Tiểu luận Sự phát triển kinh tế giữa các khu vực kinh tế

Chính phủ cần tập trung ngân sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, áp dụng các chính sách đầu tư đa dạng vào phát triển cơ sở hạ tầng như đường cao tốc mới, mạng lưới điện mới, hệ thống thông tin liên lạc và truyền thông, hệ thống cấp thoát nước . Sự bất cập của hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần phát triển chưa tương xứng vẫn là một nút cổ chai đối với hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Mặc dù đã có sự đầu tư khá lớn của chính phủ từ nguồn vốn ngân sách và vốn ODA, hiện vẫn còn nhiều bất cập và chậm trễ trong phát triển các công trình hạ tầng quan trọng, đặc biệt là điện năng và công trình giao thông kết nối các cảng biển chiến lược với các khu công nghiệp và thành phố. Việc thiếu hụt nguồn điện ổn định tại các khu công nghiệp và tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng – đặc biệt tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam – chỉ là 2 trong nhiều ví dụ cho thấy nhu cầu cấp bách trong việc nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng.

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3491 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự phát triển kinh tế giữa các khu vực kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải là dân thành thị. Thứ hai là an ninh xã hội. Một khi phân hóa lớn đến một độ đáng kể, tranh chấp xã hội (giữa nông dân với nhau, và giữa nông dân - dân thành phố) là điều khó tránh. Thứ ba, dân nông thôn tự mình di chuyển về đô thị, tạo ra những bài toán xã hội mới về nhà ở, số người thất nghiệp, và những tệ nạn sinh ra từ nghèo khốn. Mức sinh hoạt kinh tế đô thị sẽ bị ảnh hưởng đáng kể, với một dân số quá lớn thiếu công ăn việc làm. 2.2. Mất cân bằng về phân bố dân cư và phân bố các hoạt động kinh tế: Dân cư và nguồn lao động nước ta phân bố không đều. Điều đó phụ thuộc vào lịch sử định cư, trình độ phát triển kinh tế -xã hội, mức độ màu mỡ của đất đai, sự phong phú của nguồn nước v.v… Tính chất không đồng đều này thể hiện rõ rệt giữa các vùng và ngay trong nội bộ từng vùng lãnh thổ. Khoảng 80% số dân tập trung ở vùng đồng bằng và ven biển với mật độ dân số rất cao (đồng bằng sông Hồng 1180 người/km2 – 1999). Ở trung du và miền núi, dân cư thưa thớt hơn nhiều (TâyNguyên là 67 người/km2, Tây Bắc là 62 người/km2). Tại những vùng trung du và miền núi đang rất cần nguồn lao động để phát triển kinh tế thì dân cư lại thưa thớt, cũng do điều kiện tự nhiên mà khó có thể huy đông được nguồn nhân lực từ những vùng đông dân khác đến. Ở các khu trung tâm, thành thị thi dân cư lại tập trung đông đúc dẫn tới dư thừa lao động. Những đặc trưng của di dân hiện nay, đã khác so với trước đây: Về động lực: việc làm, thu nhập (không nhất thiết là đất canh tác), hôn nhân và đoàn tụ gia đình. Về hướng: nông thôn - đô thị, Bắc - Nam; Về hình thức: đa dạng, di dân kinh tế mới, di dân định canh, định cư, di dân ổn định biên giới và di dân tự phát. Về quy mô di chuyển: ngày càng lớn. Riêng giai đoạn 1961 - 1997, đã có 5,9 triệu dân di chuyển tới các vùng theo dự án. ở Thành phố Hồ Chí Minh, luồng di dân tự do đến không ngừng tăng lên. Thí dụ, trong giai đoạn 1986 - 1990, số dân nhập cư vào Thành phố Hồ Chí Minh là 178.196 người; giai đoạn 1994 - 1999: đã tăng lên 415.387 người, và chỉ tính riêng từ ngày 1-4-2002 đến 1-4-2003, con số này đã là 106.197 người. Sau 26 năm từ 1999 đến 2005, dân số Tây Nguyên đã tăng hơn 3 lần, chủ yếu do dân nhập cư. Tây Nguyên trở thành nơi hội tụ dân di cư từ nhiều tỉnh, thành, nhiều dân tộc và nhiều tôn giáo. Hướng di dân cũng đã thay đổi đáng kể, từ nông thôn - nông thôn phía Bắc trước năm 1975 đến di dân Bắc - Nam rồi chuyển sang hướng di dân nông thôn - đô thị và trong nước ra nước ngoài những năm gần đây. Khoảng 10 năm trở lại đây, số phụ nữ lấy chồng nước ngoài khá lớn và có xu hướng tăng lên, đặc biệt là ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. Kết hôn với người nước ngoài là một nguyên nhân mới, đáng kể của di dân và đang gây ra những hậu quả phức tạp về các mặt dân số, pháp lý, tâm lý xã hội. Cùng với quá trình công nghiệp hóa đất nước, di cư sẽ ngày càng sôi động. Vì vậy, cần có chính sách phân bố dân số cân đối với tài nguyên môi trường của các vùng kinh tế - sinh thái. Thực hiện việc phân bố dân cư hợp lý giữa các khu vực, vùng địa lý kinh tế và các đơn vị hành chính để khai thác tốt nhất tiềm năng đất đai, tài nguyên, giải tỏa sức ép dân số quá lớn ở đồng bằng sông Hồng. Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đăng ký hộ tịch, hộ khẩu và tách chức năng kinh tế, xã hội ra khỏi "Sổ hộ khẩu". Đẩy mạnh bảo vệ, chăm sóc sức khỏe sinh sản của người di cư nói chung và di dân tự do nói riêng, đặc biệt phòng, chống các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Tuyên truyền về quyền và nghĩa vụ của người di cư. Phổ biến những kiến thức cần thiết khi di cư (đăng ký hộ khẩu, tìm việc, ký kết hợp đồng lao động, bảo vệ sức khỏe, tiết kiệm, ...). Nêu những tấm gương di cư xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chân chính. Hiện nay các khu đô thị phát triển thi lực lượng lao động tập trung vào đó càng đông đặc biệt là lao động có trình độ kỹ thuật vì vậy nó là điều kiên thúc đẩy sự phát triển về kinh tế nâng cao đời sống của người đân ngược lại các khu trung du, miền núi thì đang cần đội ngũ nguồn nhân lực có chất lượng cao thì lại không thu hút được. Sự phân bố lực lượng lao động trong ngành cũng không đồng đều. Về mặt cầu, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chủ yếu được phân bổ trong khu vực nông nghiệp, nơi kỹ năng, tay nghề, và trình độ của người lao động thường không cần cao. Lực lượng lao động đang làm việc trong khu vực công nghiệp chỉ chiếm 20% và trong khu vực dịch vụ chỉ chiếm khoảng 26%. Điều này phần nào phản ánh cầu lao động giản đơn, phổ thông ở Việt Nam vẫn còn khá lớn. Đồng thời, phần lớn lao động ở Việt Nam hiện nay đang làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh. Sự phân bố dân cư không đều còn thể hiện giữa thành thị và nông thôn. 76,5% số dân sinh sống ở nông thôn, còn ở thành thị chiếm 23,5% (số liệu năm 1999).Tình hình phân bố dân cư như vậy gây ra những khó khăn cho việc sử dụng hợp lí nguồn lao động và việc khai thác nguồn tài nguyên hiện có ở mỗi vùng. Sự mất cân đối về phân bố các hoạt động kinh tế gây ra tình trạng phát triển không đồng đều. Các hoạt động sản xuất công nghiệp mang lại lợi nhuận cao, thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống cho người dân thì lại hầu như tập trung vào các thành phố lớn. Trong khi đó ở nông thôn hầu hết là sản xuất nông nghiệp, ở đây mật độ dân cư phân bố khá đông mà việc tăng tỷ trọng sản lượng nông nghiệp để tăng thêm thu nhập thì không còn hợp lý trong bối cảnh mà đầu tư cho nông nghiệp đang còn ít, cơ sở hạ tầng kém phát triển, quy hoạch không đồng bộ. Theo TS. Đặng Kim Sơn Viện Trưởng Viện Chiến Lược vs Phát Triển Nông thôn cho rằng, một định hướng chiến lược mới cho nông nghiệp, nông thôn phải xây dựng nhằm đảm bảo sự phát triển dài hạn và bền vững trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa, toàn cầu hóa của Việt Nam đang bước vào giai đoạn tăng tốc.  Do đó, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn sang các ngành phi nông nghiệp cần gắn bó phối hợp với kinh trế đô thị, công nghiệp, dịch vụ. Trên cơ sở cải thiện môi trường đầu tư ở nông thôn, phát triển thị trường tài nguyên (lao động, vốn, đất, khoa học công nghệ) để phát huy và nuôi dưỡng nội lực của khu vực kinh tế nông thôn.  3 . Tính quy luật của sự phát triển không đồng đều và nguyên nhân: 3.1. Sự phân bố các nguồn lực tự nhiên và nguồn lực nhân tạo: Những tài nguyên thiên nhiên như dầu lửa, than đá, đất đai, nguồn nước… là những nhân tố thuận lợi cho sự phát triển kinh tế. Sự phân bố các nguồn tài nguyên này không đồng đều. Ở những khu vực được thiên nhiên ưu đãi thì kinh tế và đời sống của người dân tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên cần nhận thức được một vấn đề là nguồn tài nguyên sẽ dần cạn kiệt và không tái tạo được. 3.2. Những khó khăn trong việc điều chỉnh lao động: Sự phát triển kinh tế không thể tách rời nhân tố lao động, có thể nói yếu tố lao động là nhân tố quan trọng nhất của quá trình hoạt động kinh tế. Muốn có sự phát triển đồng đều giữa các vùng lãnh thổ thì phải có sự phân bố đồng đều lực lượng lao động. Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường lao động cũng được điều tiết theo cơ chế thị trường. Thị trường lao động sẽ trở nên mất cân bằng khi có một sự thay đổi mới về cơ cấu kinh tế vùng. Xét về mặt lý thuyết, để lấy lại sự cân bằng về lao động, thu nhập và sự phát triển kinh tế giữa các vùng thì có thể điều chỉnh lực lượng lao động bằng cách di dân giữa các vùng. Nhưng trong thực tế vấn đề di dân lại không đơn giản. Có rất nhiều rào cản trong việc di chuyển lực lượng lao động từ vùng này sang vùng khác: + Yếu tố về khoảng cách + Yếu tố về tâm lý + Yếu tố về quan hệ + Các yếu tố khác Vấn đề di cư có 2 đặc điểm quan trọng: Những người ở tuổi 20-35 dễ chấp nhận di cư hơn Những người có học vấn cao hơn dễ chấp nhận di cư hơn Mặc dù việc di cư và di chuyển lao động giúp cho việc lấy lại cân bằng về sự phát triển nhưng thực ra nó lại rất dễ gây ra sự mất cân bằng khác. Vì lực lượng di cư chủ yếu ở lứa tuổi lao động sung sức, khỏe mạnh, lại có học vấn cao nên co thể nói rằng di cư làm mất đi lực lượng nòng cốt của vùng này sang vùng khác và như vậy lại tạo ra sự mất cân bằng mới. 3.3. Vấn đề vốn đầu tư: Sự mất cân bằng giữa các khu vực đô thị với khu vực nông thôn còn chịu nhiều ảnh hưởng mạnh của yếu tố vốn đầu tư. Muốn phát triển kinh tế cho 1 vùng lãnh thổ thì không thể không thu hút và huy động vốn. Các trung tâm tài chính thường đặt ở khu vực đô thị. Với khoảng cách càng xa thì chi phí sử dụng vốn càng lớn và tính an toàn cho vốn càng kém hơn. Đây chính là dào cản cho việc huy động và cung cấp vốn đầ tư cho phát triển các vùng xa. 3.4. Thành tựu của sự đổi mới: Những phát minh mới, kỹ thuật mới, công nghệ mới luôn là động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Nhưng những thành tựu mới này lại không xuất hiện và được đưa vào khai thác đồng đều giữa các vùng lãnh thổ mà nó thường xuất hiện trước các điểm trung tâm rồi dần dần mới lan truyền sang các vùng xung quanh theo dạng thẩm thấu. Do đó càng làm mất cân bằng cho sự phát triển 3.5. Quan hệ giữa mất cân bằng với giai đoạn phát triển kinh tế xã hội: Người ta thấy mức độ mất cân bằng ở các nước khác nhau là khác nhau và phụ thuộc rõ nét vào giai đoạn phát triển kinh tế xã hội. Ở các nước kém phát triển mức độ mất cân bằng chưa lớn. Ở các nước đang phát triển mức độ mất cân bằng rất cao. Còn đối với các nước công nghiệp thì mức độ mất cân bằng giảm đi và đạt đến xu hướng đồng đều 4. Các chính sách thu hẹp khoảng cách phát triển vùng: 4.1. Tạo ra các cực phát triển: Lý thuyết tạo ra các cực phát triển là dựa trên cơ sở lý luận của sự phát triển kéo theo, tức là hiệu ứng đầu tàu của một hoạt động kinh tế nào đó thúc đẩy sự phát triển kéo theo các hoạt động kinh tế khác. Người ta sẽ chọn một hoạt động kinh tế có vai trò chủ đạo phân bố ở một vị trí là đối tượng với các khu vực đã phát triển cao ưu tiên và tạo cơ hội cho nó phát triển. Ví dụ việc phát triển ngành luyện thép sẽ kéo theo cá ngành khác như khai thác than sản xuất cấu kiện thép, sản xuất thép xây dựng… Nhờ có chính sách ưu đãi mà kinh tế chủ đạo đó phát triển nhanh chóng và là ngòi nổ cho các ngành kinh tế khác trong vùng. Sự phát triển của vùng mới này sẽ làm cân bằng lại mặt bằng trình độ phát triển của quốc gia. 4.2. Cân bằng mạng lưới đô thị: Chính sách cân bằng mạng lưới đô thị là dung các biện pháp bao gồm cả các biện pháp hành chính, luật pháp và kinh tế để phân phối lại sự phát triển cho các vùng, chủ yếu là tạo điều kiện thuận lợi và tạo động lực phát triển cho các vùng chậm phát triển. Việt Nam đang từng bước xây dựng một mạng lưới đô thị hoàn chỉnh, có cơ cở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại; có môi trường và chất lượng sống đô thị tốt; có nền kiến trúc đô thị tiên tiến, giàu bản sắc; có vị thế xứng đáng, có tính cạnh tranh cao trong phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế. Theo đó, định hướng phát triển chung không gian đô thị cả nước theo hướng bảo đảm phát triển hợp lý các vùng đô thị hóa cơ bản giữa 6 vùng kinh tế - xã hội quốc gia, giữa miền Bắc, miền Trung và miền Nam; giữa phía Đông và phía Tây; gắn với việc phát triển các cực tăng trưởng chủ đạo và thứ cấp quốc gia, đồng thời bảo đảm phát triển theo mạng lưới, có sự liên kết tầng bậc theo cấp, loại đô thị. Các đô thị lớn, đô thị cực lớn như Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cần Thơ... được tổ chức phát triển theo mô hình chùm đô thị, đô thị đối trọng hoặc đô thị vệ tinh có vành đai bảo vệ để hạn chế tối đa sự tập trung dân số, cơ sở kinh tế và phá vỡ cân bằng sinh thái. Tổng thể kiến trúc cảnh quan của mỗi vùng và đô thị phải có bản sắc riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, tự nhiên, dân số - xã hội, trình độ khoa học, kỹ thuật, truyền thống văn hóa lịch sử của địa phương và các yêu cầu phát triển mới. Đặc biệt quan tâm đến kiến trúc các đô thị là trung tâm cấp quốc gia, khu vực và quốc tế như: Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; bảo vệ, tôn tạo kiến trúc cảnh quan tại các đô thị di sản, đô thị đặc thù như Huế, Hội An, Đà Lạt, Sa Pa; các khu phố cổ, phố cũ; các di sản lịch sử, văn hóa và các công trình kiến trúc cảnh quan có giá trị... Theo lộ trình thực hiện, từ nay đến 2015 ưu tiên phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng đô thị lớn và các khu kinh tế tổng hợp đóng vai trò là cực tăng trưởng chủ đạo cấp quốc gia. Từ năm 2016 đến 2025 ưu tiên phát triển các vùng đô thị hóa cơ bản, giảm thiểu sự phát triển phân tán, cục bộ; đầu tư xây dựng, nâng cấp các đô thị đóng vai trò là trung tâm vùng, tiểu vùng. Giai đoạn từ năm 2026 đến 2050 chuyển dần sang phát triển theo mạng lưới đô thị. Theo dự báo đến năm 2025, tổng số đô thị cả nước khoảng 1.000 đô thị; trong đó, đô thị từ loại I đến đặc biệt là 17 đô thị, đô thị loại II là 20 đô thị; đô thị loại III là 81 đô thị, đô thị loại IV là 122 đô thị, còn lại là các đô thị loại V. Khoảng 52 triệu người sẽ sống tại đô thị. 4.3.Một số chính sách khác: 4.3.1. Tạo ra các động cơ phát triển bằng trợ cấp và trợ giá của chính phủ: Các hỗ trợ của Chính Phủ nhằm: Khuyến khích đầu tư và thu hút vốn đầu tư phát triển cho các cực phát triển Hỗ trợ và khuyến khích tạo thêm việc làm mới Trợ giá cho năng lượng và giao thong vận tải -Một trong nhứng lý do làm cho khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng có khoảng cách là vấn đề thu hút vốn đầu tư, ở thành thị có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư hơn tại vì có rất nhiều chọn lựa để đầu tư và khả năng sinh lời rất cao, còn ở nông thôn các nhà đầu tư không mặn mà lắm bởi vì có nhiều dào cản, vốn đầu tư lớn và khả năng sinh lời lại thấp. Vì vậy khu vực này cần có những lực hút mạnh hơn. Theo Viện Nghiên cứu, quản lý kinh tế T.Ư, giai đoạn 2003 - 2007, con số đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam là 113 nghìn tỷ đồng, chỉ chiếm 8,7% tổng vốn đầu tư của Nhà nước, chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu của khu vực nông nghiệp. Cả nước có 39.414 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, chiếm 30% số doanh nghiệp toàn quốc. Tuy nhiên số doanh nghiệp thật sự hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm, thủy sản chỉ là 1.454 doanh nghiệp, với tổng nguồn vốn đầu tư 32,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 6% tổng số vốn của khu vực doanh nghiệp nông thôn và 0,9% tổng số vốn của doanh nghiệp cả nước. Trong đó, chỉ 12,9% doanh nghiệp có vốn đầu tư hơn mười tỷ đồng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực nông nghiệp, nông thôn cũng rất hạn chế. Giai đoạn 1998 - 2008, có 966 dự án FDI đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn với tổng số vốn hơn 4,7 tỷ USD, chiếm 10% dự án trong lĩnh vực nông nghiệp và chỉ chiếm 3,3% số dự án FDI đầu tư trong cả nước. Những con số đó phần nào nói lên thực trạng đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn của Việt Nam trong tình hình hiện nay còn rất thiếu và yếu. Mặc dù thời gian qua, Nhà nước, Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình về chính sách nông nghiệp, nông thôn, nhưng kết quả vẫn chưa như mong muốn. Nguyên nhân lớn nhất là các chính sách vẫn chưa đủ mạnh để khuyến khích các doanh nghiệp về với nông thôn. Bởi điều đầu tiên khi đầu tư mà các doanh nghiệp tính đến là lợi nhuận thì khu vực kinh tế nông thôn chưa đáp ứng được. Thị trường eo hẹp, sức mua yếu, trong khi cả đầu vào và đầu ra cho sản phẩm hàng hóa đều khó khăn như lao động tay nghề thấp, nguyên liệu không ổn định, cộng với chi phí giá thành vận tải, điện nước lại ở mức cao. Hơn nữa, mặt bằng kinh doanh cũng không dễ dàng, trong khi nhiều doanh nghiệp đòi hỏi có vùng nguyên liệu lớn thì đất đai ở khu vực nông thôn lại phân tán nhỏ lẻ, khó tích tụ... Hàng loạt những khó khăn trên đã trở thành những rào cản trên con đường về nông thôn của không ít doanh nghiệp, dù có thiện chí và tâm huyết. Giải pháp đột phá Giữa tháng 5-2009, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng chủ trì cuộc họp với lãnh đạo các bộ, ngành về đề án "Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn". Theo đó, đề án sẽ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng, tập trung vào các biện pháp chính sách nhằm thu hút và khuyến khích đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp và nông thôn. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, vào khu vực dịch vụ cho nông nghiệp, nông thôn,... nhằm tăng thu nhập, tạo nhiều việc làm và góp phần vào sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn. Theo đề án, chính sách thu hút đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ bám sát chỉ đạo tại Nghị quyết số 26/NQ-T.Ư của Ban Chấp hành T.Ư Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tập trung nghiên cứu những trở ngại đối với việc đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn; nghiên cứu và đề xuất các giải pháp khuyến khích và hỗ trợ trực tiếp, có hiệu lực nhanh cho các nhà đầu tư tiềm năng đầu tư vào khu vực này, trong đó hai lĩnh vực được ưu tiên là vốn và đất đai; tập trung các biện pháp trợ giúp các nhà đầu tư nhỏ và vừa. Để triển khai hiệu quả đề án này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giao cho Trung tâm tư vấn quản lý và đào tạo, Viện Nghiên cứu, quản lý kinh tế T.Ư soạn thảo dự thảo nghị định, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Đối tượng tập trung của nghị định là các doanh nghiệp theo ba nhóm: Các doanh nghiệp đang hoạt động ở nông thôn, doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp không ở nông thôn nhưng có dự án tại đó. Các chính sách khuyến khích sẽ bao gồm tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, tuy nhiên có chia ra các lĩnh vực ngành nghề được đặc biệt khuyến khích đầu tư và các lĩnh vực ngành nghề khuyến khích đầu tư. Về địa bàn, nghị định cũng phân ra các nhóm dự án nông nghiệp đầu tư tại các vùng đặc biệt khó khăn, vùng khó khăn và các nhóm dự án nông nghiệp tại các khu công nghiệp, khu kinh tế và cụm công nghiệp. Trao đổi ý kiến với chúng tôi, Giám đốc Trung tâm tư vấn quản lý và đào tạo Nguyễn Đình Tài cho biết: Ưu đãi hàng đầu đối với doanh nghiệp là tín dụng vì hầu hết các doanh nghiệp nông thôn đều rất thiếu vốn. Tiếp đến là chính sách hỗ trợ lãi suất. Ngân hàng thương mại sẽ được rót tiền từ ngân sách Nhà nước để hỗ trợ các dự án này. Điều đáng nói là chính sách này sẽ được thực hiện lâu dài, và cũng mở rộng các dự án được tiếp nhận. Riêng về thuế, các doanh nghiệp sẽ được nhận mức thuế ưu đãi cao nhất, mức miễn giảm cũng cao nhất... Ngoài ra còn có các chính sách hỗ trợ khác như, hỗ trợ tiền quảng cáo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiền thuê tư vấn, chuyển giao công nghệ, đặc biệt hỗ trợ cước phí vận tải cho các doanh nghiệp vùng sâu, vùng xa... có thể lên tới 50%. Kinh phí đào tạo công nhân, nông dân của các doanh nghiệp cũng được tính toán để bù ở mức cao, lên đến 80%. Khi được hỏi về kỳ vọng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn từ nghị định thu hút đầu tư này, Giám đốc Nguyễn Đình Tài cho rằng: Không phải đến bây giờ mới có văn bản pháp luật liên quan chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn nhưng nghị định lần này có thể nói, khi ra đời sẽ là văn bản pháp luật cụ thể nhất về vấn đề này. Tuy nhiên, khó hy vọng đến tính đột phá mà nghị định chỉ góp thêm một phương thức để thúc đẩy nhà đầu tư về nông thôn. Nó chỉ có tính chất như một chất xúc tác đối với nhà đầu tư chứ không thể thay thế quyết định của nhà đầu tư. Bởi còn nhiều yếu tố khác có thể làm phân tán quyết định này. Băn khoăn của Giám đốc Nguyễn Đình Tài là một thực tế, vì hiện nay khu vực nông nghiệp, nông thôn tồn tại, hạn chế về cơ sở hạ tầng, giao thông, thủy lợi, mạng lưới an sinh xã hội và các công trình phúc lợi khác. Chưa kể đến những hạn chế về mặt thủ tục hành chính làm cho việc thực thi các chính sách không được như mong muốn. Vì vậy, sự ra đời của một nghị định và tính khả thi của nó khi đi vào cuộc sống lại là hai vế khác nhau. Chỉ khi nào chính sách hợp lý, quy trình triển khai chính sách đồng bộ và thông thoáng, cộng với lòng người đồng thuận thì hiệu quả của chính sách mới đạt được mức tối ưu. Để có thể thu hút đầu tư mạnh mẽ, khu vực nông nghiệp, nông thôn đang cần một quy trình hiệu quả như thế. -Trong các vấn đề quan trọng hàng đầu, nổi cộm nhất là việc sử dụng lao động và thất nghiệp là 1 trong 5 đỉnh của “ngũ giác mục tiêu” (tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, tỉ lệ nghèo thấp, cán cân thanh toán có số dư). Thất nghiệp không chỉ là sự lãng phí mà còn làm cho thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán của dân cư thấp, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế trong nước, cũng như việc “gọi” các nhà đầu tư nước ngoài. Thất nghiệp làm cho tỉ lệ nghèo cao và sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục gia tăng. Thất nghiệp cũng làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội do “nhàn cư vi bất thiện”, trở thành vấn đề bức bối mà nhiều gia đình cũng như cộng đồng phải tốn nhiều tiền của, công sức để khắc phục. Để khắc phục tình trang thất nghiệp ở nước ta nói chung và ở các vùng chậm phát triển nói riêng Chính Phủ đã có những chính sách kịp thời. Ông Nguyễn Tiến Dũng, Tổng Cục trưởng Tổng cục Dạy nghề cho biết, chương trình đặt hàng dạy nghề giai đoạn 2008-2011 sẽ được triển khai tiếp ngay từ đầu năm 2009 với nhiều điểm mới. Theo đó, Chương trình dạy nghề theo đơn đặt hàng này tập trung ưu tiên đào tạo những nghề xã hội cần, đáp ứng lao động (LĐ) cho ngành mũi nhọn, KCN, khu kinh tê trọng điểm của đất nước, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu LĐ tại chỗ cho các địa phương. Về cơ bản, chương trình tập trung vào một số nghề đặc thù như khai thác mỏ, cán kéo kim loại, vận hành máy xúc, đào... những nghề nặng nhọc độc hại khó tuyển sinh; những nghề cần cho sản xuất nhưng do chi phí đào tạo cao nên các cơ sở dạy nghề không muốn đào tạo. Ngoài việc được hưởng chính sách học phí ưu đãi (tùy theo từng ngành nghề cụ thể), người học có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp. Theo hợp đồng đã ký, các trường nhận đặt hàng có trách nhiệm đảm bảo ít nhất trên 90% số học sinh sau khi tốt nghiệp trong vòng 3 tháng phải được bố trí việc làm phù hợp tại doanh nghiệp. Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, hiện nay cả nước có hơn 240.000 doanh nghiệp, thu hút khoảng 9 triệu lao động. Dự kiến đến năm 2010, nước ta sẽ có khoảng 500.000 doanh nghiệp, tạo thêm 2,7 triệu việc làm mới cho NLĐ. Vừa qua, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã chủ trì việc tổng kết dạy nghề của các doanh nghiệp. Phó Thủ tướng đã kết luận: Các trường nghề của doanh nghiệp có thể đào tạo theo yêu cầu xã hội, và khi đó sẽ thực hiện cơ chế như trường tư thục. Phó Thủ tướng cũng đã giao Bộ Lao động Thương binh Xã hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng đề án thí điểm đào tạo liên thông giữa trung cấp nghề, cao đẳng nghề và trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Đồng thời xây dựng kế hoạch đào tạo theo nhu cầu xã hội. 4.3.2. Phát triển cơ sở hạ tầng: Chính phủ cần tập trung ngân sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, áp dụng các chính sách đầu tư đa dạng vào phát triển cơ sở hạ tầng như đường cao tốc mới, mạng lưới điện mới, hệ thống thông tin liên lạc và truyền thông, hệ thống cấp thoát nước…. Sự bất cập của hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần phát triển chưa tương xứng vẫn là một nút cổ chai đối với hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Mặc dù đã có sự đầu tư khá lớn của chính phủ từ nguồn vốn ngân sách và vốn ODA, hiện vẫn còn nhiều bất cập và chậm trễ trong phát triển các công trình hạ tầng quan trọng, đặc biệt là điện năng và công trình giao thông kết nối các cảng biển chiến lược với các khu công nghiệp và thành phố. Việc thiếu hụt nguồn điện ổn định tại các khu công nghiệp và tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng – đặc biệt tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam – chỉ là 2 trong nhiều ví dụ cho thấy nhu cầu cấp bách trong việc nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng. Một vấn đề nữa là việc phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam hiện nay chưa được đồng bộ, thiếu sự tích hợp và kết nối giữa các hệ thống. Kết quả là nhiều côn trình xây dựng xong nhưng bị chậm đưa vào sử dụng vì thiếu các công trình kết nối. Sự tham gia của khu vực tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng là rất quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực điện năng và xây dựng cảng biển. Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm như hiện nay, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn để có thể thu hút được nguồn vốn tư nhân này. Các doanh nghiệp vì vậy phải hối thúc chính phủ thiết lập quy trình thực hiện dự án nhanh chóng hơn và cải thiện các ưu đãi, cũng như xây dựng một hệ thống quản lý và mua sắm hiệu quả và minh bạch nhằm nâng cao hiệu quả và ngăn chặn các cơ hội tham nhũng. Ở nông thôn hiện nay việc phát triển cơ sở hạ tầng đang còn rất chậm , cho nên cũng lượng vốn đầu tư vào thông thôn rất hạn chế. Cơ sở hạ tầng này đã được cải thiện nhiều trong những năm qua từ sau chiến tranh.Ví dụ, vào năm 1996, 95% các xã đã có đường ô tô chạy đến trung tâm, và gần 80% các xã đã có điện, tuy nhiên vẫn còn thiếu sót nghiêm trọng trong hệ thống này. Đường xấu, đặc biệt ở vùng xa và vùng núi. Hơn một nữa số dân nông thôn không có điện, tình trạng xuống cấp của các cơ sở hạ tầng đã làm ảnh hưởng xấu đến đầu tư trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến ở nông thôn. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn là một vấn đề rất lớn và rất cơ bản của phát triển nông thôn trong mọi thời kì. Mỗi thời kỳ phát triển đều được bắt đầu và đánh dấu bởi một bộ mặt mới của kết cấu hạ tầng tại một địa phương nói riêng hay một vùng đất n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26167.doc
Tài liệu liên quan