ni ngày càng đông, chùa cảnh ngày một nhiều mà vấn đề giáo đoàn được chú ý, quan tâm nhiều hơn.
Giáo đoàn Phật giáo thời kỳ phôi thai nhất phải kể đến là giáo đoàn của ngài Phật Đồ Trừng rồi đến giáo đoàn của ngài Thích Đạo An và ngài Cưu Ma La Thập. Song giáo đoàn được hoàn chỉnh hơn cả là giáo đoàn của ngài Tuệ Viễn với hình thức tổ chức “Bạch Liên Xã”. Sau đó ngài Đạo An đã lập ra pháp chế cho giáo đoàn này gồm 3 điều. Điều thứ nhất là phép “Hành hương, Đình tọa”, điều thứ hai là phép “Sáu thói hành đạo”, điều thứ ba là phép “Bồ tát, sám hối”. Bên cạnh đó ngài Tuệ Viễn cũng nêu ra một số qui định như “Pháp xã tiệt độ tự”, “Ngoại tự tăng tiết độ tự”, “Tỳ khiêu ni tiết độ tự”. Ngoài ra còn đặt các chức vụ để quản lý các công việc trong giáo đoàn như đệ tử ngài La Thập là Tăng Lược làm chức Tăng chính, ngài Tăng Tiên làm chức Duyệt chúng, ngài Pháp Khâm làm chức Tăng lục...
Trong sự hình thành tổ chức giáo đoàn, Phật giáo Đông Tấn không chỉ chú trọng đến công việc phiên dịch kinh điển mà còn chú trọng đến việc nghiên cứu để phát triển tư tưởng của Phật giáo. Cụ thể thời đại Đông Tấn, Phật giáo lấy tư tưởng “Không” trong kinh Bát Nhã làm trọng yếu, đã tách tư tưởng Lão Trang ra ngoài. Ngài Đạo Sinh sáng tạo ra phương pháp chia khoa mục để chú thích kinh điển. Ngài Tuệ Quán khi sửa chữa bản dịch của kinh Niết Bàn đã đem giáo lý của Đức Phật trong một đời thuyết giảng chia ra thành Đốn giáo, Tiệm giáo. Trong Tiệm giáo lại chia ra làm Ngũ thời giáo. Vì ở thời kỳ này, kinh A Hàm và Tiểu Thừa A Tỳ đã được dịch ra chữ Hán nên có phong trào nghiên cứu A tỳ đàm học, sau này hình thành “A tỳ đàm tông”. Từ chỗ ngài Cưu Ma La Thập dịch các bộ luận Đại thừa như “Trung luận”, “Bách luận”, “Thập nhị môn luận” mà thành lập “Tam luận tông”. Từ thành thực luận lập ra “Thành thực tông”, tư tưởng kinh Niết Bàn trở thành cơ sở của “Niết bàn tông”, tư tưởng kinh Hoa nghiêm trở thành cơ sở của “Hoa Nghiêm tông” sau này.
b. Thời Nam Bắc Triều (420-588).
Có thể nói, giáo đoàn Phật giáo được hình thành từ thời Tây Tấn và Đông Tấn, đến thời Nam Bắc Triều thì phát triển nhanh chóng. Điều đó được thể hiện qua bảng thống kê sau đây:
Thời đại
Tự Viện
(ngôi)
Số tăng, ni
(người)
Tây Tấn
108
3.700
Đông Tấn
1.768
23.000
Tống
1.913
36.000
Tề
2.015
32.000
Lương
2.815
82.000
Trần
2.846
32.000
Ngụy (kể cả công, tư)
30.896
2.000.000
Bắc Tề
40.000
3.000.000
Theo bảng thống kê trên ta thấy rõ ràng tăng ni và số tự viện tăng lên rất nhiều. Việc này được lý giải là do thời kỳ này các triều vua đều bảo hộ cho Phật giáo, cho xây dựng nhiều chùa, tháp. Mặt khác các Vương công, Bách quan, Quý tộc cũng thi nhau xây dựng chùa tư, tạc tượng. Trong số các ngôi chùa thời Nam Bắc Triều có nhiều ngôi chùa nguy nga tráng lệ như chùa Vĩnh Minh ở thành Lạc Dương do Linh Thái Hậu phát nguyện xây cất vào niên hiệu Hy Bình (516) đời vua Hiếu Minh Đế Bắc Ngụy. Trong chùa có Phật điện lộng lẫy nguy nga với 3.000 pho tượng. Chùa Vĩnh Minh có hơn 1.000 gian phòng và nhiều lầu quán. Ngoài ra còn có chính điện tới tam quan dài 7 dặm, gồm 36 viện trong nội tự, trong đó có cảnh suối nước, rừng cây như động thiên cung. Nơi đây có tới hàng nghìn tăng chúng tu trì học đạo. Vào thời dỳ này nhà vua thường tổ chức nhiều lễ hội như Võ giá đại hội, Bát quán trai hội hay tổ chức những buổi cầu phúc.
Thời Nam Bắc Triều ở Trung Quốc ngoài sự phát triển của giáo đoàn tăng còn xuất hiện giáo đoàn ni. Trung tâm của giáo đoàn ni được thành lập ở chùa Đạo Quang (Lạc Dương). Chùa Đại Trí Độ Do vua Lương Võ Đế dựng mỗi ngày có hơn 500 ni chúng tu học.
Hệ thống tổ chức của giáo đoàn Phật giáo thời Nam Bắc Triều đã chặt chẽ, hoàn thiện hơn thời kỳ trước. Trong giáo đoàn đứng đầu là Đại thống, Tăng chính, rồi đến các chức Quận thống, Huyện thống... Ngoài ra còn xuất hiện chức Duy Na - người trông nom mọi việc vặt trong chùa. Tóm lại là sự quản lý của giáo đoàn đã khá chặt chẽ.
Tổ chức của giáo đoàn thời kỳ này dựa vào giới luật của Đạo Phật Ấn Độ mà chế ra chứ không dựa vào luật pháp của triều đình Trung Quốc như những thời trước.
Giáo đoàn Phật giáo lúc này đã có tài sản riêng. Tài sản có được là do các thí chủ cúng dâng và sự đóng góp của vua chúa cho nhà chùa. Vua thường xuyên miễn giảm thuế cho nhà chùa, lại cấp cho đất đai... nên giáo đoàn Phật giáo trở nên giàu có và giúp đỡ được nhiều người nghèo.
Giáo đoàn Phật giáo thời Nam Bắc Triều đã có những bước phát triển về tổ chức cũng như tài sản so với thời Tây Tấn và Đông Tấn. Có thể nói thời kỳ này giáo đoàn Phật giáo đã bước vào giai đoạn thuần thục.
Phật giáo lúc này hơn hẳn giai đoạn trước bởi đã bắt đầu chú ý tới công tác xã hội. Các ngôi chùa trở thành trung tâm truyền bá giáo lý, nhân dân được phép tự do đi lại vãn cảnh chùa. Vua cho phép lập ra các kho thóc dự trữ để cứu giúp dân những khi hạn hán, mất mùa gọi là Tăng kỳ túc. Riêng vua Võ Đế còn cho lập kho Vô tận tạng. Các tăng ni cũng tham gia nhiều hơn vào các công việc xã hội như làm đường, bắc cầu, lập nhà trọ không thu tiền...
Thời Đường (618-907).
Sau thời Nam Bắc Triều, Phật giáo bước vào một thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của mình đó là thời nhà Đường. Chúng ta có thể nhận xét rằng Phật giáo Trung Quốc đời Đường đã phát triển tới chỗ hoàn bị và toàn thịnh. Để thống chế giáo đoàn, tăng già vẫn giữ chức Tăng quan như đời Tuỳ nhưng đứng đầu tất cả là chức Tăng Lục. Sau chức Tăng lục có các Tăng chính ở các châu, quận để quản hạt giáo đoàn từng địa phương. Ở các chùa lớn đặt ra chức “Tam Cương” là thượng tọa, Tự chủ và Điển tọa để trông nom mọi công việc trong chùa. Đặc biệt Phật giáo ở Ngũ Đài Sơn có đặt chức riêng gọi là “Ngũ Đài Sơn thập tự đô kiểm hiệu thú” để thống lĩnh Phật giáo riêng ở núi đó.
Giáo học Phật giáo nhà Đường là những tư tưởng triết học cao siêu thích hợp với việc nghiên cứu. Có rất nhiều tư tưởng Giáo học làm cơ sở cho các tông phái đã xuất hiện ở thời kỳ này (xuất hiện 10 tông phái lớn: Câu Xá Tông, Thành Thực Tông, Duy Đức Tông, Tam Luận Tông, Hoa Nghiêm, Thiên Thai Tông, Mật Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Luật Tông).
Về phương diện dịch kinh điển thì thời nhà Đường bước sang giai đoạn cải cách mới nên được gọi là "Tân dịch thời đại". Các nhà phiên dịch kinh điển tiêu biểu nhất trong thời kỳ này hay còn gọi là những nhà đại phiên dịch gồm có: ngài Nghĩa Tịnh, ngài Huyền Trang, ngài Bất Không, Thiệu Vô Hý, Kim Cương Trí...
Ngài Huyền Trang người Lạc Châu (tỉnh Hà Nam) thường được gọi là Đường Tam Tạng. Do nhận thấy kinh điển ở nước nhà hoặc bị thiêu huỷ, thất lạc vì giặc giã, hoặc bị sai lạc nguyên bản vì dịch sai hay chép lộn nên đã tự phát nguyện sang đất Phật-Ấn Độ để tìm học đạo với những bậc minh sư. Vào năm Trinh Quán thứ 19 (645), Huyền Trang về tới Tràng An. Vua Thái Tôn liền mời ngài về chùa Đại Từ Ân để ngài dịch kinh.
Trong khoảng 20 năm, Huyền Trang dịch được 76 bộ gồm 1.349 quyển. Sự nghiệp phiên dịch kinh điển của ngài được triều đình bảo hộ, coi là sự nghiệp của quốc gia. Bởi vậy, ở nơi phiên dịch được tổ chức rất quy mô trật tự, có rất nhiều các danh tăng và các quan tham gia. Phương pháp dịch kinh của ngài rất trung thành với nguyên bản, chữ nào nghĩa ấy. Do đó trong lịch sử dịch kinh, kể từ ngài Huyền Trang trở về sau gọi là “Tân dịch”, còn những kinh điển được phiên dịch trước kia gọi là “Cựu dịch”.
Ngoài sự nghiệp phiên dịch kinh điển, Huyền Trang còn soạn thảo được “Đại Đường Tây Vực Ký” gồm 12 quyển. Cuốn sách này ghi chép tỉ mỉ về trạng thái tôn giáo, địa lý, lịch sử và phong tục của Ấn Độ lúc đó.
Giáo đoàn của Huyền Trang ở Tràng An rất phát triển, số đệ tử lên tới mấy nghìn người. Trong số đệ tử của ngài có Khuy Cơ là thân cận nhất, chính Khuy Cơ đã cùng với ngài lập ra “Pháp tướng tông” để truyền bá tư tưởng duy thức.
Ở thời này vấn đề tín ngưỡng Phật giáo rất đáng lưu tâm, cũng là do đòi hỏi của Phật tử để thích ứng với hoàn cảnh xã hội. Đó là các tín ngưỡng về “Nhân quả báo ứng”, tín ngưỡng Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Thế Âm, tín ngưỡng Văn thù Bồ Tát và việc thờ Xá Lị Phật.
Giáo đoàn Phật giáo đời Đường Tắc Thiên Võ Hậu thuộc vào Tứ bộ trong Thượng thư lễ bộ của triều đình. Vào đời vua Huyền Tôn bắt đầu có lệ cấp phát độ điệp cho các tăng ni trong toàn quốc. Như vậy, Phật giáo đời Đường hoàn toàn lệ thuộc vào sự chi phối của quốc gia và chiếm một địa vị trọng yếu, được coi như quốc giáo của Trung Quốc.
Phật giáo đời Đường có các Bi Điền Viện và Dưỡng bệnh viện ở các chùa lớn để giúp đỡ người nghèo, bệnh tật. Mọi phí tổn đều được tài trợ bởi Nhà nước. Ngoài ra, Phật giáo còn tham gia vào nhiều việc cứu tế xã hội khác như việc trị thuỷ, khai ngòi, bắc cầu... Chùa không những là nơi lễ bái của Phật tử mà còn là nơi vãn cảnh ngâm thơ, thưởng nguyệt của dân chúng, là nơi trú chân cho khách qua đường.
Phật giáo thời này có nhiều đóng góp vào nền văn hoá dân tộc Trung Quốc. Những truyện cảm ứng trong Phật giáo viết theo lối truyền thuyết huyền thoại đã tạo nên một phong cách mới cho văn học. Những kiến thức tháp Xá lị, nghệ thuật điêu khắc, tạc phù điêu to đẹp ở các hang động, những biến tướng tịnh độ, các mạn đồ la của Mật giáo... đều là những tuyệt tác đương thời.
Tóm lại, xét trong bốn thời kỳ hưng thịnh lịch sử hình thành và phát triển của Giáo đoàn Phật giáo thì đây là thời kỳ phát triển nhất, lừng lẫy nhất.
d. Thời Minh (1368 - 1667).
Từ khi nhà Đương mất thiên hạ đến trước nhà Minh Thanh, trải qua mấy trăm năm, chỉ có nhà Tống là có thiện chí chấn hưng Phật giáo. Các vị vua nhà Tống còn sai sứ sang Tây Vực để thỉnh kinh, cầu danh tăng và sắc dịch kinh điển nên đạo Phật cũng dần dần được phục hồi tuy có phần kém hơn trước.
Phải đến thời vua Thái Tổ nhà Minh, đạo Phật mới lấy lại được vẻ huy hoàng của những thời hưng thịnh trước đó, tạo thành thời kỳ phát triển thứ tư đáng ghi nhớ trong lịch sử phát triển của giáo đoàn Phật giáoTrung Quốc.
Giáo đoàn Phật giáo nhà Minh được trang nghiêm chỉnh đốn, có trật tự. Lúc này tuy Thiền Tông được thịnh hành nhất nhưng trong dân chúng cũng phát triển tín ngưỡng Phật A Di Đà và Pháp môn niệm Phật.
Những người đại biểu cho Phật giáo đời Minh phần nhiều là những người thuộc hệ thống Thiền Tông, nhất là hệ thống Lâm Thế Thiền.
Giáo học Phật giáo đời Minh thiên về khuynh hướng dung hợp điều hoà giáo nghĩa của các tông, không có những tư tưởng giáo học mới bột hưng như đời Tuỳ - Đường cũng không có những giáo nghĩa thuần tuý riêng từng tông phái.
Tóm lại, tư tưởng Phật giáo nhà Minh là tư tửng dung hoà thống nhất. Do đó đối với Nho giáo và Đạo giáo, Phật giáo cũng có nhiều uy tín, được sự ủng hộ của cả Nho giáo và Đạo giáo.
THAY LỜI KẾT LUẬN
Đạo Phật là một tôn giáo ngoại lai,từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc. Trong khi Phật giáo Ấn Độ (vào thế kỷ IX và X) mỗi ngày một suy yếu thì Phật giáo ở Trung Quốc lại mỗi ngày một thêm thanh thế và cuối cùng chinh phục được hầu hết cả một khối người đông đảo nhất trên thế giới. Vấn đề đặt ra là vì sao lại như vậy? Có lẽ vì ở Ấn Độ các nhà lãnh đạo truyền giáo đã không biết thích nghi với hoàn cảnh, với sự tiến triển của thời thế, cứ giữ chặt nếp sống cũ. Trong khi ấy ở Trung Quốc các nhà truyền giáo đã hiểu rõ căn cơ của quần chúng, biết thích nghi với hoàn cảnh và thời thế, luôn luôn phát huy những tông phái mới để đáp ứng nhu cầu tinh thần của từng lớp người. Vì vậy mà Đạo Phật ở Trung Quốc không bị một tôn giáo nào lấn át. Lịch sử Trung Quốc cho thấy, khi mới lên ngôi các ông vua khai quốc bao giờ cũng sùng mộ đạo Phật, khuyến khích sự truyền giáo đạo Phật. Còn các ông vua cuối cùng thì thường hay phá huỷ đạo Phật. Điều ấy cho phép chúng ta nhận xét rằng các ông vua khai quốc phần nhiều có đức hạnh sáng suốt. Họ cần thấy cần phải chấn hưng đạo Phật thì nhân dân mới được an bình, đất nước mới được thịnh trị. Còn những vị vua cuối cùng phần nhiều là các vị vua ít hiểu đạo, cai trị một cách độc quyền, độc đoán. Vì thế, nước đã loạn lại càng loạn thêm, ngai vàng của các ông cũng sụp đổ theo đà sụp đổ của cả nước.
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên, nhất là từ khoảng thế kỷ X, nó đã nhanh chóng truyền bá khắp vùng Đông Nam Á, tới Trung Quốc, tới Việt Nam. Nguồn giáo lý cao diệu của Phật giáo đã ảnh hưởng sâu đậm trong nếp sống tình cảm và tư tưởng của người dân Trung Quốc, Việt Nam. Cho nên đã có thời Phật giáo từng là quốc giáo ở nhiều nước Đông Nam Á cũng như đã từng là quốc giáo ở Trung Quốc và Việt Nam.
Nếu ở Trung Quốc, đời Đường được coi là “Hoàng kim thời đại” thì ở Việt Nam đời Lý là đời Phật giáo được thịnh hành nhất. Trong hơn 200 năm, đạo Phật giữ địa vị độc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vh01 (4).doc