Tiểu luận Sự phát triển nguồn nhân lực - vai trò của nó với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và với nền kinh tế tri thức ở nước ta, thực trạng và thách thức

Về cơ bản, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Chính vì vậy, lực lượng lao động chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực sản xuất truyền thống là nông-lâm-ngư nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, sự phân bố trên sẽ có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lực lượng lao động trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và tăng dần trong các ngành công nghiệp dịch vụ. Năm 2000 có sự chuyển dịch rõ rệt so với năm 1996 theo hướng: giảm cỏ về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, tăng cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 1996 có 32.601.918 người làm việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 69,80% so với tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân nói chung, đến năm 2000 giảm xuống còn 22.669.907 người, chiếm62,56%; trong khi đó, lao động làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 3.566.513 người( năm1996) tăng lên 4.743.705 người( năm 2000) và tỷ lệ so tổng số đã tăng từ 10,55% lên 13,15%; lao động làm việc trong các ngành dịch vụ cũng tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ : từ 6.643.564 người lên 8.791.950 người và từ 19,65% lên 24,29%(TS.Trương Văn Phúc- thực trạng lực lượng lao động ở Việt Nam giai đoạn 1996-2000 và khả năng giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005)

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4099 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự phát triển nguồn nhân lực - vai trò của nó với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và với nền kinh tế tri thức ở nước ta, thực trạng và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế-xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên cơ sở công nghiệp hoá, hiện đại hoá. trong đó phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. III. Thực trạng, thách thức và xu hướng phát triển của nguồn nhân lực Việt Nam. Số lượng (quy mô) nguồn nhân lực Việt Nam. Quy mô nguồn nhân lực Việt Nam. Việt Nam là một trong những nước đông dân số với quy mô dân số đứng thứ hai Đông nam á và thứ mười ba trên thế giới. Một đất nước với cơ cấu dân số trẻ với số người trong độ tuổi 16-34 chiếm 60% trong tổng số 35,9 triệu người lao động: nguần bổ sung hàng năm là 3%-tức khoảng 1,24 triệu người. Theo tổng điều tra dân số ngày 1-4-1999, quy mô dân số nước ta là 76,3 triệu người và dự tính đến năm 2010 quy mô dân số nước ta vào khoảng 95 triệuvà số người trong tuổi lao động gần 58 triệu, chiếm 60,7% dân số. Dự báo thời kỳ 2001 đến 2010 cần tạo thêm chỗ làm việc mới cho khoảng 11-12 triệu lao động (chưa kể số lao đông tồn động các năm chuyển sang), bình quân mỗi năm phải tạo thêm 1,1 đến 1,2 triệu chỗ làm việc mới. Tính đến 1/7/2000, tổng lực lượng lao động cả nước có 38.643.089 người, so với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình quân hàng năm là 975.645 người, với tốc độ tăng 2,7% một năm, trong khi tốc độ tăng bình quân hàng năm của thời kỳ này là 1,5% một năm. Chỉ tính riêng số lượng cán bộ chính quyền cơ sở ( bao gồm cán bộ công tác ở các xã, phường, thị trấn) cũng cho ta thấy nước ta có số lượng lao đông đảo, số lượng lao động ngày một gia tăng. Theo quy định trong Nghị định 174/CP ban hành tháng 9 năm 1994, cơ cấu số lượng của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn gồm có 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và 5 uỷ viên uỷ ban. Với khoảng 1 vạn xã, đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở gồm có số lượng trên dưới 70000 người. Tuy nhiên, nếu tính theo cách định biên theo cơ cấu cán bộ cơ sở theo Nghị định 50-CP ngày 26-7-1995 thì ngoài số uỷ viên uỷ ban đã nêu trên, còn có chức danh khác được bố trí theo yêu cầu của từng địa phương với mức quy định như sau: - Dưới 5000 dân: 12 cán bộ. - Từ 5000 dân đến dưới 10000 dân : 14 cán bộ. - Từ 10000 dân đến 15000 dân :16 cán bộ. - Từ 15000 dân đến 20000 dân :18 cán bộ. - Từ 20000 dân trở lên tối đa không quá 20 cán bộ. Từ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số cán bộ chính quyền cơ sở gồm chủ tịch uỷ ban nhân dân, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân và các thành viên của uỷ ban dao động từ khoảng 7 đến 13 người tuỳ theo từng loại xã. Đến Nghị định 09/1998/NĐ-CP ban hành ngày 23-1-1998 số lượng cán bộ chính quyền cơ sở loại xã sau đây được ấn định như sau : - Dưới 10000 dân :17-19 cán bộ. - Từ 10000 đến 20000 dân: 19-21 cán bộ. - Trên 20000 dân cứ thêm 3000 dân thêm 1 cán bộ, tối đa không quá 25 cán bộ. Như vậy, nếu trừ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số lượng cán bộ làm công tác chính quyền cơ sở đã tăng lên ở từng loại xã từ 3 đến 5 người và nếu lấy bình quân mỗi xã có khoảng 20 cán bộ, thì tổng số cán bộ chính quyền cơ sở trong cả nước sẽ vào khoảng trên dưới 150.000 người. So với đội ngũ công chức hành chính trong cả nước từ cấp huyện lên trung ương hiện có khoảng trên dưới 200.000 người, thì đội ngũ cán bộ làm công tác chính quyền cơ sở không phải là nhỏ. Ngoài số đó ra còn có khoảng 200.000 là đại biểu hội đồng dân cư, những người đang được chính quyền cơ sở trao những quyền hạn nhất định về mặt chính quyền, hợp thành một đội ngũ cán bộ đông đảo ở cơ sở và trong toàn quốc. So với các nước trong khu vực, quy mô dân số Việt Nam cùng với Philippin và Thái Lan ở vào khoảng trung bình. Nhưng nếu so sánh với thế giới thì về quy mô dân số, Việt Nam đứng thứ 13, còn trong ASEAN, Việt Nam xếp thứ hai, chỉ sau Inđônêxia. điều đó được thể hiện qua bảng sau: Một số chỉ tiêu về dân số và lao động của các nước ASEAN Nước Dânsố 1994 (Triệu người) Tỷ lệ tăng dân số(%) Lực lượng lao động 1960-1992 1992-2000 1994 (triệu người) % tăng giai đoạn 90-94 % trong dân số Brunây 0,284 3,8 2,1 0,112 --- Inđônêxia 192,2 2,2 1,7 81,2 1,1 43 Malaixia 19,5 2,6 2,1 7,85 2,8 38 Philippin 68,6 2,7 2,0 27,48 3,0 56 Thái Lan 59,4 2,4 1,1 32,84 1,1 56 Việt Nam 72,5 2,2 2,1 33,7 2,8 49 Xingapo 2,93 1,7 1,7 1,69 2,9 56 Nguồn: - Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người,Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995. Xem bảng trên ta thấy dân số trong toàn khối giai đoạn 1960-1992 còn khá cao, trừ Xingapo có tỷ lệ là 1,7% và trải qua thời kỳ chuyển tiếp dân số. Trong giai đoạn 1992-2000, có thêm Inđônêxia và Thái Lan giảm được tỷ lệ tăng dân số. Riêng Việt Nam luôn nằm ở nhóm có tỷ lệ gia tăng dân số cao trong khu vực: 2,2% trong giai đoạn 1992-2000. điều này dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao động trong những năm 90 còn cao ở phần lớn các nước trong khối: Malaixia là 2,8%; Philippin là 3%; Việt Nam là 2,8%; Xingapo là 2,9%. Với tốc độ tăng dân số nhanh và còn được duy trì như vậy, tỷ lệ gia tăng lực lượng lao động của Việt Nam trong cả giai đoạn 1960-1992 và tiếp theo cho đến nay là điều khó tránh khỏi. Năm 1986, Việt Nam mới có 30,3 triệu người trong độ tuổi lao động thì đến năm 1995 đã tăng đến 40,2 triệu người, bình quân mỗi năm tăng khoảng một triệu người, tức là khoảng 3,22%. Ngoài ra còn phải kể đến số người ngoài độ tuỏi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên, tạo thành một nguần cung cấp về lao động khá dồi dào: cuối năm 1995 có 3,7 triệu người, trong đó có 1,3-1,4 triệu trẻ em (nguần: kim Ngọc Cương, ''phân tích và dự báo thị trường lao động ở nước ta'', Bộ kế hoạch và đầu tư, tạp chí kinh tế và dự báo, số 5/1997, tr.19). Đối với Việt Nam, ngoài hai yếu tố về số người trong và ngoài độ tuổi lao động kể trên, còn có thể tính đến một số yếu tố mang tính chất biến động cơ học làm tăng nguần lao động của Việt Nam hiện nay như: số bộ đội giải ngũ; số lao động đi làm ở các nước Đông Âu, Trung Đông trở về; số người tỵ nạn ở Thái Lan, Hồng Kông, Malaixia, Việt kiều ở Campuchia hồi hương… Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và thường xuyên được bổ sung bằng đội ngũ lao động trẻ, hùng hâụ, tạo nên một trong những ưu thế cho Việt Nam trong việc tham gia và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực va thế giới. Quy mô nguồn nhân lực qua đào tạo cuả Việt Nam và việc sử dụng nguồn nhân lực này. Việt Nam tuy có lực lượng lao động dồi dào nhưng lực lượng lao động đã qua đào tạo thực tế lại thiếu. đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân lực nước ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực. Hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước thuộc các bộ, các ngành ở các cơ quan trung ương có 129763 người, trong đó có 74% công chức có trình độ từ đại học trở lên. Khi nói đến nguồn nhân lực của một quốc gia thường người ta hay quan tâm đến số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo hàng năm ở các trường trung học chuyên nghiệp, trường công nhân kỹ thuật, các trường đại học, cao đẳng trong quốc gia đó. Bởi đó là con số nói lên số lao động được đào tạo hàng năm và chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia. ở Việt Nam, số học sinh và sinh viên thuộc các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học trong cả nước từ năm 1992 đến năm 1997 (chỉ tính học sinh, sinh viên hệ chính quy) như sau: Đơn vị tính: 1.000 người Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Trung học chuyên nghiệp 107,8 119,0 155,6 170,5 172,4 164,1 Số tốt nghiệp 43,5 44,9 49,0 56,3 59,3 68,3 Công nhân kỹ thuật 57,6 68,7 74,7 58,7 69,9 102,5 Số tốt nghiệp 35,2 38,0 64,9 66,4 75,1 70,6 Cao đẳng, đại học 136,8 157,1 203,3 297,9 509,3 662,8 Số tốt nghiệp 24,8 29,1 36,9 58,5 78,5 74,1 Nguồn: niên giám thống kê 1998-Nxb Thống kê, 1999, tr342, 345 &349 Theo bảng trên ta thấy, cơ cấu đào tạo ở các cấp bậc rất khác nhau, số sinh viên cao đẳng,đại học tăng nhanh trong những năm gần đây, trong khi đó số học sinh trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật tăng rất chậm và biến đổi bất thường khi lên khi xuống nhất là số công nhân kỹ thuật. Nếu năm 1994 các trường công nhân kỹ thuật có 74.700 học sinh, thì năm 1995 còn 58.700 học sinh , song đến năm 1997 lại tăng lên 102.500 học sinh. Chính điều đó tạo nên sự thiếu hụt lớn số công nhân kỹ thuật và cán bộ có trình độ trung cấp, và ngược lại dẫn tới sự lãng phí chất xám, bởi sẽ có những sinh viên có trình độ cao đẳng hoặc đại học đảm nhận những công việc của công nhân kỹ thuật hoặc trung cấp. Hiện nay số sinh viên đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 2000 số sinh viên cao đẳng, đại học là gần 1 triệu bằng 1,8 lần năm 1995, vượt dự kiến kế hoạch 5 năm (1996-2000) là 13% (Lê Quang Trung: biện pháp cho vấn đề lao động thất nghiệp ở thành thị-Vụ chính sách lao động và việc làm) và năm học 2001-2002 tổng chỉ tiêu cho các trường cao đẳng, đại học tăng 5% tức khoảng 160.000 sinh viên, tăng 10.000 sinh viên so với năm trước. Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học năm 1992 là 103.500 người, thì đến năm 1996 là 212.900 người và năm 1997 là 213.000 người bổ sung cho nguồn nhân lực của đất nước. Tỷ lệ lao động được đào tạo trong tổng lực lượng lao động xã hội tăng lên hằng năm được thể hiện qua bảng sau: Năm Tỷ lệ lao động được đào tạo/tổng lực lượng lao động xã hội(%) 1988 9,45 1992 11 1995 13,8 1997 16 Nguồn: dự thảo Nghị quyết Trung ương 4 khoá 8-Bộ chính trị. Tính đến năm 1998, số cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học là trên 930.000 người, trong đó khoảng trên 10.000 người là cán bộ có trình độ trên đại học. đội ngũ này chiếm 2,3% lực lượng lao động xã hội. Số sinh viên tốt nghiệp đại học hàng năm khoảng 25.000 người có học vị trên đại học bổ xung vào nguồn nhân lực chất lượng câo. Hàng năm ở Việt Nam tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trên 1000 dân đang tăng lên: Năm Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân 1994 9 1996 11 1997 12 Trong khi đó ở các nước khác là: Nước Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học/1000 dân Hàn quốc 52 Singapo 16 Italia 21 Nhật bản 70 Nguồn:Võ Đại Lược-CNH, HĐH ở Việt Nam đến năm 2000. Nxb KHXH,Hà Nội. So sánh các số liệu trên ta thấy giữa số lượng nguồn nhân lực được đào tạo ở Việt Nam so với các nước khác vẫn đang còn khoảng cách khá xa, chứ chưa nói đến nguồn nhân lực có chất lượng cao. Mặt khác cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực cũng chưa phù hợp, thể hiện ở cỗ một số ngành được đào tạo ồ ạt như ngành kinh tế, luật trong khi đó các ngành kỹ thuật, công nghệ tin học, khoa học cơ bản chưa được coi trọng đúng mức. Do đó, xét cả những điều kiện kinh tế-xã hội lẫn những điều kiện về nguồn nhân lực cho thấy chúng ta chưa đủ điều kiện để xây dựng nền kinh tế tri thức, mà chỉ tiếp cận nó trên một số lĩnh vực chúng ta có khả năng. Về giá nhân công. Hiện nay, giá nhân công ở Việt Nam vẫn còn rất thấp không chỉ so với các nước trên thế giới mà ngay cả với các nước trong khu vực. Bảng:Lương tháng trung bình trong công nghiệp của một số nước ASEAN Nước 1985 1987 1992 1992 (tính theo ftăng) Inđônêxia 83000 98600 180000 468 Malaixia (riggits) 639 637 800 1800 Xingapo ($ Sin) 730 770 1200 4200 Philippin (peso) 1951 2537 3800 800 Thai Lan (bạt) 5240 5360 7200 1700 Việt Nam (đồng)(*) - - 220340 110 * Là số thu nhập bình quân/người/tháng năm 1993. Nguồn: Thái Lan, ISEAS, Việt Nam, Điều tra giầu nghèo 1993. Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay, trừ một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, còn phần lớn các doanh nghiệp hoặc cơ quan nhà nước, mức lương chỉ phổ biến là 250000-350000 đồng/tháng ( tức là gần 24-34 đô la/ tháng hay xấp xỉ trên dưới 1 đô la/ngày). trong khi đó, ngày công ở Băng Cốc (Thái Lan) năm 1992 đã là 115 bạt, tức là 30 frăng hay hơn 5 đô la; ở Jakarta (Inđônêxia) là 3000 rubi, tức là 8 frăng hay 11,5 đô la. Còn theo số liệu cả một cuộc điều tra năm 1996 của côg ty Werner International tại 51 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới thì lương trung bình trong ngành dệt Việt Nam, là 0,39 đô la/giờ. Mức lương này là thấp nhất so với các quốc gia và lãnh thổ khác. Chỉ số này chỉ bằng 11/1,18 của InđônêXia; 1/1,23 của Trung Quốc; 1/1,49 của Ân Độ; 1/1,64 của Ai Cập; 11/34 của Pháp; 1/40 của Italia; 1/65,7 của Nhật Bản… Mặc dù các số liệu về chi phí nhân công thường tản mạn và không đồng nhất, nhưng nó cũng phần nào cho thấy Xingapo Malaixia cũng như Thái Lan đã không còn lợi thế tương đối quyết định về chi phí nhân công trong khu vực các nước ASEAN nữa. Và Nếu trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN, ưu thế này thuộc về Inđônêxia và Philippin, thì hiện nay, với chi phí nhân lực cuả mình, Việt Nam đã chiếm ưu thế. Về chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Nếu như trong các thập niên trước đây, nhân công nhiều và rẻ được coi như thế mạnh hàng đầu khi xem xét các lợi thế về nguồn nhân lực thì trong những năm gần đây, yếu tố chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nhấn mạnh. Các yếu tố được xem xét trước hết là thể chất, thể lực, năng lực của nguồn nhân lực. Về trí lực và thể lực. Người Việt Nam có truyền thống cần cù, thông minh, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có ý chí và tinh thần tự lực tự cường dân tộc phát triển khá về thể lực, trí lực, có tính cơ động cao có thể tiếp thu nhanh kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại. Có thể nói đây là một trong số các lợi thế so sánh cuẩ ta trong quá trình hội nhập. Bảng: một số chỉ tiêu về sức khoẻ, y tế của các nước ASEAN. Chỉ tiêu Thời gian Việt Nam Brunây Inđônêxia Malaixia Philippin Thái Lan Xingapo Tuổi thọ bình quân 1992 63,4 74 62 70,4 64,4 68,7 74,2 Cung cấp calo bình quân/người 1988-1990 2220 2860 2610 2670 2340 2280 3210 Tỷ lệ cung cấp calo /người so với nhu cầu tối thiểu(%) 1988-1990 102 - 112 124 108 100 144 Tỷ lệ được dịch vụ y tế (%) 1985-1991 90 96 80 90 75 70 100 Tỷ lê được dùng nước sạch (%) 1988-1991 27 95 51 72 82 76 100 Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người. Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1995. Bảng: Qua bảng trên ta thấy: các chỉ số của Việt Nam luôn luôn ở mức thấp, có những chỉ số ở mức thấp nhất trong khu vực. Những chỉ tiêu liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất, thể lực của người lao động Việt Nam tất thấp: cung cấp calo bình quân đầu người chỉ có 2220 calo, thấp nhất trong khu vực. Về tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu người so với nhu cầu tối thiểu, Việt Nam, chỉ cao hơn Thái Lan 100%, kém Inđônêxia 122%, Xingapo 144%, Philippin 108%, Malaixia 124%. Một loạt các chỉ tiêu khác liên quan đến y tế, chăm sóc sức khoẻ của Việt Nam cũng còn ở mức thấp. điều đó lý giải phần nào sự hạn chế về mặt thể lực của nguồn nhân lực của Việt Nam. Cho đến nay, thể lực của người lao động Việt Nam còn chưa đáp ứng được những yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp lớn và ở đây đã bộc lộ một trong những yếu điểm cơ bản của nguồn nhân lực Việt Nam. Những mặt mạnh từ trước đến nay của người lao động Việt Nam vẫn được nhắc đến là : có truyền thống là động cần cù, có tinh thần vượt khó và đoàn kết cao, thông minh sáng tạo, có khả năng nắm bắt và ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, có khả năng thích ứng với những tình huống phức tạp. Nhưng thực tế cũng cho thấy những điểm yếu không thể không thừa nhân là trình độ kỹ thuật, tay nghề, kỹ năng, trình độ và kinh nghiệm quản lý của người lao động Việt Nam còn rất thấp, chưa kể những tác hại của thói quen và tâm lý của người sản xuất nhỏ. Tương quan so sánh về trình độ giáo dục của lực lượng lao động cuả Việt Nam với các nước ASEAN có thể hình dung được qua các số liệu trong bảng sau: Một số chỉ tiêu về giáo dục của các nước ASEAN. Chỉ tiêu Thời gian Việt Nam Brunây Inđônêxia Malaixia Philippin Thái Lan Xingapo Đại học và sau trung học(*) 5,1 - - 5 - - 22 Trung học(*) 8,8 - - 48 - - 30 Tiểu học và thấp hơn(*) 85,1 - - 47 - - 47 Tỷ lệ người biét chữ từ 15 tuổi trở lên(%) 1992 89 - 84 80 90 94 - Số năm đi học tính cho người từ 25 tuổi trở lên(năm) 1992 4,9 5,0 4,1 5,6 7,6 3,9 4,0 Số cán bộ khoa học kỹ thuật trên 1000 người 1986-1991 - 21,7 12,1 - - 1,2 22,9 Tỷ lệ chi cho giáo dục trong GNP(%) 1991 1,6 - 2,5 6,9 2,9 3,8 3,4 GNP bình quân đầu người cho giáo dục($ Mỹ) 1991 4 - 21,9 510,6 21,46 62,7 480,8 (*) Trình độ giáo dục cuả dân số trong độ tuổi lao động (%). Nguồn: chỉ số và chỉ tiêu phát triển con người, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995. Như vậy, bên cạnh một vài chỉ tiêu đáng mừng như tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên đạt được 89% năm 1992, tăng 6% so với năm 11989, thực trạng trình độ nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều vấn đề đáng lo ngại: số người mù chữ từ 15 tuổi trở lên còn 4,7 triệu năm 1992; trong toàn bộ dân số ở độ tuổi lao động, chỉ có 5,1% là có trình độ đại học và sau trung học, 8,8% có trình độ trung học; trong tổng số lực lượng lao động, số lao động kỹ thuật chỉ chiếm có 12%: năm 1995, trong số 40,2 tiệu người chỉ có 4,7 triệu người là lao động có kỹ thuật. Một mặt, Việt Nam đã có những cố gắng không thể không ghi nhân trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung, chất lượng nguồn nhân lực nói riêng như: số học sinh cao đẳng và đại học đã tăng từ 129.600 người năm 1990 lên 279900 người năm 1995, tức là tăng gần 2,3 lần trong 5 năm; số tốt nghiệp đại học từ 20.500 năm1990 tăng lên 58.500 năm 1995; số học sinh trung học chuyên nghiệp từ 135.400 năm 1990 lên 197.500 năm 1995, số tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp từ 39.900 năm 1990 lên 56.300 năm 1995. Chưa kể đến tỷ lệ chi cho giáo dục trong GDP đã tăng nhanh từ 1,6% năm 1991 lên 2,75% năm 1993, gần 6% năm 1994. Nhưng để đạt được mức độ chung như các nước khác ngay trong khối ASEAN, rõ ràng chúng ta còn phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, tiền của cho công tác giáo dục đào tạo để biến những tiềm năng của nguồn nhân lực Việt Nam thành hiện thực. Khả năng tư duy của lao động nước ta. Nguồn nhân lực Việt Nam với xuất phát điểm thấp, trước yêu cầu lớn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế tỏ ra bất cập. Từ nền kinh tế nông nghiệp, phong cách, tư duy con người Việt Nam còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Sản xuất và quản lý bằng kinh nghiệm theo kiểu trực giác, lấy thâm niên công tác, cụ thế nghề nghiệp và lòng trung thành để đánh giá kết quả lao động và phân chia thu nhập. Lao động chưa được đào tạo và rèn luyện trong môi trường sản xuất công nghiệp nên hiệu suất lao động chưa được đề cao và đánh giá đúng mức. Khi tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại được thâm nhập và chuyển giao vào Việt Nam thì mâu thuẫn giữa trình độ hiện đại của trang thiết bị kỹ thuật-công nghệ với trình độ lạc hậu của người sử dụng xuất hiện. Người quản lý, người sử dụng công nghệ thì không thể tiếp thu, càng không thể khai thác có hiệu quả công nghệ, nên làm giảm hiệu suất của vốn đầu tư. Hiện nay, công nghệ Việt Nam ở mức trung bình kém. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới. Các chỉ tiêu chủ yếu về tiêu hao nguyên, nhiên, vật liệu gấp 1,5 đến 2 lần mức chung của thế giới, giá thành sản phẩm cao, năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% mứ trung bình của thế giới( theo số liệu báo cáo của GS Đặng Hữu tại Hội nghị cán bộ khoa học-công nghệ toàn quốc ngày 12-2-1995). Số nhân công có trình độ bậc 4 trở lên chỉ bằng 1/3 tổng số công nhân kỹ thuật, công nhân có trình độ bậc 7 chỉ có 4000 người mà đa phần tuổi đã cao. Thiếu công nhân kỹ thuật, đặc biệt là công nhân bậc cao là nhân tố trưc tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ, làm giảm hiệu suất sử dụng của thiết bị công nghệ. Hiện nay các nhà công nghệ, công trình sư, kỹ sư thực hành nước ta rất thiếu, nhất là cán bộ ở các gành công nghệ thông tin, vi điện tử, sinh học tự động hoá sản xuất... Số cán bộ khoa học thuộc các ngành kỹ thuật liên quan đến công nghệ chỉ chiếm 11% tổng cán bộ trong cơ chế kinh tế cũ nên kinh nghiệm, năng lực sáng tạo thực tiễn, khả năng sáng tạo công nghệ yếu. Sự lạc, non yếu về trình độ của nguồn nhân lực Việt Nam so với nguồn nhân lực trong khu vực và tế giới. Trình độ của lao động kỹ thuật nước ta vừa yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp lý về cơ cấu đào tạo, vừa phân bố không đồng đều giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Trình độ non kém, lạc hậu về khoa học công nghệ, tác phong lao động, kỷ luật, sự thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, tính từ chịu trách nhiệm cá nhân thấp ảnh hưởng đến sức cành tranh của nguồn nhân lực Việt Nam khi hoà nhập vào thị trường nhân lực tiên tiến của thế giới. Hiện nay, nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, về lâu dài không thể là lợi thế phát triển của Việt Nam, vì lợi thế nhân công rẻ trên thế giới đang dần mất đi và thay vào đó là trình độ trí tuệ cao đồng đều của nhân công. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, trình độ, năng lực của các bộ đối tác, sự sắc sảo mềm dẻo, nhạy bén, linh hoạt trong ngoại giao của cán bộ ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của những quốc gia. Để giảm được những bất lợi, tạo ra sự tương đồng trong hoà nhập, cạnh tranh với thị trường nhân lực khu vực và thế giới, người lao động Việt Nam phải được trang bị các kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, ngoại ngữ, lao động, kỷ luật, tác phong lao động và nhận thức đúng đắn mối quan hệ chủ-thợ trong nền kinh tế thị trường, phải hiểu biết được phong tục tập quán, đặc điểm của các nước bạn trong cùng thị trường lao động. Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lao động Việt Nam cũng bộc lộ những nhược điểm lạc hậu về trình độ kỹ thuật-công nghệ, kỷ luật và thói quen lao động. Năng lực quản lý kinh tế yếu kém, tính tùy tiện của người sản xuất nhỏ, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng chưa cac tạo nên bất lợi và thua thiệt về kinh tế cho phía Việt Nam. Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực nước ta. Cấu trúc đào tạo nguồn nhân lực nước ta không hợp lý cả về cơ cấu các loại lao động và cơ cấu đầu tư ngân sách giữa các bậc học. Trong thời gian vừa qua, mặc dù Nhà nước đã rất nỗ lực điều chỉnh thực trạng trên nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện có 86% lao động đang làm việc nhưng chỉ có 2% được qua đào tạo dưới các hình thức. Hơn nữa, ngân sách chi cho giáo dục của chúng ta còn quá thấp. Mặc dù có tăng hơn thời kỳ trước nhưng trong các năm từ 1990 đến1992 ngân sách dành cho giáo dục chỉ chiếm 10-11% trong tổng ngân sách nhà nước. So với các nước trong khu vực thì sự đầu tư này của chúng ta còn kém xa. Chẳng hạn ngân sách dành cho giáo dục của Singapo là 23%, của MalaiXia là 20%... số học sinh trung học ( kể cả trung học chuyên nghiệp) chiếm 1/4 tổng số học sinh, sinh viên cả nước nhưng chỉ được đầu tư 8-9% ngân sách giáo dục, trong khi đó số sinh viên đại học chiếm gần 7% tổng số học sinh nhưng lại được đầu tư 15% ngân sách. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bất cập trong hệ thống giáo dục và đào tạo hiện nay ( số liệu từ ‘’Thông tin tài chính’’-số 3 tháng2/1998). Cấu trúc đào tạo của lực lượng lao động đã qua đào tạo vốn đã rất bất hợp lý lại càng bất hợp lý hơn. Năm 1996, cấu trúc đào tạo là 1-1,7-2,4 (tức là ứng 1 lao độngcó trình độ cao đẳng, đại học trở lên thì có 1,7 lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và 2,4 lao động có trình độ sơ cấp/học nghề/công nhân kỹ thuật); năm 2000 cấu trúc này là 1-1,2-1,7 trong khi mục tiêu của Nghị quyết Trung ương đề ra là 1-4-10( ‘’thông tin thị trường lao động’’,tr8), Phân bố nguồn nhân lực của nước ta. Nguồn nhân lực nước ta phân bố không đồng đều giữa các lĩnh vực sản xuất, giữa các vùng trong cả nước và các ngành kinh tế quốc dân. Thực tế này ngày càng được điều chỉnh cho phù hợp với thực trạng kinh tế-xã hội nước ta. Theo ngành. Về cơ bản, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Chính vì vậy, lực lượng lao động chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực sản xuất truyền thống là nông-lâm-ngư nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, sự phân bố trên sẽ có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lực lượng lao động trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và tăng dần trong các ngành công nghiệp dịch vụ. Năm 2000 có sự chuyển dịch rõ rệt so với năm 1996 theo hướng: giảm cỏ về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, tăng cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 1996 có 32.601.918 người làm việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 69,80% so với tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân nói chung, đến năm 2000 giảm xuống còn 22.669.907 người, chiếm62,56%; trong khi đó, lao động làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 3.566.513 người( năm1996) tăng lên 4.743.705 người( năm 2000) và tỷ lệ so tổng số đã tăng từ 10,55% lên 13,15%; lao động làm việc trong các ngành dịch vụ cũng tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ : từ 6.643.564 người lên 8.791.950 người và từ 19,65% lên 24,29%(TS.Trương Văn Phúc- thực trạng lực lượng lao động ở Việt Nam giai đoạn 1996-2000 và khả năng giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005). Theo khu vực. Cũng giống như các nước đang phát triển khác trên thế giới, lực lượng lao động nước ta hiện nay chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn và rất ít ở khu vực thành thị và ngày càng có xu hướng tăng dần ở khu vực thành t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự phát triển nguồn nhân lực - vai trò của nó với sự nghiệp CNH - HĐH và với nền kinh tế tri thức ở nước ta Thực trạng và thách thức.doc
Tài liệu liên quan