Tiểu luận Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và hướng phát triển của nó trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU .1

I.Lý do chọn đề tài 1

II. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .2

III. Giới hạn của đề tài .2

IV. Phương pháp nghiên cứu .2

B.NỘI DUNG .3

Chương I. Những quan điểm về sứ mệnh của giai cấp công nhân .4

1.Khái niệm về giai cấp công nhân .4

2. Định nghĩa giai cấp công nhân .5

3. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân: .5

4.Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân .8

4.1 Những điều kiện khách quan cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân .8

4.2 Nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân 9

Chương II:Giai cấp công nhân Việt Nam và sự phát triển của nó trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN

.11

1. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam .11

2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa .12

3.Giai cấp Công nhân Việt Nam trong sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa .14

3.1Thực trạng giai cấp công nhân hiện nay .14

3.2 Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm củng cố và phát triển giai cấp công nhân hiện nay .16

C. KẾT LUẬN 23

D. Tài liệu tham khảo 25

 

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 35609 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và hướng phát triển của nó trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Sự ngăn cách giữa lao động chân tay và lao động trí óc là một sai lầm về lý luận. Cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho thành phần giai cấp công nhân thêm đa dạng, bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc, lao động trong khu vực sản xuất vật chất và dịch vụ…. Quá trình trí thức hóa phát triển sẽ có thể đưa tới một tầng lớp đặc biệt trong giai cấp công nhân chứ không hề xóa bỏ giai cấp công nhân. Nhìn chung cách mạng Khoa học kỹ thuật sẽ làm cho giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Ngày nay, sau sự sụp đổ của mô hình Chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước, các nhà lý luận tư sản lại một lần nữa cao giọng cho rằng họ đang nói “những lời cuối cùng cho Mác” (“the last words to Mark”) và cho lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở một số nước vừa qua không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác và lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trái lại, ở nhiều nguyên nhân của cuộc khủng hoảng sự sụp đổ đó là xuất phát từ chỗ không nắm vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và không thực hiện chuyên chính vô sản một cách đúng đắn, mơ hồ về mâu thuẫn giai cấp trên bình diện thế giới. 4. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là do địa vị kinh tế - xã hội của nó qui định. 4.1 Những điều kiện khách quan cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. - Nền Công Nghiệp ngày càng hiện đại ở cả trong Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội đã tạo ra một cách khách quan cho giai cấp công nhân có những đặc điểm cơ bản mà không giai cấp tầng lớp nào có được, kể cả trí thức. Chủ nghĩa Mác- Lênin nhận định rằng, giai cấp công nhân vừa là sản phẩm của công nghiệp hiện đại, vừa là chủ thể cơ bản nhất là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội hiện đại. - Nền Công Nghiệp hiện đại vừa đòi hỏi giai cấp công nhân nâng cao trình độ không ngừng, vừa là điều kiện trực tiếp cung cấp ngày càng nhiều nhận thức văn hóa, khoa học, công nghệ, công tác- xã hội…cho giai cấp công nhân. - Nền Công nghiệp hiện đại ngày càng phát triển, làm biến đồi cơ cấu kinh tế, kỹ thuật của từng bộ phận, nông nhân, trí thức tiến bộ…cũng biến đổi theo hướng ngày càng gắn bó với giai cấp công nhân, “gia nhập” giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân ngày càng đông đảo và hiện đại hơn. - Trong chế độ Tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn khách quan giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản chủ nghĩa về Tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này biều hiện ra thành mâu thuẫn ngày càng ngay gắt, không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ chế độ Tư bản chủ nghĩa. Điều này tất yếu dẫn đến Cách mạng Xã hội chủ nghĩa, thay đổi chế độ xã hội về bản chất thì mới giải quyết triệt để mâu thuẫn nói trên. Lãnh đạo tổ chức và thực hiện Cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Từ sự phân tích nêu trên cho thấy từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội là tất yếu lịch sử. Tuy nhiên, những nước chưa qua chế độ Tư bản chủ nghĩa chưa có nền Công nghiệp hiện đại, chưa có Lực lượng sản xuất phát triển cao thì những nước này vừa nằm trong tính tất yếu chung của thời đại – thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội , vừa có tính quy luật đặc thù- tính tất yếu từng bước thực hiện quá độ lên Chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa”. Tính tất yếu đặc thù này không chỉ được quy định bởi nhiều yếu tố khác mông tính tổng hợp sau đây: + Trong điều kiện thời đại ngày nay, thời đại cách mạng Khoa học - Công nghệ, làm cho lực lượng sản xuất xã hội xã hội hóa cao theo xu hướng “Quốc tế hóa” một cách phổ biến, các nước Xã hội chủ nghĩa chậm phát triển về mặt kinh tế có cơ hội hợp tác quốc tế ngày càng lớn. + Đã có những nước có nền công nghiệp hiện đại thực hiện thắng lợi cách mạng Xã hội chủ nghĩa, bước đầu Chủ nghĩa xã hội…như một trào lưu thế giới mới, có cả những kinh nghiệm lịch sử về thành tựu và về sai lầm. + Có phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc ngày càng cao, giải quyết mâu thuẫn giữa Chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc bị áp bức. +Hệ tư tưởng Mác – Lênin đã ảnh hưởng sâu rộng đối với mỗi dân tộc và đối với toàn cầu. Đã hình thành Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nề tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, được cả dân tộc tin cậy, thừa nhận là lãnh tụ chính trị. Do đó, Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. 4.2 Nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân - Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thực tiễn. Bởi vì, những nguyên lý cơ bản đó được chủ nghĩa Mác – Lênin khái quát từ thực tiễn sản xuất, kinh tế và phát triển trong Chủ nghĩa tư bản gắn với sự phát triển của nền công nghiệp ngày càng hiện đại, có thể khái quát nội dung cơ bản sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân qua mấy điểm sau đây. * Một là, ngay trong Chủ nghĩa tư bản hàng thế kỷ nay, cũng như trong Chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân trước hết phải được đảm nhận sứ mệnh trực tiếp là chủ thể lao động sản xuất công nghiệp để đóng góp cho xã hội những sản phẩm vật chất và tinh thần ngày càng hiện đại hơn. Tách rời sản xuất công nghiệp, giai cấp công nhân không còn là mình nữa. Những thành tựu to lớn về sản xuất Chủ nghĩa tư bản hàng thế kỷ nay và những thành tựu bước đầu trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội đều có sự đóng góp rất to lớn và quyết định nhất của giai đoạn công dân. Số lượng và chất lượng giai cấp công nhân ngày càng tăng. Cả trong Chủ nghĩa tư bản và trong chủ nghĩa xã hội, nếu để giai cấp công nhân không có việc làm, không phát triển sản xuất công nghiệp hiện đại thi công là gạt bỏ một nội dung cơ bản nhất của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nghiệp. Chủ nghĩa xã hội đang và sẽ từng bước khắc phục tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm và nghèo khổ của giai cấp công nhân, điều mà do bản chấ của mình, chế độ Tư bản chủ nghĩa qua 4 thế kỷ nay đã không giải quyết được. * Hai là, giai cấp công nhân phải có những hoạt dộng chính trị, tư tưởng, tổ chức để thông qua Đảng của mình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, xóa bỏ chế độ kinh tế - chính trị và xã hội cũ, bảo vệ chính quyền mới của mình. * Ba là, giai cấp công nhân thông qua Đảng của mình lãnh đạo toàn xã hội trên lĩnh vẹc chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội … nhất là về kinh tế, để từng bước hình thành và phát triển xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đây là nội dung cơ bản nhất quyết định nhất, phức tạp và lâu dài nhất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Không thể nhận thức và hoạt động chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội … cũng không thể mơ hồ, hữu khuynh dẫn đến tự phát Tư bản chủ nghĩa. * Bốn là, giai cấp công nhân ở mỗi nước luôn luôn mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở tất cả các nước vì hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây là nội dung thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân. * Năm là, giai cấp công nhân và Đảng cộng sản thường xuyên đấu tranh chống mọi thứ chủ nghĩa cơ hội, bọn phản động, đấu tranh chống lại mọi thế lực thù địch của nhân dân với Chủ nghĩa xã hội. CHƯƠNG II GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG Xã Hội Chủ Nghĩa Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ đầu thế kỉ này, lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất(1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai(1924 – 1929). Cùng với quá trình phát triển cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ công nhân quốc tế. Thứ nhất: sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp công nhân sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc được thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư bản và tiểu tư bản thất bại. Thứ hai: ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác thống nhất được chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu cách mạng triệt để. Thứ ba: giai cấp công nhân nước ta xuất thân từ nông dân lao động thực dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên có quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc. Thứ tư: từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam luôn phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, luôn là lực lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại. Thứ năm: quá trình “tri thức hóa” giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ, từng bước hình thành giai cấp công nhân tri thức Việt Nam. Việc hình thành giai cấp công nhân tri thức không có nghĩa là sự bổ sung và lực lượng giai cấp công nhân có trình độ cao mà là giai cấp công nhân được điều khiển những công nghệ tự động hóa của nền kinh tế tri thức. Vậy sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa, nội dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới là “Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa…” Sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người lao động, xây dựng một “xã hội dân giàu vững mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Hiện nay để sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nội dung trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với kinh tế tri thức giữ vững đinh hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay “rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế. Theo đó phát triển giai cấp công nhân nước ta cả về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trọng sự nghiệp đổi mới. Phát triển giai cấp công nhân cũng chính là phát triển, hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử hiện đại – cơ sở xã hội quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và góp phần vào sự nghiệp cách mạng Tổ quốc. Trước mắt, trong những năm tới thực hiện thắng lợi mục tiêu “nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước cồng nghiệp theo hướng hiện đại. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi kèm với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh”. Nói một cách khái quát về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và góp phần xứng đảng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Để làm tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi giai cấp công nhân phải nổ lực phấn dấu không ngừng. Mỗi công nhân, người lao động phải có ý thức được trách nhiệm của mình đối với giai cấp, với dân tộc trước những thời cơ lớn và thách thức gay gắt. Phải không ngừng học tập và nâng cao trình độ công tác, chuyên môn nghề nghiệp, rèn luyện phẩm chất đạo đức và tác phong công nghiệp, quyết tâm vươn lên làm giàu cho mình, cho gia đình, góp phần làm giàu cho xã hội. Tích cực chủ động tham gia xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong từng tập thể và trong toàn bộ giai cấp góp phần xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Mỗi công nhân, người lao động phải thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc gia nhập, tham gia hoạt động công đoàn và tổ chức công đoàn lớn mạnh. Bởi chỉ có xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh thì mới thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức, người lao động và có thể thực hiện tốt nhiệm vụ vận động, tổ chức công nhân viên chức, người lao động, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng. Ngoài ra đòi hỏi phải thực hiện kế hoạch hóa gia đình một cách đúng đắn, phải biết dạy con cái, sẽ là thế hệ công nhân mai sau, những người tiếp tục lãnh đạo đất nước để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội Giai cấp Công nhân Việt Nam trong sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa Thực trạng giai cấp công nhân hiện nay Giai cấp công nhân nước ta hiện nay có khoảng 4.53 triệu người chiếm 6% dân số. Về cơ cấu thành phần kinh tế, công nhân trong các doanh nghiệp Nhà nước từ chỗ là đại diện cho toàn bộ giai cấp công nhân trong thời kỳ trước đổi mới nay chỉ giữ một số lượng và tỉ lệ thấp hơn (1.83 triệu, chiếm 40%) so với công nhân ngoài nhà nước (2.86 triệu, chiếm 59.2%). Tỷ lệ công nhân Nhà nước tỷ lệ nghịch với tốc độ và quy mô đổi mới, doanh nghiệp Nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ trong những năm gần đây dưới sức ép của nhu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của kinh tế quốc tế. Hiệu quả tất yếu nhưng không mong muốn của tiến trình này là hiện có hơn 150.000 người vốn là công nhân Nhà nước nay thuộc dạng dư dôi thất nghiệp. Cơ cấu thành phần của công nhân rất phức tạp, có những người vừa làm Nhà nước vừa làm tư nhân mang danh là công nhân nhưng lại sống bằng nghề phụ, kinh tế hộ cá thể. Về cơ cấu ngành nghề: giai cấp công nhân nước ta thường làm việc trong ngành nghề truyền thống: luyện kim, cơ khí, điện. Trong thời kỳ đổi mới, công nhân làm trong các ngành dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện viễn thông, ngân hàng) đã tăng lên nhanh cùng với tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đáng chú ý là đã xuất hiện một bộ phận mới dù chiếm tỷ lệ nhỏ đó là công nhân tri thức, những người có tri thức và có kỹ năng cao, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng giá trị tăng cao như tư vấn thiết kế, quản lý chất lượng đồng bộ. Số lượng công nhân có trình độ đại học, cao đẳng ở nước ta chiếm trên 150.000 người (khoảng 33%). Về kinh tế: ngoài bộ phận nhỏ công nhân tri thức có thu nhập cao, bộ phận công nhân trong các doanh nghiệp Nhừ nước có một sô lĩnh vực có tính độc quyền có mức thu nhập khá, còn lại phần lớn công nhân nước ta có mức thu nhập thấp. Về chính trị - xã hội: công nhân có địa vị bằng tầng lớp tri thức, tầng lớp công chức. Ngay trong doanh nghiệp Nhà nước, quyền lực và vai trò của công nhân còn bị hạn chế. Trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức Đảng và các tổ chức thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động, công nhân thường bị giới chủ chèn ép, quản lý chặt chẽ, hoặc rất ít khả năng đấu tranh với các ông chủ dù chỉ là bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Tuy nhiên, hiện nay giai cấp công nhân còn một số hạn chế. Đó là sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân hành nghề. Tác phong công nghiệp và kỹ thuật lao động còn nhiều hạn chế. Đa phần công nhân từ nông dân mà ra, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một số bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa được thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế và phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân chưa đồng đều, sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ Đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình, việc làm, đời sống vật chất tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, đặc biệt ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân của chính tình hình trên: quá trình đổi mới phát triển kinh tế xã hội đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp công nhân. Tuy nhiên những hạn chế yếu kém trong phát triển kinh tế xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống và tư tưởng, tình cảm của công nhân. Đảng có chú trọng đến giai cấp công nhân nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới. Nhà nước ban hành nhiều chính sách pháp luật xây dựng giai cấp công nhân, nhưng những chính sách pháp luật này vẫn nhiều hạn chế bất cập. Công cuộc đổi mới đất nước, định hướng Xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là việc xây dựng xã hội mới, nhất là việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không có lực lượng xã hội nào có thể thay thế được trong sự nghiệp…. “lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động làm chủ đất nước phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm củng cố và phát triển giai cấp công nhân hiện nay. Xuất phát từ lịch sử, truyền thống và thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam, từ yêu cầu mới của sự nghiệp Công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải xác định phương hướng giải pháp chủ yếu nhằm củng cố, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam một cách toàn diện và đồng bộ, Công nghiệp hóa- hiện đại hóa cũng không đơn thuần chỉ là vấn đề thay đổi kỹ thuật sản xuất, mà là một quá trình phát triển đất nước một cách toàn diện và bền vững. Điều đó thể hiện trong các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhất là từ nghị quyết hội nghị giữa nhiệm kỳ (khóa VII) của Đảng, nghị quyết hội nghị lần thứu VII, BCH TW khóa VII và nghị quyết đại hội VIII của Đảng. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ để thực hiện thắng lợi mục tiêu "đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại", mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là: Theo Nghị Quyết Số 20-NQ/TW Ngày 28/1/2008 Hội Nghị Lần Thứ Sáu Ban Chấp Hành Trung Ương Khóa X: Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 1- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế Đổi mới tổ chức, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân, hướng vào giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt ra: về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; về vấn đề trí thức hoá giai cấp công nhân; về công nhân tham gia sở hữu doanh nghiệp; về mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; về sự phân hoá và mối quan hệ trong nội bộ giai cấp công nhân; về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới; về tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp; về vai trò làm chủ của giai cấp công nhân, quan hệ giữa người sử dụng lao động và nguời lao động; về mối quan hệ đoàn kết, hợp tác giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân các nước trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế; về những âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" và tuyên truyên phản động của các thế lực thù địch đối với giai cấp công nhân;... Qua đó cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng giai cấp côngnhân phát triển toàn diện trong thời kỳ mới. 2- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ, công nhân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng, bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, để nước ta có một đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu nhanh và làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những nhà kinh doanh có tài, có đức, các nhà quản lý giỏi và các cán bộ khoa học - kỹ thuật xuất thân từ công nhân có trình độ cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại trong nền kinh tế thị trường, hội nhập. Quy hoạch nguồn nhân lực, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp mới, hiện đại. Chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân trong các dân tộc thiểu số, ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chú trọng đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề. Có chính sách để các thành phần kinh tế tham gia đầu tư các cơ sở đào tạo nghề với phương tiện kỹ thuật hiện đại. Có chính sách khuyến khích liên kết các cơ sở đào tạo nghề và các doanh nghiệp trong đào tạo, đào tạo lại. 3- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công nhân Cần nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị, ý thức công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh thần phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, tinh thần đấu tranh xây dựng, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp,... cho công nhân. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và hoạt động của tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với công tác tuyên truyền, giáo dục trong công nhân; đảm bảo định hướng thống nhất nội dung và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Nhà nước đầu tư và có chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư (được tính vào giá trị đầu tư và hạch toán vào chi phí sản xuất) xây dựng và hoạt động của các nhà văn hoá lao động, nhà văn hoá thanh niên, câu lạc bộ công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng, nơi sinh hoạt của tổ chức đảng, tổ chức công đoàn, thanh niên, phụ nữ ở các khu công nghiệp tập trung. 4- Bổ sung, sửa đổi, xâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin- Sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan