Tiểu luận Sự thống nhất và đấu tranh giữa các thành phần kinh tế của nước ta hiện nay

MỤC LỤC

Mở đầu 1

Nội dung 3

1-Tính tất yếu khách quan và lợi ích của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần 3

1.1.Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. 3

1.2.Lợi ích kinh tế của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. 3

2. Các thành phần kinh tế cơ bản ở nước ta hiện nay. 4

3.Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế của nước ta hiện nay. 5

3.1. Mâu thuẫn giữa khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa và khuynh hướng phát triển CNXH. 6

3.2. Mâu thuẫn giữa nền kinh tế ở trình độ thấp kém, lạc hậu và yêu cầu chuyển sang nền kinh tế phát triển, hiện đại. 7

3.3. Mâu thuẫn giữa chế độ công hữu và chế độ tư hữu. 9

3.4.Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế về lợi ích kinh tế. 12

4. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN. 13

4.1.Điều kiện để phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta. 14

4.2.Phát triển hàng hoá theo định hướng XHCN. 15

kết luận 17

Tài liệu tham khảo 18

 

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1554 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự thống nhất và đấu tranh giữa các thành phần kinh tế của nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế nhiều thành phần khắc phục được tình trạng độc quyền tạo ra được động lực cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế để thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế quá độ vừa là tất yếu, cần thiết vừa là phương tiện để đạt được mục đích của nền sản xuất xã hội là sản xuất của cải vật chất không ngừng với qui mô ngày càng mở rộng, tốc độ ngày càng cao để đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội. Nó vừa tạo cơ sở làm chủ về kinh tế, vừa đảm bảo kết hợp hài hoà hệ thống lợi ích kinh tế. Đó chính là động lực của sự phát triển. 1.2. Lợi ích kinh tế của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất (QHSX) sẽ phù hợp với tình trạng thấp ké và không đồng đều của lực lượng sản xuất (LLSX). Đây là một yêu cầu của qui luật kinh tế này. Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp các thành phần kinh tế trong nước, tạo điều kiện khai thác sức mạnh về vốn, khoa học và công nghệ của các nước khác. Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản Nhà nước v.v... Tạo ra tiềm năng kinh tế (tích luỹ vốn, tăng khối lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu trong nước ngày càng cao và nhu cầu xuất khẩu). Trên cơ sở đó mà xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ và có điều kiện để mở rộng kinh tế đối ngoại. Sự phân tích trên đây cho thấy sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan và có nhiều lợi ích kinh tế trong thời kỳ quá độ. Vì vậy Đảng ta đã khẳng định: "Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính qui luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế đảm bảo cho mọi người được tự do làm ăn theo luật pháp". 2. Các thành phần kinh tế cơ bản ở nước ta hiện nay. Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh tế sau: Thành phần kinh tế Nhà nước: là sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở kinh tế kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như đất đai, ngân sách, tài nguyên, các nguồn dự trữ .v.v.. Thành phần kinh tế hợp tác: là sự liên kết tự nguyện của các chủ thể kinh tế với hình thức da dạng, linh hoạt phù hợp với nhu cầu, khả năng lợi ích của các bên tham gia kinh tế hợp tác có hình thức là các hợp tác xã, kinh tế hợp tác xã là những hình thức liên kết tuân thủ có nguyên tắc, có tổ chức chặt chẽ và điều lệ hoạt động rõ ràng. Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước: là sản phẩm của sự can thiệp Nhà nước vào hoạt động của các tổ chức đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng khai thác phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia đặt dưới sự kiểm soát của Nhà nước. Thành phần kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế mà hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của bản thân là chính. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh và hiệu quả tiền vốn, sức lao động tay nghề... vì thế nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc nhiều nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ. Nét nổi bật của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thuê và bóc lột lao động làm thuê. Các thành phần kinh tế này đều được thừa nhận khách quan và Nhà nước tạo điều kiện môi trường để chúng tồn tại và phát triển, chúng được bình đẳng trước pháp luật. Nhưng trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển. 3. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế của nước ta hiện nay. Trong xã hội của nước ta hiện nay vẫn còn những mâu thuẫn chúng là những mâu thuẫn đối kháng là nguồn gốc và động lực phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay. Đó là mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, cái tích cực và cái tiêu cực, cái đổi mới phát triển và cái trí tuệ lạc hậu và quá trình phát triển là quá trình giải quyết những mâu thuẫn ấy. Trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay tồn tại nhiều TPKT, với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất của các TPKT thể hiện ở điểm: các TPKT trong quá trình hoạt động không biệt lập mà gắn bó đan xen thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế và mỗi TPKT có vai trò và chức năng của nó trong đời sống kinh tế - xã hội và đều chịu sự quản lý của Nhà nước. Sự thống nhất giữa chúng còn vì có các yếu tố điều tiết thống nhất của các qui luật kinh tế và thị trường thống nhất. Tuy nhiên các TPKT thể hiện mâu thuẫn ở sự mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, giữa xu hướng TBCN và xu hướng XHCN.. Mặt khác cũng thấy nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế quá độ lên CNXH nên trên đường đi tới một nền kinh tế thị trường tương ứng với chế độ XHCN cần chấp nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sản xuất hàng hoá khác nhau trong đó có hình thức chứa đựng sự bất công xã hội là sự bóc lột. Đó là quá trình đi từ chấp nhận bóc lột trong những điều kiện nhất định lên tới chỗ xoá bỏ nó. 3.1. Mâu thuẫn giữa khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa và khuynh hướng phát triển CNXH. Trong xã hội ta hiện nay đã có những nhân tố chính trị, kinh tế văn hoá tinh thần tạo thành khuynh hướng đi lên CNXH. Nhưng cho đến nay sau hàng chục năm cải tạo nền kinh tế hàng hoá ở nước ta vẫn chưa phát triển. Nền sản xuất nhỏ có lực lượng xã hội đại hiện cho nó là tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông dân gắn liền với cơ cấu xã hội nảy sinh trên nền tảng kinh tế xã hội nhỏ phổ biến là tư tưởng tiểu tư sản đang bao trùm xã hội và thâm nhập vào mọi tầng lớp nhân dân. Tất cả những nhân tố đó trong tính tổng hợp của chúng tạo thành khuynh hướng, con đường phát triển TBCN. Để khả năng đó trở thành hiện thực chỉ thiếu một chính quyền của Nhà nước tư sản. Nhưng các khuynh hướng con đường ấy chỉ là kết quả vận động tổng hợp của những nhân tố thực thể vật chất và tinh thần đang tồn tại hiện thực và cuộc đấu trang trong thực tế diễn ra trực tiếp giữa các nhân tố thực tế đó. Do vậy chỉ rõ và nhờ đó xác định cụ thể những hình thức đấu tranh tương ứng giữa các thực thể đối lập tạo thành mâu thuẫn cơ bản trên có thể diễn đạt theo công thức sau đầy: Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay là mâu thuẫn giữa một bên là các nhân tố tiền tư bản có khuynh hướng TBCN với một bên những nhân tố XHCN có khuynh hướng XHCN. Những nhân tố tư bản và tiền tư bản được nảy sinh ở nước ta do tác động của cuộc đấu tranh quốc tế giữa CNXH và CNTB cũng như những nhân tố phát sinh trong quá trình xây dựng CNXH ở trong nước. ở những giai đoạn khác nhau của thơìi kỳ quá độ những nhân tố tư bản và tiền tư bản. Khi hết vai trò lịch sử chúng trở thành kìm hãm sự phát triển xã hội thì cần phải loại bỏ. Nhưng sự phát triển lại không theo đường thẳng giản đơn cũng không theo hình sin hay theo vòng tròn khép kín mà diễn ra theo đường chôn ốc. Hình ảnh đường chôn ốc diễn ra được rõ ràng tính chất biện chứng của sự phát triển. Nói lên dược tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động. Do đó khi tiến lên CNXH chúng ta không phủ định sạch trơn cái cũ (CNTB) mà giữ lại những yếu tố còn có ý nghĩa tích cực đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước bằng các chính sách chế độ hợp lý và để chúng phát triển trong khuôn khổ của pháp luật. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó có thành phần kinh tế Nhà nước có thành phần kinh tế cá thẻe, kinh tế tư bản tư nhân. Các thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế có chế độ sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất trong đó doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận nòng cốt có xu hướng phát triển theo con đường XHCN. Ngược lại bản chất của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất của thành phần kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân là thông qua hình thức chiếm hữu để có được lợi nhuận cao nhất. Các thành phần kinh tế này nếu không được định hướng và chỉ đạo sát sao của Nhà nước thì rất dễ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. 3.2. Mâu thuẫn giữa nền kinh tế ở trình độ thấp kém, lạc hậu và yêu cầu chuyển sang nền kinh tế phát triển, hiện đại. Trong điều kiện hiện nay với sự hội nhập và hợp tác quốc tế về nhiều mặt nhất là về kinh tế chúng ta đã thu được những kinh nghiệm quý báu trong sản xuất, phân phối và công tác quản lý kinh tế... Điều đó chứng minh cho sự cố gắng, nỗ lực của Nhà nước và nhân dân ta trong việc đưa nền kinh tế từ nền sản xuất thủ công lạc hậu, chậm phát triển sang nền kinh tế hiện đại, tiên tiến. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa hoàn toàn khắc phục được mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. ở nước ta quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đặc biệt là trong những năm trước. Chúng ta đã áp đặt vào nền kinh tế những quan hệ sản xuất tiên tiến nhất đó là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong khi lực lượng sản xuất của ta thì còn chưa phát triển và lạc hậu. ở đây chúng ta muốn dùng tính tiên tiến của những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa để thúc đẩy lực lượng sản xuất là không thể thực hiện được và duy tâm không đúng với qui luật. Tức là lực lượng sản xuất chỉ có thể vận động và phát triển trong những quan hệ kinh tế do nó qui định, tức là phải có sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay đó là một trạng thái mà trong các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Nói cách khác trong trạng thái phù hợp thì cả ba mặt của quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm lao động đạt tới sự thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Với trạng thái phù hợp như vậy lực lượng sản xuất sẽ có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Nhưng không có những quan hệ cần thiết để thúc đẩy lực lượng sản xuất sẽ thiếu những điều kiện; động lực để phát triển. Toàn bộ những điều trên là cội nguồn của tình trạng khủng hoảng và bế tắc của nền kinh tế nước ta trong thập kỷ 80. ở giai đoạn hiện nay khi quan hệ sản xuất đã có cải thiện đáng kể. Đảng ta đã xác định đặt "con người vào vị trí trung tâm" trong sự nghiệp phát triển kinh tế và "giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển kinh tế" nhưng tạm thời hiện nay thì lực lượng sản xuất vẫn chưa phát triển đồng bộ được với nó. Lực lượng sản xuất chủ yếu ở đây là trình độ con người lao động. Nước ta vẫn thiếu một lượng đáng kể đội ngũ những người thợ lành nghề, có trình độ kỹ thuật cao. Trong nhiều xí nghiệp tình trạng này là phổ biến đội ngũ thợ kỹ thuật chưa phát huy được tính sáng tạo chủ động trong cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động. Họ chủ yếu làm việc với những hệ thống máy móc đa số được nhập vào nước ta từ những năm đầu thế kỷ 20 hoặc nếu không thì là những máy móc đã lạc hậu ở nước ngoài xuất vào Việt Nam. Chính vì vậy mà sản phẩm hàng hoá mà chúng ta sản xuất ra thường không có chất lượng cao như sản phẩm của nước ngoài. Điều đó càng gây cản trở đối với việc phát triển kinh tế ở nước ta vì trong điều kiện hiện nay với xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế hàng ngoại đang chiếm ưu thế trên thị trường do chúng có mẫu mã đẹp, chất lượng cao từ mâu thuẫn này đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những chính sách kinh tế thích hợp để bắt kịp với thế giới hiện đại. ở nước ta là từ nền kinh tế cổ truyền chậm phát triển chuyển sang kinh tế hàng hoá phát triển. Chính nội dung kinh tế này đã qui định các quá trình kinh tế cũng như các khuynh hướng phát triển khác của đời sống kinh tế. Cái bao trùm quá trình kinh tế này là biến nền sản xuất còn mang tính tự nhiên cá thể thành những hoạt động xã hội rộng lớn phụ thuộc vào nhau. Có thể nói kinh tế hàng hoá là mô hình kinh tế là phương thức phát triển lực lượng sản xuất, trình độ xã hội hoá sản xuất giữa các ngành, các thành phần kinh tế, các vùng khác nhau. Tuy nhiên, khi bước sang thời kỳ quá độ chuyển sang kinh tế thị trường đứng trước mâu thuẫn lực lượng kinh tế xã hội chủ nghĩa còn nhỏ bé. Những năm gần đây mặc dù Nhà nước đã có những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng không thể trong vài năm có thể cải tạo được nền kinh tế ở trình độ thấp kém thành nền kinh tế phát triển hiện đại. Quá trình xã hội hoá và chuyển nền kinh tế lạc hậu chậm phát triển sang nền kinh tế phát triển hiện đại là quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá. Thời kỳ quá độ là sự hội tụ của nền kinh tế hàng hoá và sự chi phối của Nhà nước vô sản với tính cách là một chủ thể kinh tế chung đối với nền kinh tế đó. Xét về mặt kinh tế đó là sự đấu tranh và hoà nhập của các phương thức hoạt động kinh tế tương ứng với những trình độ phát triển khác nhau của kinh tế thời kỳ quá độ. Sự đan xen của những phương thức hoạt động kinh tế khác nhau hợp thành một chỉnh thể của nền kinh tế quốc dân vừa là đặc trưng cơ bản vừa là hình thái tất yếu để chuyển từ trạng thái chậm phát triển sang nền kinh tế hiện đại. 3.3. Mâu thuẫn giữa chế độ công hữu và chế độ tư hữu. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế cùng với nó là các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất trong đó có chế độ công hữu và chế độ tư hữu. ở nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác, xác lập chế độ công hữu đối với tưliệu sản xuất luôn được coi là mục tiêu, là nội dung cơ bản của cách mạng quan hệ sản xuất phản ánh trình độ phát triển của bản thân XHCN. Nhưng quá trình thực hiện mục tiêu đó đã cho thấy chế độ công hữu bên cạnh mặt tích cực của nó đã nảy những mặt tiêu cực như năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp trong khi nhiều đơn vị kinh tế tư nhân mặc dù chưa được Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện vẫn phát triển lên được. Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể. Vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước của thời kỳ quá độ được thể hiện ở vai trò định hướng XHCN của nền kinh tế quốc dân được thể ihện ở nhiều mặt: kinh tế quốc doanh nắm các ngành, các lĩnh vực các cơ sở kinh tế trọng yếu và then chốt nên có khả năng chi phối các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Kinh tế Nhà nước đảm bảo những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội phục vụ cho lợi ích của cộng đồng nhưng để làm được vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế khách, phải đổi mới cơ cấu sản xuất; chiến lược kinh doanh; đổi mới công nghệ, cơ chế quản lý để giữ vai trò định hướng. Trên thực tế hiện nay Nhà nước quản lý nền kinh tế - xã hội bằng hệ thống các công cụ (luật pháp, các chính sách kinh tế xã hội) vốn kém hiệu quả vì tồn tại quá lâu dài trong thời kỳ chỉ huy bao cấp. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đều hoạt động thiếu năng động ỷ lại quá nhiều vào Nhà nước. Các tệ nạn như tham nhũng, tiêu cực nảy sinh. Về sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay, một thời gian dài ta thường quan niệm sở hữu tư nhân bao giờ cũng gắn liền với bóc lột và là đối tượng cần phải xoá bỏ trong CNXH, nhưng càng ngày, sở hữu tư nhân càng chứng minh được vị trí của mình đối với nền kinh tế quốc dân. Việc thừa nhận sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và đảm bảo cho nó phát triển trong phạm vi nhất định không những có tác dụng một tiềm năng sản xuất to lớn mà còn có tác dụng hỗ trợ bổ sung và phần nào kích thích được khu vực công hữu tạo môi trường vừa hợp tác vừa cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế thúc đẩy xã hội tiến bộ đi lên. Sự khác nhau giữa thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân thể hiện ở ý thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất. ở trong các xí nghiệp Nhà nước do ỷ lại vào sự giúp đỡ đầu tư của Nhà nước nên có tình trạng thiếu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý và theo đó là đội ngũ công nhân đối với tư liệu sản xuất. Vì tồn tại trong chế độ công hữu nên mọi người mặc nhiên không cio tư liệu sản xuất đó là của mình, tha hồ lãng phí, phá bỏ bởi vì họ đâu phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Cán bộ, công nhân đến giờ đi làm thì việc hết giờ nghỉ không tính đến năng suất cao hay thấp, tỷ lệ chất sám bỏ vào mỗi sản phẩm là bao nhiêu và cuối cùng đều được hưởng quyền lợi như nhau. Vì vậy kinh tế không thể đi lên được. Các xí nghiệp loại này dần dần bị sa sút và bị thị trường loại bỏ. Khác với chế độ công hữu đặc biệt cơ bản của sở hữu ta nhân là sự chi phối trực tiếp có ý thức của người sở hữu đối với tư liệu sản xuất chủ sở hữu đương nhiên coi tư liệu sản xuất là của mình, là điều kiện để mình thu về lợi ích kinh tế trong quá trình sản xuất vật chất. Với nền kinh tế thị trường một hình thức kinh tế mới xuất hiện, trình độ xã hội hoá tư liệu sản xuất đạt được ở mức độ cao sự chi phối và chiếm dụng trực tiếp tư liệu sản xuất thông qua chủ sở hữu tư nhân đang có những yêu cầu mới, mang hình thức mới. Cụ thể quyền chiếm hữu ở đây biển hiện thêm ở quyền được đầu tư và quyền được hưởng các lợi ích kinh tế. Với hình thức mới này, quyền chiếm hữu một mặt tạo điều kiện cho chủ sở hữu tư nhân hoà nhập vào nền kinh tế mặt khác đảm bảo cho họ có khả năng phát triển tính tích cực như đầu tư mạnh vào sản xuất kinh doanh và tăng tính hữu ích của tư liệu sản xuất. Sự khác nhau thứ hai giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân thể hiện ở việc sử dụng lao động. ở các xí nghiệp Nhà nước một điểm chưa khắc phục được dẫn đến hoạt động kinh tế kém hiệu quả là không khai thác phát huy được sự tận tình, sức sáng tạo của người công nhân đối với công việc. Tuy nhiên, đối với chế độ công hữu tư liệu sản xuất người công nhân khi lao động trong các những Nhà nước được đảm bảo đầy đủ việc thực hiện quyền lao động, các chính sách bảo hiểm bảo vệ người lao động trong mọi trường hợp còn đối với doanh nghiệp tư nhân bản chất của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất vẫn không thay đổi: chủ sở hữu vẫn thông qua các hình thức chiếm hữu để có được lợi nhuận cao nhất. Động lực trực tiếp thúc đẩy mạnh mẽ chủ sở hữu quan tâm đến sản xuất tích luỹ đến chiếm hữu một cách có hiệu quả những cái thuộc về mình xét cho cùng vẫn là lợi nhuận. Vì vậy mà những người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân bị khai thác quá nhiều về sức lao động trong khi việc bảo hiểm, bảo vệ lợi ích của người lao động thì không được quan tâm đó là hạn chế rất lớn của nền kinh tế tư nhân. Việc thừa nhận sự tồn tại khách quan của sở hữu tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH là đúng song không nên quá nhấn mạnh vào mặt nào đó của sở hữu tư nhân. Điều cốt yếu ở đây là làm sao đề ra được chủ trương đúng có bước đi thích hợp vừa thừa nhận sở hữu tư nhân và hướng nó theo con đường mà ta mong muốn. 3.4. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế về lợi ích kinh tế. Trong xã hội hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi chế độ xã hội sẽ qui định hệ thống các lợi ích kinh tế vốn có trong giai đoạn phát triển của nó. Những hình thức chủ yếu về lợi ích trong hệ thống này luôn được đặc trưng bằng tính thống nhất giữa ba nhóm lợi ích căn bản là lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích bản thân người lao động sự thống nhất giữa các hình thức lợi ích kinh tế khác nhau trong xã hội dẫn đến sự liên hệ chặt chẽ và thâm nhập lẫn nhau giữa chúng. Trong đó thì lợi ích của toàn xã hội đóng vai trò chủ đạo bởi vì lợi ích này thể hiện những mục đích và nhiệm vụ phát triển tiến bộ của xã hội và nó cũng bao quát những lợi ích kinh tế của tập thể những người lao động và của mỗi thành viên trong xã hội. Sự thống nhất biện chứng giữa các nhóm lợi ích căn bản trong xã hội thể hiện nếu không có lợi ích toàn dân thì cũng không thể có được lợi ích căn bản của cá nhân và tập thể. Đồng thời nếu không chú ý và thực hiện lợi ích cá nhân thì cũng không thể thực hiện được một cách đầy đủ lợi ích kinh tế của xã hội nói chung hay tập thể những người lao động nói riêng. Trong quá trình thực hiện sự kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế cần nhận thức rõ lợi ích của cá nhân là động lực trực tiếp, mạnh mẽ nhất để có chính sách đúng đắn nhằm lôi cuốn mọi người tham gia xây dựng kinh tế mới. Do tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ nên có sự không đồng nhất về lợi ích kinh tế - xã hội tương ứng với nó có nhiều quy luật kinh tế phát sinh tác dụng trên cơ sở những quan hệ kinh tế tương ứng và cũng trực tiếp quy định sự hình thành các lợi ích kinh tế của tầng giai cấp trong xã hội trong điều kiện nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần nhưng ở nước ta hiện nay. Hiển nhiên vẫn tồn tại những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế và giữa các chủ thể sở hữu khác nhau. Đó là sự khác nhau giữa lợi ích cá thể cục bộ, lợi ích trước mắt. Đứng về lợi ích lâu dài và lợi ích tổng thể các chủ thể kinh tế khác nhau do đều có lợi ích chung như nhau. Chính sự khác nhau về lợi ích kinh tế dẫn đến sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh trên thị trường phản ánh sự cạnh tranh trong sản xuất. Sự khác nhau về lợi ích riêng và thống nhất về lợi ích chung tạo nên mối quan hệ mới, quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa các chủ thể kinh tế khác nhau, dựa trên nền tảng của sở hữu xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó trong kinh tế thị trường chính những yếu tố đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển và làm giảm bớt được sự xung đột đối kháng về lợi ích. Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế đựơc thể hiện thông quan quan hệ phân phối, nghĩa là việc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội. Trong bước quá độ hiện nay ở nước ta có những hình thức phân phối như sau: phân phối theo lao động, phân phối ngoài thu lao, lao động thông qua các quĩ phúc lợi xã hội và phân phối theo tài sẩn vốn và những đóng góp khác. ở nước ta trong thời kỳ quá độ phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất đối với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất, thực hiện việc phân phối giữa những người lao động với nhau thông qua việc lấy lao động làm thước đo. Việc thực hiện phương pháp phân phối này trong điều kiện hiện nay là phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với trạng thái sản xuất và trình độ phát triển kinh tế của đất nước và quan trọng là không tạo ra mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Phân phối theo tài sản vốn và những đóng góp khác là phổ biến ở trong các công ty cổ phần. Hình thức này có mặt tích cực là huy động được vốn cho quá trình sản xuất và kinh doanh nhưng mặt trái của nố là tạo nên mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa những người có nhiều tài sản và những người có ít tài sản làm tăng thêm khoảng cách giữa giàu và nghèo. Phân phối ngoài thu lao lao động thông qua quĩ phúc lợi xã hội hình thức này không phải là hình thức phân phối chính trong xã hội nhưng nó tạo ra sự công bằng về lợi ích. Dưới xã hội chủ nghĩa xã hội mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế phải là mâu thuẫn đối kháng nhưng nó có ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát triển của xã hội. Nhà nước nếu như không có định hướng và điều chỉnh thì mâu thuẫn này có thể trở thành gay gắt có tác động xấu đến nền kinh tế - xã hội. Nhưng nếu biết khai thác nó sẽ là nhân tố thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển tiến bộ. 4. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN. Cơ chế thị trường với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã có tác động tốt đối với việc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, quan niệm cơ bản về phát triển là gắn liền tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh từng bước tiến lên CNXH. Như chúng ta đã biết do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Nền kinh tế nước ta đã bị tụt hậu nghiêm trọng so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó kinh tế thị trường là điều kiện quan trọng để đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng, phục hồi sản xuất đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng bắt kịp với bước tiến của thời đại. Trên cơ sở đó đời sống của con người ngày càng được cải thiện, những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản ngày càng được đáp ứng một cách đầy đủ hơn. Mục tiêu của việc xây dựng các chiến lược phát triển là đạt tới mục tiêu phát triển kinh tế và tìm ra hướng đi tối ưu cho quá trình phát triển đó. 4.1. Điều kiện để phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta. * ổn định chính trị là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cùng với hệ thống chính trị có đầy đủ uy tín sức mạnh, đảm bảo điều hành đất nước tiến lên theo định hướng XHCN. ổn định và phát triển kinh tế chủ yếu và trước hết là ổn định về tài chính, giá cả, kiềm chế lạm phát k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35180.doc
Tài liệu liên quan