Tiểu luận Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

PHẦN NỘI DUNG

1.XHCN LÀ GÌ?

1.1Khái niệm xã hội chủ nghĩa

1.2 Khái niệm hệ thống xã hội chủ nghĩa

2.SỰ RA ĐỜI CỦA HỆ THỐNG CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

2.1 Sự hình thành từ nguyên thủy đến xã hội chủ nghĩa

2.2 Những ảnh hưởng và tiền đề hình thành xã hội chủ nghĩa

2.2.1 Ảnh hưởng của thắng lợi cách mạng tháng 10 Nga

2.2.2 Ảnh hưởng của tư tưởng Mác-Lê nin và những yếu tố khác.

2.3 Sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.

2.3.1 Việt Nam cũng là một nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa

2.4 Khó khăn và thách thức

2.4.1 Khó khăn

2.4.1.2 Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980

2.4.1.2 Giai đoạn từ cuối nhưng năm 1980 đến nay

2.4.2 Khắc phục

3/THÀNH TỰU

3.1 Về kinh tế:

3.2 Về chính trị.

3.3 Về văn hoá,khoa học kỹ thuật

3.4 Liên hệ với Việt Nam về những thành tựu đã đạt được

3.4.1 Kinh tế thị trường định hướng XHCN

C.LỜI KẾT

 

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 16764 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển ra ngoài biên giới của Liên Xô,hình thành nên cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu.Với các thành viên như:Mông Cổ,Ba Lan,Rumani,Hungari,Việt Nam,nam Tư,Anbani,Tiệp khắc,Nam tư,Triều Tiên,CH DC Đức,Trung Quốc,Cu Ba. Sự kiện này làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là các hệ thống duy nhất mà song song là một hệ thống chính trị đối lập với nó về bản chất và mục đích hoạt động. Những sự kiện này cổ vũ mạnh mẽ phong trào công nhân của giai cấp công nhân toàn thế giới,thức tỉnh cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.Vai trò định hướng của Chủ Nghĩa Mac lê-nin đã đem lại những thành quả lớn lao cho sự nghiệp vì hòa bình,độc lập dân tộc,dân chủ và tiến bộ xã hôi. 2.3 Sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản ở nhiều nước châu Âu và châu Á đã lãnh đạo quần chúng nhân dân phối hợp với Hồng quân Liên xô thành một mặt trận chống phát xít, có sự phối hợp chi viện cho nhau, tăng cường liên hệ quốc tế. Chính sự lớn mạnh của các Đảng Cộng sản trong thời kỳ chiến tranh là cơ sở để khi chủ nghĩa phát xít bị đánh bại, Đảng Cộng sản ở nhiều nước đã đứng lên lãnh đạo quần chúng nhân dân vũ trang giành chính quyền thành lập nhà nước dân chủ nhân dân. Trong thời gian 5 năm (từ năm 1944 đến năm 1949) ở châu Âu và châu Á đã có 11 nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo bằng 3 phương thức đã giành được chính quyền. Phương thức thứ nhất chủ yếu dựa vào lực lượng vũ trang của nhân dân nước mình, xây dựng các căn cứ địa cách mạng, khi thời cơ đến đã lãnh đạo nhân dân đứng lên giành chính quyền như: cộng hoà nhân dân liên bang Nam Tư thành lập 1944; nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập 1945; cộng hoà nhân dân Anbani năm 1946 và cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Phương thức thứ hai chủ yếu dựa vào Hồng quân Liênxô giải phóng đồng thời phối hợp vũ trang của nhân dân nước mình như Cộng hoà nhân dân BaLan (1945), Bungari (1946), Rummani (1948), Hunggari và Tiệp Khắc (1946) nhưng sau đó phải đấu tranh trong nội bộ chính phủ để trục xuất các phần tử tư sản, trở thành nước cộng hoà dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo (Hunggari 7/1947; Tiệp Khắc 2/1948) và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên.Phương thức thứ ba hoàn toàn do Hồng quân Liênxô giải phóng và dưới sự giúp đỡ của Liênxô để đi lên con đường chủ nghĩa xã hội như CHDC Đức(10/1949) Vậy là sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ một nước đã mở rộng ra 13 nước ở châu Âu và châu Á; với thắng lợi của cách mạng dân chủ ở Cu Ba năm 1959, Phong trào 26 tháng 7 do Phiden Castrô lãnh đạo, nước cộng hoà Cu Ba chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Như vậy chủ nghĩa xã hội đã không chỉ ở châu Âu, châu Á mà còn mở rộng đến châu Mỹ Latinh. Những nước này về hình thái ý thức đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm tư tưởng chỉ đạo. Về chính trị hình thành phe chủ nghĩa xã hội do Liênxô đứng đầu, về quân sự ở châu Âu hình thành tổ chức thông qua Hiệp ước Vacsava. Về quan hệ kinh tế, đó là những nước có chung một kiểu cơ sở kinh tế-xã hội, quyền sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và thông qua các hiệp ước song phương và Hội đồng tương trợ kinh tế để tương trợ giúp đỡ lẫn nhau xây dựng cộng đồng thị trường thế giới xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống tồn tại song song với hệ thống tư bản chủ nghĩa. 2.3.1 Việt Nam cũng là một nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Tại Đại hội IX của Đảng, khi tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo chính trị đã chỉ rõ bài học thứ nhất là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta của nhân dân ta là hoàn toàn chính xác. Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng ta đàn áp và thất bại. Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, cấp bách. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng  gánh gách vác sứ mệnh lịch sử đó? Nhưng rồi chính lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người. Và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản  chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến và đã bành trướng ra khắp thế giới, chi phối mọi mặt đời sống xã hội loài người. Chính vào thời điểm ấy Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra, mở đầu cho một xu thế mới của lịch sử thế giới, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam – nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Vời kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự nhiên, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa Xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi, từ đó dọc theo thế kỷ XX, sang thế kỷ XXI, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui,hạnh phúc ấm no của con người. Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng  Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau. Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị của các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng khác. Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là: Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, đối ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc đó giải quyết,không có sự can thiệp từ con người. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển của chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới. Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng tiêu biểu bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tín độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và trên thế giới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới 2.4 Khó khăn và thách thức 2.4.1 Khó khăn 2.4.1.2 Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980 Trong giai đoạn này ở nhiều nươc XHCN không chú ý tới công tác xây dựng Đảng,nhiều kẻ cơ hội chui vào hang ngũ của Đảng Cộng Sản.Một số mắc vào tệ nạn sùng bái cá nhân, không ít người mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản,không nhìn thấy và đánh giá đúng những thay đổi trong chính sách của chủ nghĩa tư bản.Ở không ít nước XHCN,bộ máy nhà nước trở lên quan liêu,vi phạm những quyền dân chủ của nhân dân.Trong xây dựng kinh tế chủ quan nóng vội,không tuân thủ nhưng quy đinh khách quan,chậm đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất.Trong lĩnh vực xã hội thực hiện bao cấp tràn lan,không kích thích được tính tích cực cá nhân,do vậy không tạo được động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Những sai lầm trên kéo dài,chậm được phát hiện và khắc phục triệt để đã hạn chế tốc độ phát triển kinh tế -xã hội của các nước,dẫn tới tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở nhiều nước,buộc các nước phải thay đổi. Trong quá trình cải cách đổi mới,nhiều đảng cộng sản mắc những sai lầm mang tính nguyên tắc.Lợi dụng tình hình đó,những thế lực thù địch với CNXH ở bên ngoài,kết hợp với những kẻ phản bội bên trong,thậm chí cả những người đứng đầu cơ quan nhà nước của Đảng đã tấn công làm sụp đổ chế độ CNXH ở Đông Âu và Liên Xô. Nguyên nhân chủ quan: Quan niệm giáo điều về CNXH Trước hết, là do quan niệm giản đơn, phiến diện quy luật về mối quan hệ giữa sản xuất và lực lượng sản xuất; cho rằng, có thể dùng ý chí cách mạng để xây dựng nhanh quan hệ sản xuất tiên tiến trên cái nền lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém và lạc hậu, và cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sau khi V.I.Lênin qua đời ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hóa tập trung đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, song đã biến dạng thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới lần 2, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hóa, từ bỏ hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, xây dựng năng lực cầm quyền của một chính đảng cách mạng sau khi giành được chính quyền chưa thực hiện đầy đủ, khiến Đảng không phát huy được vai trò của người lãnh đạo, người tổ chức nhân dân; vừa không phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội..., dẫn đến tình trạng quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn Một nguyên nhân chủ quan khác là đánh giá quá cao CNXH hiện thực và đánh giá quá thấp chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc; chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc hoạch định các bước đi của tiến trình xây dựng CNXH (như quan điểm của Liên Xô về “CNXH đã hoàn toàn thắng lợi”, “xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa”, “CNXH phát triển”...), không thấy hết tính chất lâu dài, quanh co, phức tạp của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải cách, đổi mới đúng đắn là nguyên nhân sâu xa làm chế độ XHCN suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Đó không phải những sai lầm khuyết tật do bản chất của chế độ XHCN, mà do quan niệm giáo điều về CNXH. Nguyên nhân trực tiếp: Lệch lạc về hệ tư tưởng XHCN và sự can thiệp từ bên ngoài Một là, trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Những tuyên bố ban đầu: “cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều CNXH hơn”, “chúng ta sẽ đi tới CNXH tốt đẹp hơn chứ không đi ra ngoài nó”, “chúng ta tìm trong khuôn khổ của CNXH chứ không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả lời cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra”..., rốt cuộc chỉ là những tuyên bố suông ngụy trang cho ý đồ phản bội. Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu XHCN mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “không vùng cấm”, cải tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử 70 năm xây dựng CNXH, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của CNXH. Nó gây hoang mang, xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những giá trị của CNXH. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại chúng để làm việc này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới, phủ định quá khứ được các đài, báo phương Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái theo những ý đồ, mục đích của phương Tây. Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở “tư duy chính trị mới”. Hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một thứ vũ khí rất lợi hại để lái cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trong nội bộ. Trong cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh, Tổng thống Mỹ Níchxơn cho rằng “mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”. Ông ta viết: “Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”. Như vậy sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô có nguyên nhân xâu xa là những sai lầm của các đảng cộng sản,các nhà nước XHCN,sự chống phá của các thế lực thù địch và sự phản bội của một số người đảng cộng sản,chứ không hoàn toàn là sự sụp đổ của CNXH và lí luận khoa học về CNXH như một số người vẫn đang rêu rao. Trong tình hình CNXH trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm của mô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu. Vì chỉ có một cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới sâu sắc, toàn diện mới đưa CNXH thoát khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới. Cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới là tất yếu nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn đề ở chỗ: cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường lối nào. Một số đảng cộng sản các nước trên thế giới đã nhận định nguyên nhân của sự sụp đổ này là: Sự lệch lạc về hệ tư tưởng của những người lãnh đạo đảng và sự thiếu hiểu biết về hệ tư tưởng XHCN của nhân dân; sự thiếu dân chủ trong xã hội và trong đảng; tình trạng quan liêu trong đảng, tham nhũng và sự xa lánh nhân dân của lãnh đạo đảng; một số sai lầm trong chính sách kinh tế của đảng cộng sản cầm quyền; và sự phá hoại tinh vi của chủ nghĩa đế quốc Đây là những bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới của các nước XHCN trong giai đoạn hiện nay. 2.4.1.2 Giai đoạn từ cuối nhưng năm 1980 đến nay Giai đoạn hiện nay,CNXH thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Cùng với sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô,nhiều Đảng Cộng Sản và công nhân bị tan rã,nhiều đảng viên xin ra khỏi Đảng.Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên CNXH,nhưng giờ đây mất chỗ dựa về tinh thần và vật chất,các lực lượng phản động giành lại chính quyền và đưa đất nước theo con đường khác.Ảnh hưởng của CNXH trên phạm vi toàn thế giới giảm đi nghiêm trọng Những thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm phương nghìn kế,bằng nhiều luận điệu khác nhau để xoá bỏ chủ nghĩa Mac-Lê nin và phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước XHCN trên toàn thế giới,nhằm xác lập địa vị thống trị của cgủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới.Lịch sử đang đặt ra những thử thách vô cùng to lớn cho CNXH,phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong thời đại ngày nay: “chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của dân tộc,có điều kiện tạo ra bước phát triển mới.Theo quy luật tiến hoá của lịch sử,loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”.. Thời đại ngày nay đang diễn ra cuộc đấu tranh gay go,quyết liệt giữa chủ nghĩa xã hội và tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới.Cuộc đấu tranh giữa hai chế độ xã hội khác nhau đã và đang chi phối quá trình vận động và phát triển của lịch sử nhân loại. Đây là cuộc đấu tranh giữa một chế độ mới ra đời,đang trưởng thành và còn hạn chế về nhiều mặt với một chế độ đã lạc hậu về mặt lịch sử,nhưng đang có những ưu thế nhất đinh về kinh tế,quân sự. Cuộc đấu tranh giữa hai chế độ khác nhau về bản chất đã và đang diễn ra trên tất các mặt của đời sỗng xã hội:kinh tế,chính trị,tư tưởng,văn hoá.vv.. + Trong lĩnh vực kinh tế: Các học giả tư sản đang tìm cách chứng minh nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là vĩnh cửu;chủ nghĩa tư bản không còn bóc lột như trước. Thế giới tư bản chủ nghĩa đang dựa vào lợi thế kinh tế của mình;chủ nghĩa đế quốc đang tìm trăm phương ngàn kế để phá hoại,hạn chế sự phát triển kinh tế của các nước XHCN bằng bao vây,cấm vận kinh tế,hoặc thông qua chính sách toàn cầu hoá để tiếp tục áp bức bóc lột các nước nghèo đem lại lợi thế to lớn cho các nước phát triển. + Trong lĩnh vực chính trị: Các đảng tư sản,chủ nghĩa đế quốc,đứng đầu là Mỹ đang dùng mọi cách để tuyên truyền quảng bá cho chế độ tư sản,tự do tư sản;biện minh cho chính sách bá truyền của họ để can thiệp vào công cuộc nội bộ các nước. Bằng âm mưu thủ đoạn khác nhau như mua chuộc,dụ dỗ lôi kéo,lợi dụng những khuyết điểm,hạn chế của một số nước XHCN,tới những biện pháp đe dọa,chủ nghĩa tư bản đang thực hiện âm mưu ‘ diễn biến hoà bình’ nhằm lật đổ nhà nước XHCN,hòng khôi phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước này. + Trong lĩnh vực tư tưởng: Chủ nghĩa tư bản dựa vào ưu thế kinh tế,khoa học-công nghệ và sức mạnh quân sự đang tìm mọi cách phổ biến những giá trị phương tây,tuyên truyền quan điểm đa phương chính trị,đa đảng hoặc đa giai cấp,phi ý thức hệ,phi chính trị,làm lẫn lộn giữa đúng và sai,phải trái,nhằm chống lại chủ nghĩa xã hội và những lực lượng và hoà bình thế giới. Đặc biêt ở các nước XHCN,chủ nghĩa đế quốc đã thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình,tuyên truyền các lý thuyết tư sản,tìm mọi cách phủ nhận học thyết Mác-Lê nin- lý luận cách mạnh,vũ khí sắc bén của giai cấp công nhân và nông dân lao động.Mặt khác,chúng đang tìm cách mua chuộc,làm thoái hoá về tư tưởng,đạo dức lối sống trong một bộ phận cán bộ đảng viên;tìm cách chia rẽ cán bộ với cán bộ,đảng với dân,cán bộ với nhân dân 2.4.2 Khắc phục Để vượt qua những thử thách đó,các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi mới,phải khắc phục những yếu kém,nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,tranh thủ những điều kiện thuận lợi do cuộc cách mang khoa học xã hội tạo ra,không ngừng nâng cao năng suất lao động,cải thiện đời sống nhân dân,để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước. Trải qua những thăng trầm lịch sử,những người cộng sản ở các nước thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ kẻ thù,đang ra sức tập hợp lực lượng,tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục những giá trị của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con đường xã hội chủ nghĩa. Từ thực tế những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân,nhân dân tiến bộ trên thế giới thấy được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản hiện tại,từ đó đoàn kết nhau lại để đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản,đưa đát nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội đang tìm cách khẳng định mình,bằng cách huy động mọi tiềm năng,trí tuệ trong nhân dân,điều chỉnh những sai lầm trong cải cách,đổi mới,khắc phục yếu kém trong quản lí kinh tế,tranh thủ những thành tựu của khoa học công nghệ hiẹn đại để chứng minh tính ưu việt của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.. Các nước xã hội chủ nghĩa,các đảng cộng sản phải tỉnh táo và chủ động kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù,bảo vệ đảng,bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa,bảo vệ thành quả cách mạng.Đồng thời giai cấp công nhân quốc tế,các nhà nước xã hội chủ nghĩa,phải làm rõ tính chất bạo động,hiếu chiến của các tập đoàn tư bản hiện nay,tập hợp mọi lực lượng tư bản tiến bộ,tấn công làm thất bại mọi âm mưu chống phá hoại của kẻ thù. Các đảng cộng sản,các nhà nước xã hôi chủ nghĩa phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh tư tưởng bằng nhiều cách khác nhau,phê phán những tư tưởng phản động,hiếu chiến muốn duy trì sự thống trị,sự áp bức giữa nước giàu với các nước nghèo,nước lớn đối với nước nhỏ;cổ vũ cho cuộc đấu tranh,vì một thế giới hoà bình,hưu nghị,đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển 3/THÀNH TỰU Thành tựu nổi bật của các nước xã hôi chủ nghĩa là xoá bỏ chế độ người bóc lột người,đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước,quản lý xã hội.Chính vì lẽ đó,Hồ Chí Minh đã từng bước khẳng định nước Nga có chuyện lạ đời,đem người nô lệ thành người tự do.Đi cùng với việc xây dựng một xã hội tốt đẹp,CNXH còn thiết lập một quan hệ quốc tế bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc.Điều này,hoàn toàn xa lạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.doc
Tài liệu liên quan