Sau một thời gian thực hiện, BLTTDS đã bộc lộ một số điểm hạn chế, đặc biệt là vấn đề tham gia tố tụng của Viện kiểm sát tại Tòa án các cấp. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS có hiệu lực từ 01/01/2012 đã khắc phục được phần lớn các điểm hạn chế này, cụ thể:
Thứ nhất: “Điều 21. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần.
3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
4. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.”
8 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9548 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát tại Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Dưới tác động của hội nhập quốc tế trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, các quy định của pháp luật nước ta nói chung và các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nói riêng cũng cần phải được thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn để phù hợp với với xu thế phát triển hợp tác, hội nhập với cả thế giới. Nắm bắt được xu thế này, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 01/01/2012, trong đó vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ngày càng có nhiều sự thay đổi. Trước tình hình thay đổi như vũ bão thế này, yêu cầu đặt ra là phải làm sao để hiểu rõ sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát tại Tòa án các cấp. Sau đây, bằng hiểu biết của mình, tôi xin trình bày quan điểm cá nhân về đề tài “sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát tại Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị”.
I. Khái quát chung về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát
Chức năng của viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong lĩnh vực dân sự, viện kiểm sát thực hiện chức năng này thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (xem các Điều 1, khoản 4 Điều 3, Điều 20 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
Không những thế Điều 21 và 22 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân còn có các quy định rất rõ ràng và chi tiết về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát, cụ thể là:
“Điều 21:
Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án; yêu cầu Toà án nhân dân hoặc tự mình xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;
2. Khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật;
3. Tham gia các phiên toà và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án;
4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân;
5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
6. Kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án nhân dân;
7. Yêu cầu Toà án nhân dân áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật;
8. Yêu cầu Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
Điều 22
Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật; kiến nghị với Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục những vi phạm pháp luật trong việc giải quyết các vụ án; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự”.
Như vậy, theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thì Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn rất rộng trong lĩnh vực dân sự nói chung. Đặc biệt, trong các hoạt động tố tụng dân sự, Viện kiểm sát đóng một vai trò cực kì lớn, đó là tham gia giải quyết tất cả các vụ án dân sự (còn có thể tham gia cả một số các hoạt động tố tụng như: thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, khởi tố vụ án, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật…).
Nhưng kể từ khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu lực (đây là Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự đến 01/01/2012 mới có hiệu lực); phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã có những thay đổi nhất định. Cùng với việc phân chia vụ việc dân sự thành hai loại (Điều 1 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004): vụ án về tranh chấp dân sự… có sự tham gia của các đương sự như nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và việc dân sự bao gồm các yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động với các trình tự thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và việc dân sự rất khác nhau thì nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát đã được phân bổ và cơ cấu lại một cách khoa học hơn; Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) đã giới hạn phạm vi tham gia phiên tòa của Viện kiểm sát, cụ thể theo khoản 2 Điều 21 BLTTDS thì: “Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án”. Như vậy, Viện kiểm sát không tham gia 100% các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm dân sự như tinh thần quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 nữa. Viện kiểm sát nhân dân không có thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự, lao động trong một số trường hợp như luật quy định trước năm 2004, Viện kiểm sát không tự đi xác minh thu thập chứng cứ, không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, không làm văn bản phản đối quyết định hòa giải thành, không tham gia 100% các phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm các vụ án dân sự.
Quy định như vậy theo tôi là đã có tính hợp lý, đối với việc bỏ thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự, lao động của Viện kiểm sát là nhằm đảm bảo nguyên tắc tự định đoạt, tự thỏa thuận và bình đẳng của các bên đương sự. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ quyền này thì chung quy lại đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc nêu trên, vì như vậy có khác gì Viện kiểm sát lại đứng về một bên đương sự, còn đâu nữa sự khách quan, còn đâu nữa sự bình đẳng hay thỏa thuận…
Tương tự như vậy, quy định Viện kiểm sát không tự đi xác minh thu thập chứng cứ, không yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, không làm văn bản phản đối quyết định hòa giải thành, không tham gia 100% các phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm các vụ án dân sự cũng nhằm mục đích tôn trọng các bên đương sự và đảm bảo hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát (vì với trình độ tổ chức, cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát và năng lực của các Kiểm sát viên ở nước ta hiện nay, sao có thể ôm đồm hết bao nhiêu công việc).
Ngoài ra, Viện kiểm sát còn thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, chấp hành viên, cá nhân và tổ chức liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; kháng nghị các quyết định về thi hành án của cơ quan thi hành án; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại của Tòa án, cơ quan thi hành án và những người có thẩm quyền trong việc giải quyết các khiếu nại phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự, giải quyết các khiếu nại thuộc thẩm quyền…
Các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát xuất phát từ quyền giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của cơ quan quyền lực và cũng mang tính quyền lực. Việc thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát có tác dụng bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự được đúng đắn. Tuy không có điều luật quy định tổng quát nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong BLTTDS nhưng tại các điều 21, 45, 146, 207, 252, 262, 292, 379 và một số điều luật khác của BLTTDS đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong từng lĩnh vực cụ thể.
II. Sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát tại Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
Được xác định là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự (Điều 39 BLTTDS), Viện kiểm sát tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân các cấp để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ chính của mình là giám sát, kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự (xem các Điều 21, 39, 44, 45, 48, 51, 85,124, 174, 195, 207, 211, 234, 249, 250, 251, 253, 256, 262, 264, 280, 313, 316, 317, 358, 372, 388, 395, 404).
1. Đối với các việc dân sự: Theo các quy định của BLTTDS, Viện kiểm sát tham gia vào tất cả các phiên họp sơ thẩm, tại khoản 2 Điều 313 BLTTDS về những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự quy định: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham dự phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp”. Tại cấp phúc thẩm, nếu có căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, Viện kiểm sát cũng tham gia vào các phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự trừ các trường hợp quy định tại Điều 316 BLTTDS, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị (do các quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay khi tuyên bố), đó là các quyết định:
- Quyết định công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
- Quyết định công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
2. Đối với các vụ án dân sự: Như đã phân tích ở trên, sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát tại Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm được giới hạn ngay tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS: “Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án”. Như vậy, tại Tòa án cấp sơ thẩm, điều kiện để Viện kiểm sát có thể tham gia vào phiên tòa là đương sự có khiếu nại đối với hành vi thu thập chứng cứ của Tòa án (mà cơ sở của hành vi này là việc một bên đương sự không có khả năng thu thập chứng cứ và có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ). Quy định này một mặt đảm bảo quyền tự định đoạt, tự do thỏa thuận của đương sự một mặt đảm bảo cho Viện kiểm sát hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ của mình khi giám sát, kiểm tra hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án do hoạt động này có thể sai sót, thiếu minh bạch hoặc vi phạm thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, việc còn quy định thêm là Viện kiểm sát chỉ có thể tham gia phiên tòa khi đương sự có khiếu nại đối với hành vi thu thập chứng cứ của Tòa án là thiếu cơ sở, không hiểu nhà làm luật định hướng tới mục tiêu gì khi đưa ra quy định này, theo tôi không cần đương sự phải khiếu nại hành vi thu thập chứng cứ của Tòa án, Viện kiểm sát cũng phải tham gia phiên tòa này.
Tại Tòa án cấp phúc thẩm, Viện kiểm sát tham gia phiên tòa khi có căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Tại khoản 2 Điều 264 BLTTDS quy định: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc đã tham gia phiên tòa sơ thẩm”. Như vậy, ngoài các trường hợp kháng nghị, Viện kiểm sát còn bắt buộc phải tham gia tất cả các phiên tòa phúc thẩm đối với các vụ án dân sự mà Viện kiểm sát đã tham gia phiên tòa sơ thẩm (các quy định này được hướng dẫn chi tiết trong Thông tư liên tịch 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao ban hành).
III. Một số nhận xét và kiến nghị
Sau một thời gian thực hiện, BLTTDS đã bộc lộ một số điểm hạn chế, đặc biệt là vấn đề tham gia tố tụng của Viện kiểm sát tại Tòa án các cấp. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS có hiệu lực từ 01/01/2012 đã khắc phục được phần lớn các điểm hạn chế này, cụ thể:
Thứ nhất: “Điều 21. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần.
3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
4. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.”
Như vậy, Viện kiểm sát đã được mở rộng thẩm quyền hơn so với BLTTDS năm 2004, bằng chứng là Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên họp dân sự (trừ quy định tại Điều 316), tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. Quy định này theo tôi là rất khoa học, hợp lý và rõ ràng, đặc biệt nó đã khắc phục được tình trạng Viện kiểm sát phải chờ khi đương sự khiếu nại hành vi thu thập chứng cứ của Tòa án mới được quyền tham gia phiên tòa sơ thẩm. Hơn thế nữa, việc Viện kiểm sát đã phải tham gia tất cả các phiên tòa phúc thẩm (khoản 2 Điều 264 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS) làm cho công tác xét xử được đúng đắn hơn, tránh được nhiều sai sót và tình trạng án bị hủy, bị sửa hơn. Đảm bảo thực hiện tốt hơn chức năng, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.
Thứ hai: “Điều 234. Phát biểu của Kiểm sát viên
1. Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
2. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.”
Theo tôi, quy định này hơi thừa, việc Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như vậy thật vô nghĩa, cần có quy định về việc phát biểu đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, đối với cả bản án và được ghi trong bản án ý kiến đó của Kiểm sát viên làm căn cứ kháng nghị. Có như vậy mới làm cho việc Kiểm sát viên có mặt tại phiên tòa có ý nghĩa.
Thứ ba: “Điều 273a. Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm
Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm.”
Như đối với Điều 234, cần có biện pháp tương tự để tăng vai trò của Viện kiểm sát trong phiên tòa phúc thẩm.
Thứ tư: Xuyên suốt đề tài này, có một thực tế nhức nhối là có quá nhiều luật bị chồng chéo, không thống nhất. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 mâu thuẫn với BLTTDS sắp sửa đổi, bổ sung, rồi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS chưa có hiệu lực tiếp tục mâu thuẫn với các quy định cũ làm tất cả mọi người lúng túng. Vậy, các nhà làm luật cần phải mau chóng hoàn thiện pháp luật về tố tụng dân sự để có căn cứ thống nhất áp dụng luật hiệu quả trên thực tiễn.
Thứ năm: Nâng cao công tác xét xử của Tòa án. Do có sự thay đổi của BLTTDS (Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS) nên nguy cơ án sai phạm, án bị hủy, bị sửa cũng tăng lên. Lý do đó một phần là do vai trò của Viện kiểm sát đã thay đổi (cùng với sự thay đổi theo hướng tăng thẩm quyền của Viện kiểm sát hơn so với BLTTDS năm 2004 đã phân tích ở phần Thứ nhất, sẽ xuất hiện nguy cơ quyền lợi của các bên đương sự bị ảnh hưởng) nhưng không thể quy trách nhiệm cho Viện kiểm sát được, muốn giảm lượng án sai phạm, bị hủy, bị sửa, cần có sự phối hợp của cả hai bên Viện kiểm sát và Tòa án mà trọng tâm là nâng cao công tác xét xử của Tòa án, nâng cao trình độ của toàn ngành Tòa án.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự. Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
2. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
3. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 (có hiệu lực 01/01/2012).
5. Thông tư liên tịch 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao ban hành.
6. TS. Khuất Văn Nga – Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Những định hướng chủ yếu của công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự năm 2005. Tạp chí kiểm sát 01 – 2005.
7. Trần Văn Trung, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa dân sự theo quy định của BLTTDS. Tạp chí kiểm sát, số 01/2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ- Sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát tại Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị.doc