MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: CÁC PHÉP BIỆN CHỨNG TRƯỚC TRIẾT HỌC MÁC 3
1.1. Phép biện chứng thời cổ đại 3
1.1.1. Triết học Trung Hoa cổ đại 3
1.1.2. Triết học Ân Độ cổ đại 5
1.1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại 6
1.2. Phép biện chứng thời kỳ Phục hưng và cận đại ở Tây Âu 11
1.3 Phép biện chứng cổ điển Đức 13
CHƯƠNG 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT MÁC XÍT 16
2.1. Những tiền đề về kinh tế- xã hội, lý luận, khoa học cho sự ra đời phép biện chứng duy vật. 16
2.2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật 17
2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng 20
KẾT LUẬN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12091 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự phát triển của phép biện chứng trong triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật chất là vĩnh hằng nhưng không đứng yên, biến đi không nhừng từ dạng này sang dạng khác. Prakriti không ngừng biến hoá, phát triển trong không gian theo luật nhân - quả dẫn tới xuất hiện tính đa dạng của giới tự nhiên. Tuy nhiên, về bản thể luận, phái Samkhya theo quan điểm nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại hai bản nguyên của vũ trụ là bản nguyên vật chất Prakriti và bản nguyên tinh thần Prusa.
Tóm lại, Triết học Ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của nhân loại thời kỳ cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần đã manh nha hình thành tư tưởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kỳ này cũng bộc lộ những hạn chế như: coi linh hồn con người là bất tử, có yếu tố duy tâm….
1.1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI TCN. Cơ sở kinh tế của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học…Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Đời sống chính trị của Hy Lạp lúc bấy giờ sôi động, những quan hệ thương mại với nhiều nước khác nhau trên Địa Trung Hải. Sự tiếp xúc với đời sống sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ của nhân dân các nước ấy đã góp phần quyết định và làm phát triển thế giới quan duy vật và biện chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Có thể tìm hiếu các tư tưởng biện chứng nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại qua một số đại diện cơ bản sau đây:
• Talét (625-547 TCN):
Talet là đại biểu tiêu biểu của trường phái triết học Mile. Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện chứng tự phát. Ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi tồn tại đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước. Theo Talét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng mà nước là nền tảng của vòng tuần hoàn đó. Tuy nhiên, các quan điểm triết học duy vật của Talét mới chỉ dừng lại ở mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính.
• Hêraclít ( 540- 480 TCN)
Theo các nhà kinh điển Mác- Lênin thì Hêraclit là người sáng lập phép biện chứng và ông xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật.
Thứ nhất: Quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít không có sự vật hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả đều ở trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại, ông từng nói: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông” và “Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới”….
Thứ hai: Hêraclit thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập, trong các mối quan hệ khác nhau, chúng chuyển hóa, liên hệ và tác động lẫn nhau. Chẳng hạn, “đối với loài cá - ông nói - thì nước là rất cần thiết cho sự sống, nhưng đối với con người thì đó là một loại độc tố có hại” Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại, Nxb. Tư tưởng, Mátscova, 1955, tr.46( tiếng Nga)
, cũng như “một con khỉ dù đẹp đến đâu nhưng vẫn là xấu nếu đem so với con người” Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại, Nxb. Tư tưởng, Mátscova, 1955, tr.49( tiếng Nga)
. Sự xuất hiện của mặt đối lập này là quy định sự xuất hiện của mặt đối lập kia: “Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn, mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi thú vị hơn”. Song sự vận động biến hóa trong quan niệm của Hêraclit chỉ dừng lại trong vòng tuần hoàn, khép kín của tự nhiên. Ông chưa biết đến sự phát triển tiến lên, nhưng đó cũng là do sự giới hạn của lịch sử.
Thứ ba: Theo Hêraclít, sự vận động và phát triển của thế giới là do quy luật( logos) quy định. Logos khách quan là trật tự kết quả mọi cái đang diến ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan.
Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng sơ khai, nhưng về cơ bản là đúng đắn. Tuy nhiên, ông lại có hạn chế về mặt chính trị, thù địch với nhân dân và ông chủ trương dùng chính quyền để nhanh chóng dập tắt phong trào dân chủ.
Đêmôcrít (460-370 TCN)
Ông là một trong những người đã phát triển học thuyết nguyên tử lên một trình độ mới, ông kế thừa quan điểm của Hêraclít cho rằng mọi sự vật đều biến đổi không ngừng. Đêmôcrít đã đưa ra lý thuyết về vũ trụ học: Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử triết học.
Ông khẳng định: Vũ trụ là vô tận và vĩnh viễn, có vô số thế giới phát sinh, phát triển và bị tiêu diệt, quan điểm của ông về vận động gắn liền với vật chất là một phỏng đoán có giá trị đặc biệt. Theo ông, vận động của nguyên tử là vĩnh viễn và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử là bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó. Tuy nhiên, ông đã không lý giải được nguồn gốc của sự vận động. Dựa trên học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít đã đi tới quan điểm quyết định luận, đó là thừa nhận sự ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên và khách quan của các hiện tượng tự nhiên. Đây là một quan điểm có giá trị của Đêmôcrít đống góp cho nền triết học Hi Lạp cổ đại.
Mặc dù triết học Đêmôcrít còn mang tính thô sơ, chất phác nhưng những đóng góp của ông về các tư tưởng biện chứng và thề giới quan duy vật là rất đáng ghi nhận.
Platôn (427-347TCN)
Platôn là một trong những nhà triết học, nhà tư tưởng kiệt xuất nhất thời cổ đại. Ông được coi là nhười mở đầu cho siều hình học ở phương Tây. Các quan điểm triết học của ông chứa đựng những yếu tố biện chứng. Ông thừa nhận sự vận động của thế giới song đó chỉ là vận động theo sự điều khiển của ý niệm. Ông chia thế giới thành hai loại:
- Thế giới của ý niệm: là thế giới tồn tại chân thực bất tử, tuyệt đối và là cơ sở tồn tại của thế giới sự vật cảm tính.
- Thế giới của các sự vật cảm tính: là thế giới tồn tại không chân thực, thường xuyên biến đổi và phụ thuộc vào thế giới của những ý niệm.
Đặc biệt, trong lý luận nhận thức của Platôn về cơ bản đó là: nhận thức là sự hồi tưởng, là sự liên hệ các chân lý được hồi tưởng lại. Cái chủ yếu nhất trong phương pháp hồi tưởng lại là nghệ thuật suy diễn lôgic, đàm thoại triết học hay còn gọi là nghệ thuật biện chứng. Platôn đã phát triển quan niệm của Xôcrat về phép biện chứng như một nghệ thuật tranh luận, ông hiểu nó theo hai khía cạnh: Thứ nhất, đó là kỹ năng đặt câu hỏi và giải đáp. Thứ hai, đó là khả năng sử dụng và tiếp cận các khái niệm, tổng hợp các quan điểm khác nhau trong tranh luận để đi đến ý tưởng thống nhất, xem tranh luận là phương tiện để đi tới chân lý. Phép biện chứng ở Platôn “không phải là thứ biện chứng mà trước đây chúng ta tìm thấy ở các nhà ngụy biện, những người nói chung đã lầm lẫn các quan niệm… mà là phép biện chứng vận động trong các khái niệm thuần túy, đó là vận động lôgic tự biện” G.V. Ph. Hêghen: Các bài giảng lịch sử triết học, Nxb.Tư tưởng, Mátxcơva, 1974, tr.104 (tiêng Nga)
. Nhưng đó là phép biện chứng duy tâm, biện chứng của các khái niệm, tách rời hiện thực, từ bỏ cảm giác, chỉ nhận thức bằng tư duy thuần tuý.
Tóm lại, mặc dù tư tưởng biện chứng của Platôn mang tính duy tâm khách quan nhưng đó lại là một hệ thống triết học khá hoàn chỉnh và nhất quán. Nó đối lập hoàn toàn với hệ thống triết học duy vật của Đêmôcrit về mọi lĩnh vực: bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức học, quan niệm chính trị - xã hội. Điều này tạo nên cuộc đấu tranh điển hình giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học. Triết học của Platôn đã có công lớn tròn việc khẳng định bản chất, vai trò của khái niệm. Ông đặt nền móng cho việc xây dựng các phạm trù và tư duy lý luận nói chung.
Arixtốt ( 384- 322 TCN)
Arixtốt là bộ óc bách khoa toàn thư của triết học cổ đại Hy Lạp, người đầu tiên khám phá ra những quy luật sơ đẳng của tư duy biện chứng. Đây là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của thời cổ Hy Lạp.
Xu hướng duy vật và phát triển biện chứng trong triết học của Arixtốt thể hiện ở chỗ: ông thừa nhận tự nhiên là toàn bộ sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi, không có bản chất sự vật tồn tại bên ngoài sự vật, hơn nữa sự vật nào cũng là một hệ thống và có quan hệ với các sự vật khác. Ông cho rằng vận động gắn liền với các vật thể, với mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định, vận động là không thể bị tiêu diệt “đã có vận động và mãi mãi có vận động”. Ông đã tiến gần đến quan niệm vận động là tự thân của vật chất. Song cuối cùng ông lại rơi vào duy tâm khi cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi sự vận động. Ông là người đầu tiên hệ thống hoá các hình thức vận động ở sáu dạng khác nhau.
Về logic học, Arixtốt đã có gắng giải thích mối quan hệ thống nhất mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, nhưng ông không giải quyết được vấn đề chuyển hoá từ cái riêng thành cái chung. Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử và là nhà tư tưởng của giai cấp chủ nô Hy Lạp cho nên về bản thể luận triết học ông giao động giữa chủ nghĩa duy tâm và duy vật nên ông lại rơi vào phái nhị nguyên luận.
Tóm lại, triết học Hy Lạp cố đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm. Với những tư tưởng nổi bật như thuyết nguyên tử của Đêmôcrít, phép biện chứng của Hêraclit, của Platôn, biện chứng chất phác của Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã hàm chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện chứng trong lịch sử triết học nhân loại. Ăngghen đã đánh giá: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh…Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác, tự nhiên, chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu…Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết, đối với họ mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp” C.Mác và Ăngghen :Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t 20, tr. 694
. Do đó, nên coi phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử phép biện chứng.
1.2 Phép biện chứng thời kỳ Phục hưng và cận đại ở Tây Âu
Trước khi bước sang thế kỷ XV- XVI ở Châu Âu là thời đại Phục hưng, lịch sử triết học đã trải qua thời kỳ trung cổ với sự thống trị của tư tưởng thần học. Do đó, chủ nghĩa kinh viện trở thành nét chủ đạo của Triết học Tây Âu thời trung cổ, tất cả vạn vật đều do Chúa trời và thần thánh tạo nên. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi phục lại quan điểm duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm.
Tuy nhiên, phép biện chứng thời kỳ này vẫn có bước phát triển về “sự phù hợp của các mặt đối lập” của Gioocdanơ Brunô( 1548-1600). Chịu ảnh hưởng nhiều quan niệm của Arixtốt, Brunô khẳng định sự thống nhất vật chất và hình dạng trong Uno( cái duy nhất). Uno được coi là sự thống nhất của các mặt đối lập( cực đại - cực tiểu, tính thống nhất - tính nhiều vẻ, khả năng - hiện thực…). Nó là tất cả, đồng thời lại không là gì cả, nó ở trong tất cả mọi cái, nhưng đồng thời lại không ở đâu cả. Ông nhận thức được chân lý: mọi sự vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng ta.
Tiếp đó, một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thế kỷ VXII là Phranxis Bêcơn (1561-1626). Ph.Bêcơn khẳng định vật chất không tách rời vận động, nhận thức biện chứng của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến hành phân vận động thành 19 loại, trong đó bao gồm cả đứng yên. Tuy nhiên, tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính cố hữu của vật chất, ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu phân tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những phương pháp đó đã tạo ra thói quen nghiên cứư xem xét sự phận hiện tượng trong trạng thái cô lập, tách rời cà bất biến.Từ khi Ph. Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp khoa học tự nhiên áp dụng vào triết học thì phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong triết học.
Phương pháp siêu hình đóng một vai trò nhất định trong quá trình nhận thức thế giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu tầm, mô tả thế giới tự nhiên. Do đó, khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quy trình phát sinh phát triển của sự vật, hiện tượng thì nó bộc lộ những hạn chế. Vì vậy nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen.
Tóm lại, tuy có những hạn chế ở phương pháp tư duy siêu hình, máy móc, quan điểm duy tâm về xã hội…nhưng triết học thời Phục hưng, Cận đại, đặc biệt thời Cận đại có một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển triết học của nhân loại. Những tư tưởng duy vật tiến bộ và những yếu tố biện chứng thời kỳ này đã được các nhà triết học duy vật thời sau phát triển, đồng thời được Mác, Ăngghen, Lênin chọn lọc và kế thừa trong quá trình xây dựng học thuyết triết học mácxit.
1.3 Phép biện chứng cổ điển Đức
Như Lênin đã từng đánh giá: Dù có sự thần thánh hoá duy tâm, nhưng phép biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng, lôgic học và lý luận nhận thức. Trong các nền triết học trước Mác thì triết học cổ điển Đức có trình độ khái quát hoá cao với kết cấu hệ thống chặt chẽ, logic. Nền triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Cantơ đạt đỉnh cao là Hêghen sau đó suy tàn ở triết học Phoiơbac.
Cantơ (1724-1804) là người sáng lập ra trường phái triết học cổ điển Đức. Ông cho rằng chỉ khi nhận thức ở trình độ lý tính thì mới có mâu thuẫn mà chưa thấy được rằng mâu thuẫn là vốn có trong hiện thực khách quan. Mâu thuẫn chưa phải là mâu thuẫn biện chứng giữa chính đề và phản đề, chưa có sự thống nhất và chuyến hoá lẫn nhau. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng trong vấn đề này Cantơ đã tiến gần đến phép biện chứng.
Hêghen(1770-1831) được coi là nhà biện chứng lỗi lạc nhất của triết học trước Mác, phép biện chứng của ông là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học mácxit. Triết học của ông có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học của ông được gọi là “tinh thần Phổ”. Các quan niệm truyền thống coi biện chứng chỉ là nghệ thuật tranh luận, còn Hêghen cho biện chứng là khoa học về sự phá triển của các khái niệm. Ông khẳng định mọi sự vật trong thế giới đều phát triển theo quy luật biện chứng. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với bản chất sự vật. Ông viết: “Phép biện chứng nói chung là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Cái biện chứng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính” Triết học dành cho cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học. Nxb CTQG, 1997, tập 1, tr 331.
. Luận điểm xuyên suốt trong hệ thống triết học cúa Hêghen là: “Tất cả cái gì là hiện thực đều là hợp lý và tất cả những cái gì hợp lý đều là tồn tại” C. Mác, Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Nxb Sự thật, HN, 1984, tr.361.
. Hêghen là người đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là người đầu tiên trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy một cách biện chứng có nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
Trong logic học, nếu như các quan điểm đương thời cho rằng phát triển chỉ là sự chuyển động cơ học hay tăng giảm đơn thuần về số lượng thì Hêghen lý giải sự phát triển đó là do sự thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự biến đổi nhảy vọt về chất, là sự nảy sinh và giải quyết giữa các mặt đối lập trong lòng mỗi sự vật, là sự phủ định của phủ định, trong đó cái mới thay thế cái cũ. Ônh cũng cho rằng phát triển là quy luật khách quan không gì có thể cưỡng lại nổi. Như vậy, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù triết học như lượng - chất, vật chất - vận động mà còn đề cập đến các quy luật khác như lượng đổi dẫn đến chất đổi, quy luật phủ định biện chứng. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động phạm trù của tư duy của kinh nghiệm.
Khi nghiên cứu xã hội, Hêghen khẳng định sự phát triển của xã hội là sự đi lên. Quá trình phát triển của lịch sử có tính kế thừa. Lịch sử là tính thống nhất giữa tính khách quan và chủ quan trong hoạt động của con người. Hêghen đã có công xây dựng một hệ thống các phạm trù các quy luật của phép biện chứng như là những công cụ của tư duy biện chứng.
Trong khi hệ thống triết học của Hêghen chú trọng những tư tưởng biện chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính duy tâm bảo thủ, thể hiện ở sự vận động của xã hội là sự vận động của tư duy (ý niệm tuyệt đối) sinh ra. Do đó, mà C. Mác gọi phép biện chứng của Hêghen là: “Phép biện chứng đi lộn đầu xuống đất”. Vì vậy, cần phải đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện thực, nghĩa là trên quan điểm duy vật. Đồng thời cũng không thể phủ nhận vai trò lịch sử của triết học Hêghen ở chỗ: nó đã phát triển đến độ hoàn chỉnh phép biện chứng bao quát toàn bộ những vấn đề cốt lõi của tự nhiên, xã hội và tư duy với cách lập luận, lý giải rất sâu sắc. Chính Mác, Ăngghen và sau này cả Lênin nữa đều đánh giá rất cao vai trò và ý nghĩa của triết học Hêghen mặc dù nó duy tâm và phương pháp biện chứng trong hệ thống của ông còn nhiều mâu thuẫn. Cùng với chủ nghĩa duy vật Phơbách, phép biện chứng Hêghen đã trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng nhất của triết học mácxit.
CHƯƠNG 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT MÁC XÍT
2.1. Những tiền đề về kinh tế- xã hội, lý luận, khoa học cho sự ra đời phép biện chứng duy vật.
Vào nhứng năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được Mác - Ăngghen sáng lập nên và được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu thế kỷ XX. Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác- Ăngghen là một quá trình đầy khó khăn phức tạp, dựa trên các tiền đề về kinh tế - xã hội, tiền đề về lý luận và tiền đề về khoa học tự nhiên.
+ Tiền đề kinh tế - xã hội: Đầu thế kỷ XIX phương thức tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong của nó, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện đó đã cung cấp thực tiễn cho C.Mác- Ăngghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện chứng.
+ Tiền đề lý luận: Triết học Mác ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị trong các tư tưởng triết học tiến bộ của nhân loại, đặc biệt phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là một trong những tiền đề lý luận trực tiếp của triết học Mác. Mác đã đánh giá cao tư tưởng biện chứng của triết học Hêghen. C.Mác cho rằng ở Hêghen biện chứng bị lộn đầu xuống đất, chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện được cái hạn nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí.
+ Tiền đề về khoa học tự nhiên: Cùng với những nguồn gốc lý luận trên đây, những thành tựu của khoa học tự nhiên có vi trò quan trọng không thể thiếu cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật. Trong số các thành tựu khoa học tự nhiên, có ba phát minh lớn của khoa học tự nhiên thời kỳ này là: định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Maye năm 1845( đã chứng minh rằng mọi dạng vận động của vật chất đều được chuyển hóa và bảo toàn lẫn nhau), học thuyết về tế bào được phát hiện vào cuối những năm 30 của thế kỷ XIX( chứng minh toàn bộ thế giới sinh vật đều cấu tạo từ tế bào, nối liền mọi sinh vật với nhau, chứng minh sự thống nhất của giới sinh vật) và thuyết tiến hóa của Đarwin năm 1949( thế giới bắt đầu từ vô cơ, đến hữu cơ, đến những sinh vật đầu tiên và tiếp tục tiến hóa đến mức cao nhất là con người). Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải khái quát về mặt triết học để chỉ ra những mối liên hệ giữa các quá trình diễn ra trong tự nhiên. Điều này dẫn tới tất yếu sự thay thế thế giới duy tâm và phương pháp siêu hình bằng phép biện chứng duy vật.
Chính Mác- Ăngghen đã khái quát về mặt triết học toàn bộ những thành tựu của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
2.2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ quan (tư duy biện chứng) là cái có sau, và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy tâm của Hêghen “đứng trên hai chân của mình” tức là đứng trên nền tảng duy vật.
Theo Mác thì phép biện chứng chính là : “Khoa học về mối liên hệ phổ biến trong tự nhiên, trong xã hội và trong cả tư duy”. Theo Lênin thì phép biện chứng là “Hệ thống về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính tương đối của sự vật”.
Từ “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”(1848) Mác - Ăngghen đã trình bày một cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội. Trong đó, phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng. Giai đoạn sau này, Mác - Ăngghen đã bổ sung và phát triển lý luận triết học của mình trên nhiều vấn đề, đặc biệt là những vấn đề phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đến bộ “Tư bản”( viết từ những năm 40 và xuất bản tập I năm 1867), trước những quan điểm của các nhà lý luận tư sản cho rằng phép biện chứng trong bộ “Tư bản” chẳng qua là phép biện chứng của Hêghen, Mác viết: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác về căn bản phương pháp biện chứng của Hêghen mà còn đối lập trực tiếp với phương pháp đó. Đối với Hêghen quá trình tư duy mà ông ta biến thành chủ thể độc lập dưới cái tên là ý niệm, chính là chúa sáng tạo ra cái hiện thực, cái hiện thực này chỉ là cái biểu hiện bề ngoài của ý niệm đó. Còn ở tôi thì trái lại, cái ý niệm không phải là cái gì khác mà là cái vật chất được chuyển vào đầu óc con người và được cải tạo trong đó” Mác – Ăngghen: Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia, 1993, tr. 35
. Nghiên cứu xã hội tư bản bằng phép biện chứng, Mác đã sử dụng các quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, khẳng định đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự phát triển; quy luật lượng chất; quy luật phủ định; các quy luật không cơ bản của phép biện chứng như cặp phạm trù bản chất - hiện tượng, tất nhiên - ngẫu nhiên, khả năng - hiện thực…đều được Mác áp dụng một cách tài tình để phân tích nền tư bản chủ nghĩa. Từ đó, Mác chỉ ra bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản tồn tại trên cơ sở chế độ người bóc lột người, do đó chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị diệt vong, chủ nghĩa cộng sản tất yếu sẽ thay đổi chủ nghĩa tư bản.
Sau khi Mác mất, Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua việc khái quát các thành tựu khoa học và phê phán các lý luận triết học duy tâm, siêu hình và đấu tranh bảo vệ những tư tưởng của Mác. Những nội dung chính của phép duy vật biện chứng được Ăngghen luận chứng trong các tác phẩm như:
“Biện chứng của tự nhiên”(1873-1883): tác giả đã khái quát về mặt triết học những thành tựu về khoa học tự nhiên đạt được vào giữa thế kỷ XIX để bổ sung và phát triển phép biện chứng duy vật.
“Chống Đuyrinh” (1876-1878): trong tác phẩm này cùng với những vấn đề kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội, Ăngghen đã giải quyết triệt để những nội dung cơ bản của triết học Mác như đối tượng của triết học, vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề tính thống nhất của thế giới, vấn đề vận động, không gian, thời gian, các quy luật của phép biện chứng…
“ Lutvích Phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”: trên cơ sở phê phán Hêghen và Phơbách, Ăngghen trình bày có hệ thống quá trình phát sinh, phát triển của triết học Mác, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật.
Tóm lại, sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của triết học của Mác- Ăngghen vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế thừa có tính phê phán di sản của lý luận của loài người vừa là khách quan nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại đã chứng minh tính đúng đắn của phép biện chứng duy vật mácxit và người đưa nó lên thành đỉnh cao của phép biện chứng. Mặc dù vậy, các nguyên lý của phép biện chứng duy vật cần tiếp tục được thực tiễn kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển.
Sau Mác- Ăngghen, VI. Lênin đã đưa phép biện chứng duy vật mácxit lên một tầm cao mới. Ông làm phong phú thêm nguyên lý cơ bản của triết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu luan Triet.doc